Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với đồ dùng trực quan quy ước theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử bài 20” (SGK Lịch sử 12, Chương trình Chuẩn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.63 KB, 39 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học lịch sử
(PPDHLS) nói riêng là nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học. Dạy học lịch sử ở trường phổ thông phải thực hiện nhiệm
vụ giáo dục, giáo dưỡng, phát triển kỹ năng cho học sinh. Trên cơ sở đó khơi dậy ở
học sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm đẹp đẽ, giúp học sinh nhận thức lịch
sử nhân loại, lịch sử dân tộc.
Việc dạy học lịch sử không dừng ở việc cung cấp một số sự kiện, nhân vật
lịch sử, những mẫu chuyện về quá khứ mà cơ bản phải hình thành cho học sinh hệ
thống tri thức khoa học và phương pháp tư duy lịch sử. Hệ thống tri thức lịch sử
cần hình thành cho học sinh khơng chỉ bó hẹp trong sách giáo khoa (SGK), mà cịn
thơng qua các loại tài liệu phong phú và đa dạng, trong đó có tài liệu thành văn.
Lịch sử là những gì đã thuộc về quá khứ, vì vậy để giúp học sinh hiểu và nhận thức
được những kiến thức lịch sử thì giáo viên phải sử dụng đồ dùng trực quan qui ước
trong dạy học lịch sử, qua đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
Mỗi môn học trong nhà trường phổ thơng đều có phương pháp giảng dạy
phù hợp với bộ mơn của mình. Trong phương pháp dạy học lịch sử, việc sử dụng
tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với đồ dùng trực quan qui ước là một trong
những phương pháp cơ bản khơng thể thiếu, góp phần nâng cao chất lượng dạy học
lịch sử, gây hứng thú học tập cho học sinh.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, chất lượng dạy học lịch sử đang suy
giảm một cách đáng báo động. Thực tế cho thấy rằng Lịch sử là mơn học ít được
học sinh u thích; chất lượng mơn Lịch sử đang giảm sút đó là do quan niệm đây
là môn phụ, là môn khô khan với những sự kiện khó nhớ. Quan niệm trên xuất phát
một phần do cách dạy học lịch sử phổ thông hiện nay đó là vẫn tồn tại tình trạng
“đọc, chép” khiến cho học sinh nhàm chán, đây là tình trạng đáng báo động. Mặt
khác còn do giáo viên chưa chú trọng việc rèn luyện việc xây dựng và sử dụng đồ
dùng trực quan quy ước cho học sinh. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng



này như chưa thực hiện nhuần nhuyễn các phương pháp : “dạy học nêu vấn đề,
“lấy học sinh làm trung tâm”,“ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong dạy học”…
trong đó có ngun nhân cơ bản là giáo viên ít sử dụng tài liệu lịch sử thành văn
kết hợp với đồ dùng trực quan quy ước nhằm phát huy tính tích cực học tập cho
học sinh.
Thực tiễn dạy học ở một số trường phổ thông cho thấy, với việc sử dụng tài
liệu lịch sử thành văn kết hợp với đồ dùng trực quan quy ước qua mỗi giờ học lịch
sử đã gây được hứng thú học tập của học sinh và nâng cao hiệu quả của giờ học.
Bài 20 (SGK Lịch sử 12-Chương trình Chuẩn) có rất nhiều tài liệu lịch sử
thành văn và đồ dùng trực quan quy ước nhằm giúp học sinh (HS) nắm được bản
chất các sự kiện đã diễn ra. Đồng thời thông qua những kiến thức lịch sử quan
trọng đó sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục đạo đức, tư tưởng, đặc biệt là
lịng tin cho HS, có ý nghĩa lớn trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh.
Xuất phát từ định hướng về đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường
THPT và để góp phần mang lại hiệu quả cao trong giáo dục, giáo dưỡng, phát triển
giáo viên phải biết sử dụng đa dạng hệ thống phương pháp dạy học để phát huy tư
duy sáng tạo của học sinh, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Sử dụng tài liệu lịch sử thành
văn kết hợp với đồ dùng trực quan quy ước theo hướng phát huy tính tích cực của
học sinh trong dạy học lịch sử bài 20” (SGK Lịch sử 12, Chương trình Chuẩn) ”
2. Lịch sử vấn đề
Các nhà nghiên cứu giáo dục, của nhà sử học, quản lý giáo dục, các nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu. Đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu được cơng
bố góp phần khơng nhỏ trong việc thúc đẩy dạy học nói chung và dạy học lịch sử
nói riêng.
* Ở nước ngồi:
Trong cuốn “ Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào?”. N.G. Đai-ri có đề cập đến
biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan
Ngoài ra, trong cuốn “ Những cơ sở của lý luận dạy học” của B.P.Êxipốp, và
một số tác giả khác như: MF. Bơliov, L.A Gơdơn,… trong các cơng trình nghiên cứu

của mình ít nhiều có đề cập vấn đề kĩ năng và rèn luyện kỹ năng trong dạy học.
2


* Ở trong nước:
Các nhà nghiên cứu về lý luận và phương pháp dạy học lịch sử, như Phan
Ngọc Liên (Chủ biên) trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử” (Tập I và tập II);
cuốn “Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông cấp II” của
Phan Ngọc Liên, Phạm Kì Tá; các tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương
trình, sách giáo khoa mơn Lịch sử lớp 10, 11, 12 do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ
đạo biên soạn… đã đề cập đến vấn đề rèn luyện kĩ năng bộ môn cho học sinh trong
dạy học lịch sử.
Tác giả Trịnh Đình Tùng (Chủ biên) trong cuốn “Hướng dẫn sử dụng kênh
hình trong sách giáo khoa Lịch sử Trung học cơ sở (Phần lịch sử Việt Nam);
Nguyễn Thị Cơi, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Mạnh Hưởng với cuốn “Hướng dẫn sử
dụng kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 Trung học phổ thông”… đã
hướng dẫn cho giáo viên khai thác hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa để
phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
Nguyễn Thị Côi (Chủ biên) trong cuốn “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư
phạm môn Lịch sử” đã nêu lên những vấn đề cơ bản về kĩ năng và việc rèn luyện
kĩ năng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành sư phạm Lịch sử.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên chỉ đề cập đến vấn đề kĩ năng,
rèn luyện kĩ năng một cách chung nhất, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu về
quy trình, biện pháp rèn luyện kĩ năng xây dựng và sử dụng tài liệu lịch sử thành
văn và ĐDTQQƯ cho học sinh trong dạy học lịch sử nói chung, lịch sử Việt Nam
bài 20 (SGK lịch sử 12, Chương trình Chuẩn). Đó là nhiệm vụ trọng tâm mà đề tài
cần giải quyết.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Là quá trình sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với đồ dùng trực quan

quy ước theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử bài
20 (SGK lịch sử 12, Chương trình Chuẩn)
3.2. Phạm vi nghiên cứu và giới hạn đề tài
Xác định đối tượng nghiên cứu nói trên đề tài khơng tập trung nghiên cứu
sâu lý luận về sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với đồ dùng trực quan quy
ước cho cho học sinh trong dạy học lịch sử và kĩ năng bộ môn, mà chủ yếu vận
3


dụng những thành tựu về lý luận dạy học vào việc sử dụng tài liệu lịch sử thành
văn kết hợp với đồ dùng trực quan quy ước cho cho học sinh trong dạy học lịch sử
Việt Nam bài 20 (SGK lịch sử 12, Chương trình Chuẩn) và tiến hành thực nghiệm
sư phạm một số lớp ở trường THPT Long Khánh.
4. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa thành tựu của các tác giả đi trước, đề xuất những nguyên
tắc và biện pháp sư phạm cần tuân thủ để sử dụng tài liệu thành văn kết hợp với đồ
dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử bài 20 (SGK Lịch sử 12, Chương
trình Chuẩn) nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả bài học lịch sử trên tất cả các
mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Sưu tầm tài liệu lịch sử thành văn và xây dựng hệ thống đồ dùng trực quan
quy ước để rèn luyện kĩ năng xây dựng và sử dụng đồ dùng trực quan quy ước
trong dạy học bài 20 (SGK lịch sử 12-Chương trình Chuẩn)và tiến hành thực
nghiệm sư phạm một số lớp ở trường THPT Long Khánh.
- Tiến hành điều tra xã hội học để khẳng định sự cần thiết của việc thực hiện
đề tài
- Đề xuất biện pháp việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với đồ
dùng trực quan quy ước cho cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam bài 20
( SGK lịch sử 12, Chương trình Chuẩn)
- Thực nghiệm sư phạm ở một số lớp ở trường THPT Long Khánh để kiểm

định, đánh giá hiệu quả của đề tài.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của Hồ
Chí Minh, chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước về lịch sử và giáo dục lịch
sử trong nhà trường phổ thông.
- Phương pháp điều tra xã hội học để phát hiện tình hình thực tế và rút ra kết
luận về những thành công và hạn chế của vấn đề nghiên cứu.
- Nghiên cứu và phân tích tài liệu
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm để kiểm định tính khả thi của đề tài.
7. Đóng góp của đề tài
4


-Đề tài khẳng định vai trị, vị trí của tài liệu thành văn kết hợp với đồ dùng
trực quan quy ước trong dạy học lịch sử bài 20 (SGK Lịch sử 12, Chương trình
Chuẩn), nâng cao hiệu quả bài học lịch sử.
- Lựa chọn những tài liệu thành văn kết hợp và đồ dùng trực quan quy ước
phù hợp, có giá trị để nâng cao hiệu quả bài học lịch sử
- Đề xuất nguyên tắc và biện pháp sư phạm cụ thể để sử dụng tài liệu thành
văn kết hợp với đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử bài 20 (SGK Lịch
sử 12, Chương trình Chuẩn) để nâng cao hiệu quả bài học.
8. Cấu trúc của đề tài
Đề tài gồm 3 phần:
Phần mở đầu
Phần nội dung
Phần kết luận

5



NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1. 1. Tài liệu lịch sử
Tài liệu là khâu trung gian giữa nhà sử học và hiện thực được nhà sử học nghiên
cứu. Sự hiểu biết của chúng ta về quá khứ bắt nguồn từ những dấu vết quá khứ để lại,
nghĩa là chủ yếu từ các tài liệu.
Trong nghiên cứu lịch sử, tài liệu đóng vai trị hết sức quan trọng. Bởi vì, trong
quá trình nghiên cứu nhà sử học không trực tiếp quan sát sự kiện lịch sử để khôi phục lại
sự kiện phải dựa trên cơ sở các nguồn tài liệu, thông qua tài liệu để nhận biết quá khứ.
Tài liệu là cơ sở của mọi kết luận khoa học, đặc biệt là khoa học lịch sử.
Tư liệu lịch sử cịn có thêm vài trị đặc biệt quan trọng trong việc đánh giá chất
lượng công trình: “Nhà sử học và sử liệu có quan hệ với nhau, chúng phụ thuộc vào nhau,
chất lượng của cái này không thể đánh giá được, nếu như không biết được chất lượng của
cái kia”.
Do vậy càng xem trọng công tác tư liệu lịch sử bao nhiêu thì thành quả nghiên cứu
sẽ càng đạt chất lượng cao bấy nhiêu. Trong thực tiễn cơng tác nghiên cứu khoa học nói
chung, nhà nghiên cứu dành đại bộ phận thời gian và công sức cho công tác tài liệu.
Như vậy tư liệu lịch sử chính là cái nền của nghiên cứu lịch sử, nền đó càng bền
chắc bao nhiêu thì lâu đài dựng trên nó càng bền vững bấy nhiêu.
Nhà nghiên cứu quan niệm tài liệu lịch sử bao gồm những gì đã tồn tại trong quá
khứ. Ngược lại có người cho rằng: Tài liệu lịch sử là tài liệu phản ánh và ra đời đồng
thời với sự kiện lịch sử…Việc xác định thế nào là tài liệu lịch sử là điều khó và phức tạp
vì hiện tại có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này.
Theo tôi, quan niệm của nhà nghiên cứu Liên Xô (cũ) về tài liệu lịch sử được trình
bày trong “Bách khoa tồn thư” xuất bản năm 1972 là tương đối đầy đủ và hợp lý: Tài
liệu lịch sử là những gì phản ánh trực tiếp quá khứ lịch sử và cho ta khả năng nghiên
cứu quá khứ của xã hội loài người. Nghĩa là tất cả những di sản của xã hội loài ngoài
dưới dạng các hiện vật của nền văn hóa vật chất cho phép ta nhận thức về sự vật đã diễn
ra trong quá khứ.

6


Trên cơ sở định nghĩa này, các nhà nghiên cứu Xơ Viết đã chia tài liệu lịch sử
thành 6 nhóm:
1. Tài liệu chữ viết
2. Hiện vật khảo cổ học
3. Tài liệu dân tộc học
4. Tài liệu ngôn ngữ học
5. Tài liệu truyền miệng
6. Tài liệu băng hình, điện ảnh, ghi âm.
Như vậy nói chung, phạm vi của khái niệm tài liệu lịch sử rất rộng, dường như bao
quát toàn bộ những thông tin về lịch sử của xã hội.

1.1.2. Tài liệu lịch sử thành văn trong dạy học lịch sử
Có thể coi định nghĩa về tài liệu lịch sử trong “Bách khoa tồn thư” thì bao qt
hơn, đầy đủ hơn và sắp xếp khoa học hơn rất nhiều. Vị trí thứ nhất trong 6 nhóm tư liệu
lịch sử đó là tài liệu thành văn.
Tài liệu lịch sử thành văn ra đời cùng chữ viết, chữ viết cũng được sáng tạo trên
cơ sở những yêu cầu ghi nhớ bức thiết của con người mà các hình thức ghi nhớ khác
khơng thỏa mãn được. Tuy nhiên ở những thời kỳ đầu của lịch sử ghi nhớ được ghi chép,
sử liệu thành văn chỉ được phản ánh một mặt hoạt động nhất định của một bộ phận xã hội
- chủ yếu của giai cấp thống trị và bộ phận tăng lữ. Sử liệu viết về nhân dân ra đời muộn
hơn nhưng đa dạng hơn và phản ánh đầy đủ những hoạt động của nhân dân.
Từ khi khoa học kỹ thuật phát triển, đặc biệt là nghề in bằng chữ rời và nghề làm
giấy công nghiệp, tài liệu lịch sử thành văn tăng vọt lên và hầu như chiếm địa vị thống trị
chủ yếu trong các nguồn sử liệu. Ở đây, chúng ta tìm thấy tất cả thông tin về hoạt động của
con người từ sản xuất vật chất cho đến những thành tựu về văn hóa, tinh thần.
Trong học tập lịch sử, học sinh không thể trực tiếp tri giác các sự kiện lịch sử đã
diễn ra trong quá khứ, cho nên không có biểu tượng nảy sinh, từ trực giác đối với sự kiện,

hiện tượng có thật. Vì vậy, tài liệu là chổ dựa cho việc tái tạo lại quá khứ lịch sử. Đó là
giai đoạn nhận thức cảm tính trong học tập lịch sử. Ở giai đoạn tiếp theo, với tư duy trừu
tượng thơng qua hoạt động độc lập, tích cực của tư duy, học sinh tiến đến hiểu những trí
thức trừu tượng, khái quát, đây là giai đoạn nhận thức lý tính của việc học tập lịch sử.

1.1.3. Đồ dùng trực quan quy ước là gì?

7


Đồ dùng trực quan quy ước là những bản đồ, kí hiệu hình học đơn giản được
sử dụng trong dạy học lịch sử, là loại đồ dùng trực quan mà giữa người thiết kế đồ
dùng, người sử dụng và người học có một số quy ước ngầm nào đó (về màu sắc, kí
hiệu hình học đơn giản.
1.1.4.Các loại đồ dùng trực quan quy ước
Trong dạy học lịch sử ở trường THPT, GV thường sử dụng các loại đồ dùng
trực quan quy ước sau:
- Bản đồ lịch sử: Nhằm xác định địa điểm của sự kiện trong thời gian và không
gian nhất định. Đồng thời bản đồ lịch sử còn giúp học sinh suy nghĩ và giải thích
các hiện tượng lịch sử về mối liên hệ nhân quả, về tính quy luật và trình tự phát
triển của quá trình lịch sử, giúp các em cũng cố, ghi nhớ những kiến thức đã học.
Bản đồ lịch sử chia làm hai loại chính sau:
+ Bản đồ tổng hợp: Phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của một
nước hay nhiều nước có liên quan ở một thời kỳ nhất định, trong những điều kiện
tự nhiên nhất định.
+ Bản đồ chuyên đề: Nhằm diễn tả những sự kiện riêng rẽ hay một mặt quá
trình lịch sử, như diễn biến một trận đánh, sự phát triển kinh tế của một nước trong
một giai đoạn lịch sử.
- Niên biểu: Hệ thống hóa các sự kiện quan trọng theo thứ tự thời gian đồng
thời nêu lên mối liên hệ giữa các sự kiện cơ bản. Vì vậy, trong dạy học lịch sử, GV

nên sử dụng niên biểu để cũng cố kiến thức cho HS một cách có hệ thống. Niên
biểu chia làm ba loại chính sau:
+ Niên biểu tổng hợp: Là bảng liệt kê những sự kiện lớn xảy ra trong một thời
gian dài. Loại niên biểu này giúp HS không những ghi nhớ những sự kiện chính,
mà cịn nắm được các mốc thời gian đánh dấu mối quan hệ của các sự kiện quan
trọng... Niên biểu tổng hợp cịn trình bày những mặt khác nhau của một sự kiện
xảy ra ở một nước trong một thời gian hay trong nhiều thời kỳ.
+ Niên biểu chuyên đề: Là loại niên biểu nhằm đi sâu trình bày nội dung một
vấn đề quan trọng nỗi bật nào đó của một thời kỳ nhất định, giúp HS nhận thức
được bản chất của sự kiện một cách toàn diện và đầy đủ.
8


+ Niên biểu so sánh: Dùng để so sánh, đối chiếu các sự kiện, các giai đoạn lịch
sử nhằm làm nổi bật bản chất, đặc trưng của các sự kiện ấy, hoặc để rút ra một kết
luận khái quát có tính chất nguyên lý.
- Đồ thị dùng để diễn tả quá trình phát triển, sự vận động của một sự kiện lịch
sử, trên cơ sở sử dụng số liệu, tài liệu thống kê trong bài học. Đồ thị có thể biểu
diễn bằng một mũi tên để minh họa sự vận động đi lên, sự phát triển của một hiện
tượng lịch sử, hoặc được biểu diễn trên một trục tọa độ.
- Sơ đồ: Nhằm cụ thể hóa nội dung sự kiện bằng những kí hiệu hình học đơn
giản, diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa các
sự kiện lịch sử.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Mục đích điều tra
- Tìm hiểu trong dạy học môn Lịch sử ở trường phổ thông, giáo viên có chú trọng
việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ trong dạy học lịch sử
bài 20 (SGK Lịch sử 12, Chương trình Chuẩn)
- Từ kết quả điều tra tạo cơ sở thực tế , từ đó đối chiếu với lý luận, đề xuất
những hình thức sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ trong dạy

học lịch sử .
- Từ kết quả nghiên cứu tôi đề xuất những kiến nghị để việc sử dụng tài liệu lịch
sử thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ trong dạy học lịch sử bài 20 (SGK Lịch sử 12,
Chương trình Chuẩn).
1.2.2. Nội dung điều tra
Đối với GV, kết hợp dự giờ thăm lớp với các phương pháp khác như phỏng
vấn, hỏi chuyện, trả lời phiếu điều tra, tập trung vào một số vấn đề sau:
- Những thuận lợi và khó khăn khi sử việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn
kết hợp với ĐDTQQƯ trong DHLS.
- Phương pháp, cách thức sử việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp
với ĐDTQQƯ trong DHLS hiện nay của GV.
- Ý kiến đề xuất của GV về việc sử dụng việc sử dụng tài liệu lịch sử thành
văn kết hợp với ĐDTQQƯ trong DHLS ở trường THPT hiện nay.
Đối với HS, tôi tập trung vào một số vấn đề chủ yếu:
9


- Thái độ, tinh thần học tập bộ môn Lịch sử nói chung của HS ở trường
THPT.
- Nhận thức của HS về tác dụng của kiến thức lịch sử với cuộc sống.
- Phương pháp học tập môn Lịch sử của HS.
- Mức độ hứng thú và khả năng ghi nhớ của HS khi thầy (cô) sử việc sử
dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ trong DHLS.
1.2.3. Kết quả điều tra
- Về phía giáo viên :
Về mức độ cần thiết phải việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với
ĐDTQQƯ trong DHLS đều thừa nhận và khẳng định, vai trị to lớn khơng thể thiếu
của việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ trong DHLS, nếu
biết việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ sẽ đem lại hiệu
quả dạy học cao , góp phần làm cho giờ học lịch sử sinh động, tạo hứng thú cho

HS, giúp các em nhận thức bài học lịch sử sâu sắc hơn. Tuy nhiên, trong thực tế
giảng dạy, việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ vào nhiều
yếu tố khách quan và chủ quan. Một trong số GV được điều tra cho rằng họ chưa
tự tin để việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ vì mới ra
trường, kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều sợ cháy giáo án, có nhiều người cũng
thấy sự cần thiết nhưng ngại sử dụng vì phải sưu tầm, mất nhiều thời gian, tốn
kém. Mức độ sử dụng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: yếu tố về khả năng đổi mới
phương pháp, năng lực sư phạm của GV, yếu tố về nguồn Mức độ sử dụng phụ
thuộc vào nhiều yếu tố: yếu tố về khả năng đổi mới phương pháp, năng lực sư
phạm của GV, yếu tố về nguồn tài liệu lịch sử thành văn, yếu tố về tài liệu hướng
dẫn sử dụng ĐDTQQƯ …
Khi được hỏi về phương pháp, cách thức việc sử dụng tài liệu lịch sử
thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ, một số GV có năng lực, tâm huyết đã tìm thấy ở
việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ là phương tiện dạy học
đắc lực khơng chỉ để minh họa cho bài giảng mà cịn là nguồn cung cấp kiến thức
mới, là phương tiện tiến hành ơn tập, kiểm tra có hiệu quả, sinh động, hấp dẫn. Mặt
khác, việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ còn giúp GV
tiến hành bài giảng một cách thuận lợi khi cụ thể hóa về sự kiện, hiện tượng hay
một quá trình lịch sử.
10


- Về phía học sinh:
Cơng tác điều tra được tiến hành bằng các câu hỏi trắc nghiệm khách quan và
câu hỏi mở để học sinh bày tỏ ý kiến về vấn đề nêu trên, tập trung vào một số nội
dung sau đây :
+ Sự hứng thú của các em về bộ môn lịch sử.
+ Những hiểu biết của các em về sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp
với ĐDTQQƯ trong dạy học lịch sử Việt Nam.
+ Ý nghĩa, vai trò của việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với

ĐDTQQƯ trong dạy học lịch sử Việt Nam .
+ Tiếp thu những ý kiến khác về hoạt động này.
Qua xử lý phiếu điều tra, trao đổi trực tiếp với học sinh, tôi nhận thấy:
Đa số các em ở trường được điều tra vẫn thích học bộ môn Lịch sử. Các em
cũng nhận thức đúng về tác dụng mang lại của bộ môn Lịch sử với thực tiễn cuộc
sống nên có ý thức tích lũy, tìm tòi, suy ngẫm. Các em cũng cho rằng, việc GV sử
dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ trong dạy học lịch sử làm cho
các em hứng thú học tập hơn, nhớ sâu hơn các sự kiện, có cái nhìn cụ thể hơn về sự
kiện, hiện tượng lịch sử, nâng cao hiệu quả bài học hơn, cho HS các kiến thức bổ
trợ giúp HS nhanh tiếp thu bài và hiểu sâu hơn các kiến thức cơ bản của bài học.
Bên cạnh đó, vẫn cịn nhiều em vẫn chưa hứng thú và chăm chú theo dõi bài, việc sử
dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ trong DHLS làm cho các em
thấy nặng nề và nhàm chán.,chưa thực sự hứng thú học tập lịch sử, đặc biệt chưa
biết cách chủ động tiếp nhận kiến thức lịch sử.
1.2.4. Kết luận rút ra
Từ việc xử lí kết quả điều tra trên, tôi đi đến những kết luận sau:
- Sử dụng sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ trong dạy học
lịch sử ở trường THPT là cần thiết nhằm làm sinh động, phong phú bài giảng, tạo
sự hấp dẫn, thu hút được sự hứng thú học tập; giúp các em hiểu bản chất sự kiện
lịch sử, sử dụng tốt tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ cịn có tác dụng
trong việc phát triển tư duy, năng lực nhận thức độc lập cho các em; góp phần to
lớn trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, tình yêu quê hương, biết trân trọng
11


những giá trị truyền thống của cha ông trong quá khứ.
- Đa số giáo viên có sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ
còn lúng túng trong việc sưu tầm, lựa chọn, sử dụng trong giảng dạy. Nếu có sử
dụng, giáo viên chỉ thực hiện ở mức độ minh họa chứ chưa xem đó là nguồn nhận
thức làm cho bài giảng thêm nặng nề, thiếu tính hấp dẫn, đơi khi cịn làm lỗng

trọng tâm bài học. Mặc khác, đa số giáo viên còn chưa chú trọng đầu tư thời gian,
công sức cho việc sưu tầm, lựa chọn.Chính điều này đã làm cho việc ghi nhớ kiến
thức của các em trở nên máy móc, thiếu chiều sâu và thiếu tính hình ảnh cụ thể,
do đó các em sẽ khơng có được khả năng tư duy lơgic cần thiết.
- Đa số học sinh chưa thực sự hứng thú với việc học tập bộ môn lịch sử, điều
này do nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan. Trong đó việc sử dụng sử
dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ của giáo viên trong dạy học
lịch sử cịn sơ sài, thiếu hấp dẫn.
Tóm lại, qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn thì việc sử dụng tài liệu lịch sử
thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ trong DHLS là một phương thức có hiệu quả
trong đổi mới PPDH. Nếu GV ý thức đúng vai trò, ý nghĩa củaviệc sử dụng tài liệu
lịch sử thành văn kết hợp với ĐDTQQƯ trong DHLS và đầu tư sử dụng chúng có
chất lượng sẽ đưa lại hiệu quả đáng kể trong sự nghiệp đổi mới PPDH và nâng cao
chất lượng dạy học bộ môn. Tuy nhiên, nhận thức và các biện pháp thực hiện của
giáo viên cịn rất nhiều bất cập.Vì vậy, chúng tôi nhận thấy sự cần thiết phải đề ra
những biện pháp thiết thực nhằm rèn luyện kĩ năng xây dựng và sử dụng
ĐDTQQƯ cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường
THPT.
II. CÁC BIỆN PHÁP SỬ DỤNG TÀI LIỆU LỊCH SỬ THÀNH VĂN KẾT
HỢP ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN QUY ƯỚC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
VIỆT NAM BÀI 20 (SGK 12, CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)
2.1. Hệ thống tài liệu lịch sử thành văn và đồ dùng trực quan quy ước cần
khai thác, sử dụng trong dạy học lịch sử bài 20 (SGK 12, Chương trình
Chuẩn)
Tên bài

Mục bài

Nội dung kiến thức


Hệ thống tài liệu
12


thành văn và đồ dùng
liên quan

trực quan qui ước sử

Bài 20

dụng
I. Âm mưu Mĩ can thiệp sâu vào Niên biểu về việc Mĩ

Cuộc

mới

chiến

tranh viện trợ cho Pháp trong

kháng

Pháp – Mĩ ở Đơng Dương

cuộc chiến tranh ĐD

của cuộc


chiến tồn Đơng

(xem phụ lục 18)

quốc

Dương : Kế

chống

hoạch Nava

thực dân
Pháp kết

II. Cuộc tiến

thúc (1953 cơng
– 1954)

chiến

lược Đơng –
xn

1953-

1954




chiến

dịch

lịch sử Điện
Biên Phủ

Chủ

trương,

kế Lược đồ hình thái chiến

1. Cuộc tiến hoạch của ta trong trường trong đông công

chiến cuộc tiến công chiến xuân 1953 – 1954 (xem

lược Đông – lược Đông – xuân phụ lục 17)
Xuân 1953- 1953-1954
1954.
“Trước âm mưu mới của
Pháp- Mỹ… đồng thời
đẩy mạnh hoạt động của
các chiến trường sau
lưng địch”. (xem phụ
lục 3)


đồ


về

phương
13


hướng chiến lược và
cuộc tiến công đông –
xuân 1953 – 1954 của
ta.
(xem phụ lục 11)
2.

Chiến

dịch lịch sử Chủ trương của ta

Sơ đồ giải thích vì sao

Điện

cả ta và Pháp đều chọn

Biên

Phủ (1954)

ĐBP làm điểm quyết
chiến chiến lược. (xem

Chuẩn bị chiến dịch

phụ lục 12)
“Để chuẩn bị chiến dịch
ĐBP... Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân
dân.”
(xem phụ lục 6)
“ĐBP thuộc tỉnh Lai
Châu... đổ xuống sơng
Nậm Hu…”(xem phụ
lục 7)
Sơ đồ tập đồn cứ điểm
Điện Biên Phủ (xem

Diễn biến chiến dịch phụ lục 15)
lịch sử Điện Biên Sơ đồ chiến dịch lịch
Phủ (1954)

sử Điện Biên Phủ
(xem phụ lục 14)
“Phan

Đình

Giót

(1922- 13 tháng 3 năm
1954), là anh hung…
trận đánh mở màng

14


chiến dịch Điện Biên
Phủ” (xem phụ lục 5)
“Tối 1/5, quân ta xung
phong...

Chiến

dịch

ĐBP hoàn toàn thắng
lợi”.
(xem phụ lục 8)
“Tướng De Castries (Đờ
Cát-xtơ-ri)… sau 8 tuần
chiến đấu”.
(xem phụ lục 11)
“Đây là hình ảnh các
chiến sĩ… sở chỉ huy
địch”.
(xem phụ lục 9)
III.

Hiệp

định
Giơnevơ
1954


về

chấm

dứt

chiến tranh,
lập lại hịa
bình ở Đơng
Dương.

Hội nghị Giơnevơ

“Bước vào đơng- xn
1953-

1954...

giải

1. Hội nghị

phóng

được

miền

Giơ-ne-vơ.


Bắc”.
(xem phụ lục 10)

15


Nội dung Hiệp định
Giơnevơ

Sơ đồ nội dung Hiệp

2. Hiệp định

định Giơnevơ

Giơ-ne-vơ.

(xem phụ lục 16)

2.2. Các biện pháp sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp đồ dùng trực
quan quy ước trong dạy học lịch sử Việt Nam bài 20 (SGK 12- Chương trình
Chuẩn)
2.2.1. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp đồ dùng trực quan quy ước để
cụ thể hóa các hiện tượng, sự kiện lịch sử.
Trong dạy học lịch sử, HS là đối tượng và chủ thể của nhận thức lịch sử,
nhưng do đặc trưng của môn học, các em không thể trực tiếp quan sát quá khứ.
Dưới sự giảng dạy, hướng dẫn của giáo viên, học sinh phát huy tính tích cực, năng
động nhận thức, thông minh sáng tạo để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo
dục, phát triển môn học theo những quy định.

Do tính tồn diện của việc học tập lịch sử, các khóa trình và bài giảng cung
cấp cho học sinh nhiều loại sự kiện thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội, như: sự kiện về kinh tế, chính trị, qn sự, văn hóa – xã hội…Muốn học sinh
có hiểu biết đầy đủ về sự kiện, cụ thể hóa các hiện tượng, lịch sử, tăng thêm tính
sinh động, gợi cảm của bài giảng, gây hứng thú học tập, cần phải sử dụng nguồn
tài liệu thành văn kết hợp với đồ dùng trực quan quy ước.
Ví dụ: khi dạy về kế hoạch tác chiến đông – xuân 1953 – 1954 , để giúp HS hiểu
rõ về kế hoạch ta vạch ra, GV có thể sử dụng sơ đồ về phương hướng chiến lược
và cuộc tiến công đông – xuân 1953 – 1954 của ta:
Sơ đồ về phương hướng chiến lược và cuộc tiến công đông – xuân 1953 – 1954
của ta.
Phương hướng chiến lược và cuộc tiến
công đông – xuân 1953 – 1954 của ta.

16


Phương hướng chiến lược

Tập trung
lực lượng
mở
cuộc
tiến công
vào những
hướng
quan trọng

địch
tương đối

yếu

Buộc
địch phải
phân tán
lực
lượng,
tạo điều
kiện
thuận lợi
cho ta.

Hướng tiến công của ta trong
đông – xuân 1953 – 1954.

Bắc Bộ

Điện Biên
Phủ

Buộc địch phải
phân tán lực
lượng thành 5
địa điểm.

Luông
Pha Băng

Plâycu


Mường
Sài

kết hợp với đoạn tài liệu thành văn sau:
“Trước âm mưu mới của Pháp- Mỹ trong cuộc chiến tranh Đơng Dương, tháng
9/1953, Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp tại khu núi
Hồng, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên (thuộc Căn cứ địa Việt Bắc) để bàn về
chủ trương tác chiến Đông- Xuân 1953- 1954… Đại tướng Võ Nguyên Giáp
thay mặt Tổng quân ủy trình bày hai phương án tác chiến do Bộ tham mưu
chuẩn bị. Thứ nhất, phương án tập trung toàn bộ hay phần lớn chủ lực đối phó
với địch ở đồng bằng Bắc Bộ. Thứ hai, phương án điều động lực lượng mở các
cuộc tiến công vào các hướng khác. Bộ Chính trị đã phân tích tình hình, chỉ ra
chỗ mạnh, chỗ yếu của địch cũng như của ta, cuối cùng quyết định đưa bộ đội
chủ lực ta lên hướng Tây Bắc, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó, ta
nhân đó tranh thủ tiêu diệt sinh lực của chúng, đồng thời đẩy mạnh hoạt động
của các chiến trường sau lưng địch”. [3, tr. 170- 171]
Việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp đồ dùng trực quan quy ước để cụ
thể hóa các hiện tượng, sự kiện lịch sử đang học sẽ giúp HS khâm phục đối với sự
17


tài tình, sáng suốt của Đảng và Bác Hồ kính yêu, bồi dưỡng cho HS lòng yêu nước,
lòng tự hào dân tộc.
Như vậy, việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp đồ dùng trực quan
quy ước để cụ thể hóa các hiện tượng, sự kiện lịch sử đang học, nhằm tạo cho HS
có biểu tượng rõ ràng, cụ thể có hình ảnh, tăng thêm tính chất sinh động, gợi cảm
của bài giảng và gây hứng thú cho việc học tập của các em.
2.2.2. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp đồ dùng trực quan quy ước để
tạo biểu tượng về sự kiện, nhân vật lịch sử
Do đặc điểm của nhận thức lịch sử là học sinh không thể trực quan sinh động

những sự kiện, hiện tượng lịch sử đã xảy trong quá khứ cho nên trong quá trình
giảng dạy, người giáo viên phải giúp HS nắm các sự kiện, hiện tượng lịch sử để từ
đó các em hình thành những biểu tượng về nhân vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Tài liệu lịch sử thành văn kết hợp đồ dùng trực quan quy ước được sử dụng để
cụ thể hóa các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử đang học nhằm tạo cho HS có biểu
tượng rõ ràng, cụ thể, có hình ảnh cụ thể về sự kiện, nhân vật lịch sử đó.
Việc tạo biểu tượng lịch sử cịn có ý nghĩa giáo dục lớn đối với HS và chỉ
thơng qua những hình ảnh cụ thể, sinh động, có sức gợi cảm mới tác động mạnh
mẽ đến tư tưởng tình cảm của các em.
Sử dụng tài liệu thành văn kết hợp đồ dùng trực quan quy ước để phát huy
tính tích cực trong DHLS sẽ mạng lại cho HS nhận thức chính xác, sinh động về sự
kiện, nhân vật, trên cơ sở đó tạo cho các em những cảm xúc lịch sử mạng mẽ, sâu
sắc. Đó chính là con đường có hiệu quả để tạo biểu tượng, hình thành khái niệm,
nêu quy luật và rút bài học lịch sử.
Trong quá trình DHLS, người giáo viên cũng cần phải khắc sâu vào trí nhớ
HS những hình ảnh, những thơng tin về các nhân vật (cả nhân vật chính diện và cả
nhân vật phản diện), hay nói cách khác là hình thành cho học sinh những biểu
tượng về nhân vật lịch sử.
Ví dụ: Khi giảng bài 20: “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
kết thúc (1953- 1954)”, mục II.2 “Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954)”, (SGK
Lịch sử 12, Chương trình Chuẩn), dạy về nội dung “Quân ta tiêu diệt cụm cứ điểm
18


Him Lam”, giáo viên sử dụng tài liệu thành văn nói về nhân vật Phan Đình Giót:
Phan Đình Giót sinh ở làng Tam Quang, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, trong một
gia đình nghèo. .. Chiều ngày 13 tháng 3 năm 1954, đơn vị của ông nổ súng tiêu diệt
Him Lam. Bộ đội đại đội 58 lao lên mở đường, đã liên tiếp đánh đến quả bộc phá thứ
tám, Phan Đình Giót đánh quả thứ chín thì bị thương vào đùi nhưng vẫn xung phong
đánh tiếp quả thứ mười. Quân Pháp tập trung hỏa lực trút đạn như mưa xuống trận

địa. Bộ đội bị thương vong nhiều. Sau đó, Phan Đình Giót đánh tiếp hai quả nữa, phá
hàng rào cuối cùng, mở thông đường để quân đội lên đánh lô cốt đầu cầu. Quân
Pháp hoang mang, tận dụng thời cơ, Phan Đình Giót vọt tiến cơng lơ cốt số 2, ném
thủ pháo, bắn kiềm chế cho đơn vị tiến lên. Trong đợt này, Phan Đình Giót bị thương
vào vai, mất máu nhiều. Bất ngờ, hỏa điểm lô cốt số 3 của lính Pháp bắn mạnh. Lực
lượng xung kích của Việt Nam bị ùn lại, Phan Đình Giót tiến đến lơ cốt số 3 với ý
nghĩa là dập tắt ngay lô cốt này. Phan Đình Giót đã dúng sức (khi đã bị thương, mất
máu) nâng tiểu liên bắn vào châu mai, miệng hơ tơ: “Quyết hy sinh...vì Đảng...vì
dân”. Rồi sau đó, Phan Đình Giót lao cả thân mình vào bịt kín lỗ châu mai. Hỏa
điểm bị dập tắt, quân Việt Nam tiếp tục xung phong tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam
vào ngày 13 tháng 3 năm 1954,
giành thắng lợi trong trận đánh
mở màng chiến dịch Điện Biên
Phủ [15]
GV kết hợp với sơ đồ chiến dịch
Điện Biên Phủ sau:

Sơ đồ chiến dịch Điện Biện Phủ 1954

Trên cơ sở nội dung sách giáo khoa, đoạn tài liệu thành văn về hình ảnh nhân
vật Phan Đình Giót kết hợp với sơ đồ chiến dịch Điện Biên Phủ, GV giúp các em
19


HS thấy được tinh thần chiến đấu kiên cường bất khuất của người chiến sĩ cách
mạng vì mục tiêu đánh đuổi xâm lược, giành độc lập dân tộc. Đó chính là truyền
thống yêu nước, tinh thần kiên cường, anh dũng, ý chí chiến đấu bất khuất vì độc
lập, tự do của dân tộc ta luôn nung nấu trong mỗi người dân Việt Nam, hình thành
nên lịng u nước, lịng khâm phục, tự hào anh hùng dân tộc. Qua đó giáo dục
truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta, lòng biết ơn sâu sắc

đối với sự hy sinh của cha ơng ta vì độc lập dân tộc và HS có thể hiểu được quân ta
tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam giành thắng lợi trong trận đánh mở màng chiến dịch
Điện Biên Phủ, một thắng lợi có ý nghĩa quan trọng đóng góp trong sự tồn thắng của
chiến dịch Điện Biên Phủ
2.2.3. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp đồ dùng trực quan quy ước để
giải thích sự kiện lịch sử, khái niệm, thuật ngữ
Sự kiện lịch sử đã diễn ra trong quá khứ khơng lặp lại ở hiện tại và tương lai,
vì vậy, học sinh sẽ khó hiểu. Với việc sử dụng tài liệu thành văn kết hợp đồ dùng
trực quan quy ước để giải thích một sự kiện lịch sử là một trong những biện pháp
quan trọng giúp GV giải thích sự kiện lịch sử, khái niệm, thuật ngữ và giúp học
sinh hiểu biết được bản chất của sự kiện, càng làm cho học sinh thêm hứng thú học
tập bộ môn lịch sử.
Ví dụ: Khi giảng mục II.2 “Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954)” bài 20 (SGK
Lịch sử 12, Chương trình Chuẩn) GV giải thích được vì sao cả ta và địch đều chọn
ĐBP làm điểm quyết chiến chiến lược, GV có thể cung cấp đoạn tư liệu miêu tả về
vị trí chiến lược của ĐBP sau:
“ĐBP thuộc tỉnh Lai Châu, là một thung lũng rộng lớn nằm ở phía tây của
vùng rừng núi Tây Bắc, cách Hà Nội khoảng 300 km đường chim bay, cách
Luôngphabang 190 km. Thung lũng Điện Biên (cánh đồng Mường Thanh)
có chiều rộng từ 6 – 8 km, chiều dài gần 20 km, nằm gần biên giới Việt Lào,
một ngã ba của nhiều tuyến đường quan trọng. Xung quanh thung lũng là
một vùng rừng núi trùng điệp bao bọc. Núi có độ cao trung bình 500 mét, có
mỏm đột xuất cao 1.461 km. Thung lũng Điện Biên là cánh đồng bằng
phẳng, đồng ruộng khô ráo, thỉnh thoảng nổi lên những đồi cao hơn mặt
20


ruộng 8 – 20 mét, cá biệt có điểm cao tới 250 mét. Trong thung lũng có sơng
Nậm Rốn chảy theo hướng Bắc Nam đổ xuống sông Nậm Hu… [13, tr. 131]
Cùng kết hợp với sơ đồ giải thích vì sao cả ta và Pháp đều chọn ĐBP làm điểm

quyết chiến chiến lược.

Sơ đồ giải thích vì sao cả ta và Pháp đều chọn
ĐBP làm điểm quyết chiến chiến lược.

Phán đoán của ta

Đánh nhau
ở ĐBP ta sẽ
thắng

Phán đoán của địch

Đánh nhau
ở ĐBP địch
sẽ thắng

Ta và địch quyết định chọn ĐBP
làm trận quyết chiến.

Như vậy, với việc sử dụng tài liệu thành văn kết hợp đồ dùng trực quan quy ước để
giải thích một sự kiện lịch sử là một trong những biện pháp quan trọng giúp GV
giải thích được vì sao cả ta và địch đều chọn ĐBP làm điểm quyết chiến chiến
lược, qua đó giúp HS hiểu biết được bản chất của sự kiện và gây thêm hứng thú
cho học sinh khi học tập bộ môn lịch sử.
2.2.4. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp đồ dùng trực quan quy ước để
giải quyết các câu hỏi nhận thức và bài tập nhận thức
Trong quá trình hướng dẫn học sinh nhận thức, GV cần tạo ra những tình
huống có vấn đề ở các mức độ khác nhau phù hợp với trình độ của HS trong lớp.
Phương pháp dạy học tạo ra những tình huống có vấn đề thường là đặc trưng của

các câu hỏi nhận thức (câu hỏi phát hiện). Đây là loại câu hỏi yêu cầu học sinh trên
cở sở tài liệu, sự kiện cơ bản nêu ra những mối liên hệ bên trong giữa chúng,
nghĩa là các em phải suy nghĩ trả lời để tìm ra kiến thức mới.
“Tình huống có vấn đề” là thời điểm thể hiện mâu thuẫn trong nhận thức của
học sinh để nhận ra điều mình chưa biết, mà chưa giải quyết được. Tình hình này
21


buộc học sinh phải quyết tâm tìm hiểu, chứ khơng khoanh tay khuất phục. Việc
giải quyết vấn đề là tiến hành tìm hiểu, làm sáng tỏ những điều chưa biết để biết.
Thơng qua việc giải quyết tình huống vấn đề chắc chắn sẽ phát huy tính tích cực
của học sinh .
Trong dạy học lịch sử, tài liệu thành văn kết hợp đồ dùng trực quan quy ước
là một trong những biện pháp quan trọng có thể sử dụng nhằm tạo ra tình huống có
vấn đề lịch sử. Qua đó, tạo sự hứng thú và tạo tâm thế cho HS giải quyết các vấn
đề đặt ra, góp phần hồn tành nhiệm vụ giờ học.
Các nhà nghiên cứu phương pháp dạy học lịch sử thống nhất rằng, bài tập
nhận thức phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
- Làm cho học sinh nhận thức được các sự kiện lịch sử cơ bản, mối liên hệ
giữa chúng với nhau.
- Khôi phục được các bức tranh lịch sử một cách khách quan như nó đã xảy
ra theo trình độ và yêu cầu của từng lớp học.
- Phân tích các sự kiện trong tình huống có vấn đề, rút ra được bản chất đặc
trưng các sự kiên, quy luật lịch sử.
- Vận dụng các kiến thức đã biết để nhận thức bài mới, phục vụ hoạt động
thực tiễn, phát triển năng lực sáng tạo và năng lực thực hành của HS.
Như vậy bài tập nhận thức được diễn đạt dưới dạng câu hỏi hoặc có ý kiến
khác nhau mà giáo viên đưa ra cho học sinh đánh giá để trả lời bài tập giáo viên
đưa ra học sinh vận dụng các thao tác tư duy như phân tích - tổng hợp, so sánh đối chiếu trong trí tuệ của học sinh. Do đó bài tập nhận thức rèn luyện năng lực
tích cực, độc lập suy nghĩ khi giải quyết vấn đề nhằm phát triển tư duy, phát triển

khả năng lập luận, lý giải cho học sinh, học sinh sẽ giành được kiến thức, phương
pháp suy luận, phương pháp nghiên cứu và cả niềm vui sướng của sự tìm tịi phát
hiện.
Đối với giờ học lịch sử nội khóa, việc thiết kê bài tập trên cơ sở tài liệu
thành văn kết hợp đồ dùng trực quan quy ước có thể nêu ra vào đầu giờ học hoặc
trước mỗi mục nhằm tập trung sự chú ý và lôi cuốn HS. Câu hỏi phải mang tính

22


chất là một bài tập nhận thức nhưng phải tập trung vào những nội dung cơ bản của
bài học.
Ví dụ, khi dạy học bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
kết thúc (1953-1954), mục II.2. Chiến dịch ĐBP (1954), GV tạo ra tình huống có
vấn đề như sau: Xương sống của kế hoạch Nava là tìm cách xây dựng một đội
quân cơ động mạnh tại chiến trường chính Bắc Bộ (44/84 tiểu đồn), đủ sức đối
phó với các cuộc tiến công của quân đội ta và khi có điều kiện thì sẽ tiến hành một
cuộc giao chiến lớn (chưa xác định địa điểm) để kết thúc chiến tranh. ĐBP khơng
hề được đề cập đến trong tồn bộ nội dung cụ thể của kế hoạch Nava. Thế nhưng,
chỉ hơn 4 tháng sau, ngày 3/12/1953, Nava đã chính thức chọn ĐBP làm nơi tiến
hành một trận chiến đấu, một điều chưa hề được dự kiến trước. Đến thời điểm này,
ĐBP đã trở thành trung tâm điểm của kế hoạch Nava. Vậy tại sao Nava chọn ĐBP
làm điểm quyết chiến chiến lược?.
Trong trường hợp này, GV đã có thể tạo ra một mâu thuẫn trong nhận thức
của các em giữa một điều đã biết là nội dung của kế hoạch Nava và điều chưa biết
là tại sao Nava lại chọn ĐBP làm điểm quyết chiến chiến lược và các em cảm thấy
hứng thú tìm hiểu nguyên nhân của sự kiện lịch sử này. Vì thế, đứng trước một vấn
đề nhận thức như vậy, HS tính tích cực chú ý hơn khi tham gia giải quyết vấn đề
nhận thức dưới sự tổ chức của GV. Việc giải quyết có hiệu quả vấn đề nhận thức
của HS sẽ kích thích hơn nữa hứng thú tìm hiểu nội dung sự kiện, hiện tượng lịch

sử để thỏa mãn nhu cầu nhận thức của các em.
Và GV kết hợp với đoạn tài liệu lịch sử thành văn sau để minh họa rõ hơn vì sao
Nava đã nhận định “ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thành một “pháo đài bất khả
xâm phạm”, một “pháo đài mạnh nhất chưa từng có ở Đơng Dương”:
“…từ 0h ngày 7/12/1953, Đại tá De Castries nắm quyền chỉ huy Binh đoàn tác
chiến Tây Bắc và chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên phủ. Ông ta đã cố xây
dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thành một “pháo đài bất khả xâm
phạm”, một “pháo đài mạnh nhất chưa từng có ở Đơng Dương”. Chính Nava
đã nhận định: khơng một quan chức dân sự, quân sự nào kể cả Pháp lẫn Mỹ
đến thăm Điện Biên Phủ mà không ngạc nhiên về sức mạnh phòng thủ. Nhưng
23


“con nhím” Điện Biên Phủ ấy đã phải thất thủ trước những người lính “bộ đội
Cụ Hồ”, dưới sự chỉ huy tài ba của Đại tướng- Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp
sau 8 tuần chiến đấu”. [14]
Kết hợp với Sơ đồ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ

Như vậy, việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp đồ dùng trực quan quy ước
đã có thể giúp HS giải quyết các câu hỏi nhận thức và bài tập nhận thức, tăng
thêm hứng thú khi học tập bô môn lịch sử.
2.2.5. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn và đồ dùng trực quan quy ước kết
hợp với tranh ảnh
Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn và đồ dùng trực quan quy ước kết hợp
tranh ảnh trong dạy học lịch sử ở trường THPT là rất cần thiết . Biện pháp này nếu
thực hiện tốt thì sẽ góp phần vào việc giúp HS phát huy tính tích cực, độc lập, sáng
tạo, đó là nâng cao chất lượng bài học lịch sử. Đặc biệt, trong quá trình lịch sử tùy
theo những điều kiện cụ thể mà GV vận dụng một cách linh động sáng tạo biện pháp
này vì khơng có điều kiện sư phạm nào là vạn năng mà còn phụ thuộc vào điều kiện
cụ thể của từng đối tượng.

Tuy nhiên, để đảm bảo về mặt thời gian, đảm bảo kiến thức cơ bản thì trong
quá trình lựa chọn tài liệu thành văn và đồ dùng trực quan quy ước kết hợp tranh
ảnh trong dạy học lịch sử, người giáo viên phải chú ý đến sự phù hợp để đưa vào
24


giảng dạy giữa các đoạn tài liệu thành văn và đồ dùng trực quan quy ước với nội
dung tranh ảnh để đưa vào giảng dạy. Có như thế mới phát huy tối đa tác dụng của
việc sử dụng tài liệu thành văn và đồ dùng trực quan quy ước kết hợp tranh ảnh
trong dạy học lịch sử để giải thích nội dung tranh ảnh trong dạy học lịch sử.
Ví dụ, khi dạy học bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết
thúc (1953-1954), mục III.Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về chấm dứt chiến tranh,
lập lại hịa bình ở Đơng Dương, Gv có thể sử dụng đoạn tài liệu thành văn
“Bước vào đông- xuân 1953- 1954, đồng thời với cuộc tiến công
quân sự ta đẩy mạnh cuộc đấu tranh ngoại giao, mở rộng khả năng giải
quyết bằng con đường hịa bình cuộc chiến tranh ở Đơng Dương. Hội nghị
Giơnevơ (Thụy Sỹ) họp từ 8/5 đến 21/7/1954, giữa các bộ trưởng ngoại
giao các nước Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Hoa Kỳ, Pháp, Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, Vương quốc Campuchia, Vương quốc Lào và Chính quyền
Bảo Đại, nhằm bàn về vấn đề chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Đơng Dương. Đại diện phái đồn của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hịa là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng đã
trình bày lập trường của Chính phủ ta là đình chỉ chiến sự trên tồn Đơng
Dương, giải quyết vấn đề qn sự và chính trị cùng lúc cho cả ba nước
Việt Nam, Lào, Campuchia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước ở Đông Dương. Cuộc đấu tranh
trên bàn Hội nghị diễn ra gay gắt, phức tạp do lập trường thiếu thiện chí
và ngoan cố của Pháp- Mỹ nhưng đồn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng
hịa đã tích cực đấu tranh để bảo vệ lập trường của mình.
Trải qua 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp, ngày 21/7/1954, Hiệp

định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia được ký kết.
Đây là bức hình của Thơng tấn xã Việt Nam, chụp toàn cảnh buổi
ký kết Hiệp định Giơnevơ diễn ra ngày 21/7/1954. Đại diện các bên tham dự
hội nghị ngồi xung quanh một chiếc bàn vuông cỡ lớn, tất cả đang chứng
kiến buổi lễ ký kết hiệp định về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào,
Campuchia. Hội nghị đưa ra các văn bản đã ghi nhận các quuyền dân tộc
25


×