Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của chất INDOLE-3-BUTANIC ACID đến khả năng hình thành cây hom sao đen (Hopea odorata Roxb) tại Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.83 KB, 52 trang )




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM


NGÔ DUY CƯƠNG

Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT
INDOLE-3-BUTANIC ACID ĐẾN KHẢ NĂNG HÌNH THÀNH
CÂY HOM SAO ĐEN (Hopea odorata Roxb) TẠI TRƯỜNG
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN


KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC




Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Lâm nghiệp
Lớp : K42 – Lâm nghiệp
Khoa : Lâm nghiệp
Khoá học : 2010 – 2014
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Lê Sỹ Trung


Thái Nguyên, năm 2014



LỜI CẢM ƠN

Thực tập tốt nghiệp là một thời gian có ý nghĩa rất quan trọng trong quá
trình học tập của mỗi sinh viên. Đây là một quá trình giúp sinh viên hệ thống
hóa, củng cố lại kiến thức đã học. Đồng thời cũng là thời gian để cho sinh
viên học hỏi, làm quen với công tác nghiên cứu, tiếp xúc và cọ sát với thực tế,
giúp mỗi sinh viên nâng cao kiến thức, kỹ năng, thái độ trước khi ra trường.
Là tiền đề cho sự thành công của mình trong tương lai.
Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân, được sự nhất trí của Ban chủ
nhiệm khoa Lâm Nghiệp, Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của chất
INDOLE-3-BUTANIC ACID đến khả năng hình thành cây hom sao đen
(Hopea odorata Roxb) tại Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên”

Trong quá trình thực tập được sự giúp đỡ, chỉ bảo, hướng dẫn tận tình
của các thầy cô trong khoa, cán bộ Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp Vùng
núi phía Bắc, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, đặc biệt thầy giáo
hướng dẫn PGS.TS Lê Sỹ Trung người trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện đề
tài này cùng sự cố gắng của bản thân đã giúp tôi hoàn thành khóa luận này.
Nhân dịp này cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới
tất cả sự giúp đỡ đó.
Do điều kiện và thời gian có hạn, trình độ bản thân còn hạn chế nên
khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy, tôi rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để đề tài hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 15 tháng 05 năm2014

Sinh Viên



Ngô Duy Cương


MỤC LỤC

PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục đích nghiên cứu 2
1.3. Mục tiêu nghiên cứu 3
1.4. Ý nghĩa của đề tài 3
PHẦN 2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
2.1. Cơ sở khoa học 4
2.1.1. Cơ sở tế bào học 4
2.1.2. Cơ sở di truyền học 4
2.1.3. Cơ sở phát sinh phát triển cá thể 5
2.1.4. Sự hình thành rễ ở hom giâm 6
2.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng ra rễ của hom 6
2.1.6. Những yêu cầu kỹ thuật cơ bản khi giâm hom 12
2.2. Những nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam 13
2.2.1. Trên thế giới 13
2.2.2. Ở Việt Nam 14
2.3. Tổng quan loài cây nghiên cứu 15
2.3. Tổng quan địa điểm nghiên cứu 16
PHẦN 3.ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 18
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 18
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 18
3.3. Nội dung nghiên cứu 18
3.4. Phương pháp nghiên cứu 18

3.4.1. Ngoại nghiệp 18
3.4.2. Nội nghiệp 21
PHẦN 4. KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 25
4.1. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ chất kích thích sinh trưởng
IBA đến khả năng sống của hom giâm ở các công thức thí nghiệm 25


4.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của chất kích thích sinh trưởng IBA đến
khả năng ra rễ của hom giâm ở các công thức thí nghiệm 26
4.2.1. Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của nồng độ thuốc kích thích IBA đến số
rễ TB/hom của hom giâm 27
4.2.2. Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của nồng độ chất kích thích sinh trưởng
IBA đến chiều dài rễ TB/hom của hom giâm Sao đen 29
4.2.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của một số nồng độ chất kích thích IBA
đến chỉ số ra rễ của hom giâm 31
4.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của chất kích thích sinh trưởng IBA đến
khả năng ra chồi, số chồi/hom, chiều dài chồi TB/hom của hom giâm theo các
ngày thí nghiệm 32
4.3.1. Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của nồng độ thuốc kích thích IBA đến số
chồi TB/hom của hom giâm 33
4.3.2. Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của thuốc kích thích IBA đến chiều dài
chồi TB/hom của hom giâm 34
4.3.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ chất kích thích IBA đến chỉ
số ra chồi của hom giâm 36
PHẦN 5. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ 38
5.1. Kết luận 38
5.2. Kiến nghị 39




DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Kết quả phân tích mẫu đất 17
Bảng 3.1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm cho các công thức giâm hom Sao đen với 3
lần nhắc lại 19
Bảng 4.1. Tỷ lệ sống của hom cây Sao đen ở các công thức thí nghiệm 25
Bảng 4.2: Kết quả nghiên cứu về tỷ lệ số rễ, chiều dài rễ trung bình trên hom
và chỉ số ra rễ của hom giâm ở cuối đợt thí nghiệm 27
Bảng 4.3: Tổng hợp kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của nồng độ thuốc kích
thích IBA đến số rễ TB/hom Sao đen của các công thức thí nghiệm 42
Bảng 4.4: Phân tích phương sai một nhân tố của nồng độ chất kích thích sinh
trưởng IBA đến số rễ TB/hom của hom giâm Sao đen (ANOVA) 43
Bảng 4.5: Tổng hợp kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của nồng độ chất kích
thích sinh trưởng IBA đến chiều dài rễ TB/hom của hom giâm Sao đen 30
Bảng 4.6: Phân tích phương sai một nhân tố của nồng độ chất kích thích sinh
trưởng IBA đến chiều dài rễ TB/hom của hom giâm Sao đen (ANOVA) 43
Bảng 4.7: Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của chất kích thích đến tỷ ra chồi, số
chồi/hom, chiều dài chồi TB/hom và chỉ số ra chồi của hom giâm ở cuối đợt
thí nghiệm 32
Bảng 4.8: Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của thuốc nồng độ kích thích IBA
đến số chồi TB/hom của hom giâm 33
Bảng 4.9: Phân tích phương sai một nhân tố của nồng độ chất kích thích sinh
trưởng IBA đến số chồi TB/hom của hom giâm Sao đen (ANOVA) 44
Bảng 4.10: Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của thuốc kích thích IBA đến chiều
dài chồi TB/hom của hom giâm 34
Bảng 4.11: Phân tích phương sai một nhân tố của nồng độ chất kích thích sinh
trưởng IBA đến chiều dài chồi TB/hom của hom giâm Sao đen (ANOVA) 45




DANH MỤC CÁC HÌNH


Hình 4.1. Biểu đồ so sánh tỷ lệ sống của hom giâm Sao đen ở các CTTN 26
Hình 4.2: Biểu đồ so sánh số rễ TB/hom của cây hom Sao đen ở các CTTN 42
Hình 4.3: Biểu đồ so sánh chiều dài rễ TB/hom của hom cây Sao đen 30
Hình 4.4: Biểu đồ so sánh chỉ số ra rễ của hom giâm Sao đen 31
Hình 4.5: Biểu đồ so sánh số chồi trung bình/hom của hom giâm Sao đen 33
Hình 4.6: Biểu đồ so sánh chiều dài chồi trung bình trên hom ở các CTTN 35
Hình 4.7: Biểu đồ so sánh chỉ số ra chồi ở các công thức thí nghiệm 36



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CTTN: Công thức thí nghiệm
CT: Công thức
TB: Trung bình
IAA: Axit Indol-axitic
IBA: Axit Indol-butiric
IPA: Axit Indol-propionic
NAA:
LDS:
Axit Napthalen-axetic
Chỉ tiêu sai dị bảo đảm nhỏ nhất


1

PHẦN 1

MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, các trung tâm nghiên cứu giống cây rừng
trong cả nước đã tiến hành nghiên cứu về chọn giống, khảo nghiệm và nhân
giống cho nhiều loài cây rừng, đã đạt được một số kết quả bước đầu, mở ra
một triển vọng lớn cho trồng rừng nguyên liệu ở nước ta.
Giống là một khâu đặc biệt quan trọng trong các chương trình trồng
rừng kể cả cho rừng kinh tế, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và trồng cây phân
tán. Công tác giống đóng vai trò không thể thiếu được trong trồng rừng, nhằm
tái tạo, giúp cho sản xuất nghề rừng được lâu dài, sớm phát huy tác dụng
phòng hộ và bảo vệ môi trường.
Giống là một khâu quan trọng của rừng thâm canh. Không có giống được
cải thiện theo mục tiêu kinh tế thì không thể đưa năng suất rừng lên cao.
Những loại rừng sau khi đã được chọn lọc, khảo nghiệm thì việc lựa
chọn phương pháp nhân giống có ý nghĩa cực kì quan trọng trong việc duy
trì những tính trạng tốt của loài cây rừng. Một trong số những phương pháp
nhân giống duy trì được trọn vẹn những tính trạng tốt từ đời trước cho tới
đời sau là nhân giống bằng hom.
Nhân giống là bước cuối cùng của chương trình cải thiện giống. Để
giữ được đặc tính tốt của cây giống người ta thường dùng phương thức nhân
giống sinh dưỡng, trong các phương thức nhân giống sinh dưỡng thì giâm
hom là phương thức nhân giống được dùng rộng rãi cho một số loài cây
rừng, là phương pháp có hệ số nhân giống cao, phù hợp trồng rừng với quy
mô lớn, sản phẩm cuối cùng cho một số lượng lớn cây giống đồng đều về
mặt chất lượng di truyền. Nhân giống bằng hom là một trong những công cụ
có hiệu quả cho chọn giống cây rừng. Song cần thấy rằng việc áp dụng nhân
giống bằng hom chỉ là một công cụ của chọn giống, nó chỉ phát huy tác dụng
tốt khi giống đã qua chọn lọc, khảo nghiệm cẩn thận, được chứng minh là
hơn giống đại trà [2].
Họ Dầu một số tài liệu tiếng việt gọi là họ hai cánh có danh pháp khoa

học là Dipterocarpaceae là một họ của 17 chi và khoảng 580-680 loài cây

2

thân gỗ chủ yếu ở các rừng mưa nhiệt đới vùng đất thấp với quả có hai cánh
[15]. Nhiều loài là các loại cây nổi bật trong các cánh rừng, thông thường có
thể cao tới 40-70 m, đôi khi cao trên 80 m. Các loài trong họ này có tầm quan
trọng lớn trong việc buôn bán gỗ. Chúng phân bổ rộng khắp vùng nhiệt đới, từ
miền bắc Nam Mỹ tới châu Phi, Seychelles, Ấn Độ, Đông Dương và Malesia,
với sự đa dạng và phổ biến nhất ở miền tây Malesia. Một số loài hiện nay
đang bị rơi vào tình trạng nguy cấp do kết quả của việc chặt hạ quá mức cũng
như việc buôn lậu gỗ. Chúng cung cấp các loại gỗ có giá trị, tinh dầu thơm,
bôm, nhựa mủ cũng như làm gỗ dán.
Cây Sao đen có tên khoa học là Hopea odorata, thuộc họ Dầu, tên
tiếng Anh là Golden oak, là loài cây gỗ lớn thường xanh, thân thẳng, tròn
thuôn, cao từ 20 – 30 m. Khi cây trưởng thành, vỏ nứt dọc, màu đen, lõi gỗ
hơi đỏ. Tán lá rậm, hình chóp, cành nhánh khỏe, dài, mọc chếch. Lá hình trái
xoan thuôn, mép hơi gợn sóng, đáy tròn, đỉnh nhọn, mặt trên lá màu xanh
bóng. Mặt dưới hơi bạc, có tuyến ở nách gân bên. Hoa mọc thành chùm, hoa
nhỏ màu trắng. Quả có hai cánh, phủ lông mịn, dài 3-6 cm, lúc non xanh
nhạt, lúc già chuyển qua nâu.
Do có nhiều tannin (15%) nên vỏ sao đen được dụng làm thuốc: Chữa
đau răng, viêm lợi, áp xe, làm răng bền … Ở Ấn Độ nhựa cây được dùng
làm thuốc cầm máu. Một số nơi ở Việt Nam, đã dùng vỏ sao đen ăn trầu.
Sao đen được khai thác chủ yếu để lấy gỗ, gỗ Sao đen thuộc loại gỗ
quý, không mối mọt thường dùng trong xây dựng, đóng đồ đạc, làm sàn nhà,
tà vẹt, đóng toa xe, tàu đi biển …
Cây Sao đen có kích thước lớn cao, to, tán đẹp nên rất thích hợp để
trồng làm cây đường phố, quanh các công trình lớn.
Xuất phát từ thực tế tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu ảnh

hưởng của chất INDOLE-3-BUTANIC ACID đến khả năng hình thành
cây hom sao đen (Hopea odorata Roxb) tại Trường Đại Học Nông Lâm Thái
Nguyên”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài góp phần nhân giống cây con Sao đen cung cấp cho trồng rừng
gỗ lớn, cây đô thị, làm đẹp cảnh quan, cải thiện cuộc sống.

3

1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định nồng độ thuốc IBA phù hợp kích thích ra rễ của hom cây Sao đen
trong khoảng 300 ppm đến 750 ppm.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học:
Qua quá trình nghiên cứu đề tài đã giúp cho sinh viên nắm vững hơn
những kiến thức đã được học. Đặc biệt là những kiến thức trong lĩnh vực
lâm sinh như những kiến thức về hom giâm, xử lí hom giâm, kỹ thuật cắt
hom, cắm hom,… Biết được quá trình sinh trưởng và phát triển của cây hom
từ lúc cắm hom đến lúc cây hom ra rễ. Từ đó nắm vững được toàn bộ quá
trình nhân giống bằng phương pháp giâm hom. Đồng thời qua quá trình
nghiên cứu đề tài giúp cho sinh viên nắm được các phương pháp nghiên cứu,
bước đầu tiếp cận và áp dụng khoa học tiến bộ vào thực tiễn sản xuất, qua đó
đào tạo cho sinh viên một tác phong làm việc tự lập khi làm việc ở ngoài
thực tế.
Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất:
Sự thành công của đề tài này có ý nghĩa rất to lớn trong thực tiễn sản
xuất vì đã tìm ra được nồng độ thuốc phù hợp nhất trong phương pháp nhân
giống bằng hom giâm với loài cây Sao đen trong giới hạn thuốc 300ppm đến
700ppm. Từ đó có thể phổ biến kỹ thuật này cho người dân áp dụng nhằm
tạo ra được cây hom với chất lượng tốt nhất.



4

PHẦN 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học
Theo nghĩa rộng thì nhân giống sinh dưỡng bao gồm nhân giống bằng
hom, chiết cành, ghép cây, nuôi cấy mô phân sinh…[14]. Nhân giống bằng
hom là phương pháp có hệ số nhân giống lớn tương đối rẻ tiền nên được
dùng phổ biến trong nhân giống cây rừng, cây cảnh và cây ăn quả.
Thực vật có hai hình thức sinh sản chủ yếu là sinh sản vô tính và sinh
sản hữu hình. Sinh sản hữu hình là hình thức sinh sản mà trong đó có sự kết
hợp giữa hai giao tử đực và cái đơn bội để trở thành hợp tử lưỡng bội. Hợp
tử phát triển thành cá thể mới. Sinh sản vô tính là hình thức sinh sản không
qua thụ tinh, nó bao gồm sự kết hợp vô tính và các dạng khác của sinh sản
sinh dưỡng.
Nhân giống sinh dưỡng là hình thức nhân giống dựa trên cơ sở hình
thành của sinh sản sinh dưỡng. Cây phân sinh được tạo ra từ một bộ phận
cây mẹ bằng hàng loạt quá trình nguyên nhiễm nên có khả năng phát triển
thành cây mới có đặc điểm di truyền giống cây mẹ.
Nhân giống bằng hom là phương pháp dùng một phần lá, một đoạn
thân, một đoạn cành hoặc đoạn rễ để tạo ra cây mới gọi là cây hom, cây hom
có đặc tính di truyền như của cây mẹ. Vấn đề quyết định trong giâm hom là
làm cho hom ra rễ, trong công thức thí nghiệm hom ra rễ càng nhiều thí
nghiệm càng thành công.
2.1.1. Cơ sở tế bào học
Dựa vào đơn vị cấu trúc cơ bản của cây rừng, trong đó tế bào là cơ sở
quan trọng mang đầy đủ thông tin di truyền cho các quá trình phát triển của
thực vật.

Khả năng hình thành rễ và thân phụ thuộc vào đặc điểm di truyền của
loài cây, bộ phận của cây lấy làm giống cũng như loài tế bào đã phân hóa của cây.
2.1.2. Cơ sở di truyền học
Dựa vào các đặc tính di truyền của cây mẹ truyền cho đời con nhờ quá
trình nguyên nhiễm hay nguyên phân, mà ta tiến hành dùng các cành, thân để
giâm hom.

5

Kết quả nghiên cứu của một số tác giả đều đi đến một kết luận chung
nhất là: Các loài cây khác nhau thì đặc điểm ra rễ khác nhau. Các tác giả này
đã dựa vào khả năng ra rễ để chia làm 3 nhóm [12].
Nhóm dễ ra rễ: Bao gồm các loại cây không sử dụng chất kích thích
vẫn có tỷ lệ ra rễ cao, nhóm này gồm 29 loài như: Đa, Sung, Tre, Nứa…
Nhóm khó ra rễ: Bao gồm các loài hầu như không ra rễ hoặc phải dùng
chất kích thích ra rễ mà vẫn cho tỉ lệ ra rễ thấp, nhóm này gồm 26 loài như các
chi: Malus sp, Prunus sp. Ở nước ta, Bách tán cũng thuộc loài rất khó ra rễ.
Nhóm ra rễ trung bình: Bao gồm các loài chỉ sử dụng chất kích thích
với nồng độ thấp cũng có thể ra rễ với nồng độ cao, nhóm này gồm 65 loài,
trong đó có các chi Eucaluptus sp, Taus sp, Quercus sp … Tuy vậy, sự phân
chia này chỉ có ý nghĩa tương đối, vì thế theo khả năng giâm hom có thể chia
thực vật thành 2 nhóm chính là:
Nhóm sinh sản chủ yếu bằng hom, cành: Gồm nhiều loại cây thuộc họ
Dâu tằm, một số thuộc họ Liễu, với những loài cây này, khi giâm hom
không cần xử lý thuốc hom vẫn ra rễ bình thường.
Nhóm sinh sản chủ yếu bằng hạt: Khả năng ra rễ của hom giâm bị hạn
chế bởi các mức độ khác nhau. Những loài cây dễ ra rễ như Thông đỏ, 40-50
tuổi vẫn ra rễ 80-90%.
2.1.3. Cơ sở phát sinh phát triển cá thể
Quá trình sinh trưởng và phát triển của cá thể đều do bộ gen và môi

trường xung quanh quết định, môi trường ở đây là môi trường bên ngoài và
môi trường bên trong ảnh hưởng đến tế bào chất.
Quá trình phát triển của cá thể được thể hiện qua các giai đoạn: Non
trẻ, chuyển tiếp, thành thục, khả năng ra chồi rễ của các bộ phận là rất khác nhau.
Trong sinh sản sinh dưỡng (giâm hom) cũng hay gặp hiện tượng
Topophysis (hiện tượng bảo lưu cục bộ) đó là hiện tượng bảo lưu duy trì sự
phát triển hình thái và đặc điểm sinh học của bộ phận được lấy làm vật liệu
giống trong nhân giống sinh dưỡng, những cây con được tạo ra từ chồi ngọn
sẽ mọc thẳng (hiện tượng này thường gặp ở chi Bách tán).

6

2.1.4. Sự hình thành rễ ở hom giâm
Rễ bất định là rễ sinh ra ở bất kì bộ phận nào của cây ngoài hệ rễ của
nó, rễ bất định có thể sinh ra tự nhiên (Ví dụ: Đa, Si khi ra rễ là mọc từ cành
và đâm dài xuống đất, còn cây Cau, Dừa thì rễ lại mọc ra từ giữa các thân).
Có 2 loại rễ bất định là: Rễ tiền ẩn và rễ mới sinh, rể tiềm ẩn là rễ có
nguồn gốc tự nhiên trong thân, cành cây nhưng chỉ phát triển khi đoạn thân
hoặc cành đó tách rời khỏi cây, còn rễ mới sinh được hình thành khi cắt hom
và hậu quả là phản ứng với vết cắt, khi hom bị cắt các tế bào sống ở vết cắt
bị tổn thương và các tế bào truyền dẫn của mô gỗ được hở ra và gián đoạn,
sau đó quá trình tái sinh xảy ra theo 3 bước: Các tế bào bị thương ở mặt
ngoài chết và hình thành một lớp tế bào bị thối trên bề mặt, vết thương bị
bọc một lớp bần, mạch gỗ được đậy lại bằng keo, lớp bảo vệ này giúp cho
mặt cắt khỏi thoát nước.
Các tế bào sống ở ngay dưới lớp bảo vệ đó sẽ bắt đầu phân chia ngay
sau khi bị cắt vài ngày và có thể hình thành một lớp mô mềm. Các tế bào ở
vùng lân cận của thượng tầng mạch li be bắt đầu hình thành rễ bất định.
Cây gỗ có một hoặc nhiều lớp mô gỗ thứ cấp và libe thì rễ bất định
thường phát sinh ở tế bào nhu mô còn sống của hom bắt nguồn từ libe thứ

cấp còn non. Tuy nhiên, đôi khi rễ bất định cũng phát sinh từ mạch ray,
thượng tầng, libe, bì khổng và tủy.
Nói chung, các rễ bất định thường được hình thành bên cạnh và sát
ngoài lỗi trung tâm của mô mạch và ăn sâu trong thân (cành) tới gần ống
mạch sát bên ngoài thượng tầng.
Như vậy, việc giâm hom để hình thành bộ rễ mới là quan trọng nhất,
sau đó là số lượng rễ trên hom và chiều dài của rễ.
2.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng ra rễ của hom
Thời vụ giâm hom
Thời vụ giâm hom là một trong những nhân tố quan trọng nhất ảnh
hưởng đến sự ra rễ của hom giâm. Tỷ lệ ra rễ của hom giâm phụ thuộc vào
thời vụ lấy cành và thời vụ giâm hom, một số loài cây có thể giâm hom
quanh năm, nhưng một số loài cây thì cần có thời vụ nhất định, mùa mưa là
mùa giâm hom có tỉ lệ ra rễ cao nhất của nhiều loài cây, trong khi một số

7

loài cây khác lại ra rễ cao nhất vào mùa xuân. Hom lấy trong thời kỳ cây mẹ
có hoạt động sinh trưởng mạnh thường có tỉ lệ ra rễ cao hơn so với các thời
kì khác [3].
Thay đổi tỉ lệ ra rễ của hom giâm theo thời vụ được cho là do tình
trạng dinh dưỡng của hom hoặc do thay đổi là quan hệ các nhân tố nội sinh
kích thích và kìm hảm ra rễ gắn liền với sự thay đổi trạng thái, hình thái –
sinh lý của cành làm thay đổi đến hoạt động của thượng tầng, nơi xuất phát
của rễ bất định xuất hiện trong quá trình giâm hom.
Thời vụ giâm hom đạt kết quả tốt hay xấu thường gắn liền với các yếu
tố cơ bản là diễn biến khí hậu, thời tiết quanh năm, mùa sinh trưởng của cây
và trạng thái sinh lý của cảnh, hầu hết các loài cây đều sinh trưởng mạnh
trong mùa hè (mùa mưa) và sinh trưởng chậm vào thời kì cuối thu và mùa
đông (mùa khô). Vì thế, thời kỳ giâm hom tốt nhất có tỉ lệ ra rễ cao nhất cho

nhiều loài cây là các tháng xuân hè và đầu thu (tức là giữa mùa mưa và mùa
nóng ẩm). Đến nay nhiều tác giả cho rằng cách xác định lịch nhân giống
bằng hom là không nên, bởi vì bắt đầu thời kì sinh dưỡng nhịp độ sinh
trưởng và phát triển chồi ở các loài rất khác nhau trong từng năm.
Với cây vùng ôn đới thì thời kì giâm hom tốt nhất là thời kì hoa nở rộ,
còn với cây á nhiệt đới ẩm thì thời kì giâm hom của nhiều loài không trùng
với lúc ra hoa. Từ những kết quả đã nghiên cứu, có thể đi đến những kết
luận sau: Một số loài có thể giâm hom trong thời kì sinh trưởng mạnh của
cành, một số khác trong thời kì sinh trưởng giảm dần và một số loài sau khi
kết thúc sinh trưởng cành, thời kì tốt nhất để giâm hom cho mỗi loài ở từng
vùng chỉ có thể xác định bằng thực nghiệm. Tuy nhiên, ở các nước nhiệt đới
nóng ẩm, thời kì giâm hom còn phụ thuộc vào thời tiết trong năm.
Ở nước ta, những tháng mùa hè nhiệt độ không khí ngoài trời 35-
36
o
C, trong lúc đó độ ẩm không khí còn quá thấp, không thuận lợi cho sự ra
rễ của hom. Nhìn chung, trong điều kiện khí hậu Việt Nam, thời kì giâm
hom thích họp nhất là vào các tháng mùa xuân, mùa hè và mùa thu.
Ánh sáng
Ánh sáng đóng vai trò sống còn trong quá trình ra rễ của hom giâm,
không có ánh sáng và không có lá thì hom không có hoạt động quang hợp,

8

quá trình trao đổi chất khó xảy ra, do đó không có các hoạt động ra rễ, hầu hết
các loài cây không ra rễ trong điều kiện che tối hoàn toàn, bất kể đó là nhóm
cây ưa sáng hay chịu bóng. Trong điều kiện nhiệt đới, ánh sáng tự nhiên mạnh
thường kèm theo nhiệt độ cao nên giảm đáng kể tỉ lệ ra rễ, chất lượng ánh
sáng cũng ảnh hưởng đến tỉ lệ ra rễ của hom giâm, ánh sáng tự nhiên cần thiết
cho sự ra rễ, còn ánh sáng đỏ và ánh sáng xanh làm giảm tỉ lệ ra rễ của hom

giâm ở một số loài cây ưa sáng.
Thời gian chiếu sáng cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ ra rễ của hom giâm.
Ánh sáng tán xạ cần thiết cho hom và độ sáng thích hợp khoảng 40-50% ánh
sáng toàn phần, ánh sáng đầy đủ thời gian ra rễ ngắn hơn và tỉ lệ ra rễ cũng
cao hơn.
Tuy nhiên, các loài cây yêu cầu ánh sáng này cũng rất khác nhau: cây
ưa sáng yêu cầu ánh sáng cao hơn cây chịu bóng, trong tối hom của các loài
cây ưa sáng hoàn toàn không ra rễ. Yêu cầu ánh sáng còn phụ thuộc vào
mức độ hóa gỗ và chất dự trữ trong hom. Hom hóa gỗ yếu, chất dự trữ ít cần
cường độ ánh sáng tán xạ cao hơn so với hom hóa gỗ hoàn toàn.
Ánh sáng là yếu tố cần thiết cho hom ra rễ, điều đó giải thích tại sao
các nhà kính được sử dụng để giâm hom hoặc nhà giâm hom tạm thời
thường được lợp bằng các màng Polyetylen trắng trong suốt mà không dùng
các vật liệu khác. Trong thực tế, ảnh hưởng của ánh sáng đến quá trình ra rễ
của hom giâm thường mang tính tổng hợp theo kiểu phức hệ ánh sáng - nhiệt
- ẩm mà không phải nhân tố riêng lẻ. Vì thế khi giâm hom phải chú ý đến
đầy đủ đến các yếu tố này.
Mặt khác, ánh sáng chỉ tác động đến ra rễ của hom với sự có mặt của
lá cây, hom không có lá thì không có hoạt động ra rễ. Hoạt động ra rễ của
những hom không có lá cũng chỉ xảy ra sau khi hom đã mọc chồi và ra lá
mới, …[13].
Nhiệt độ không khí và nhiệt độ giá thể
Cùng với ánh sáng nhiệt độ là một trong những nhân tố quyết định tốc
độ ra rễ của hom giâm, ở nhiệt độ quá thấp, hom nằm trong trạng thái tiềm
ẩn và không ra rễ, còn ở nhiệt độ quá cao lại tăng cường hô hấp và bị nóng,
từ đó cùng làm giảm tỉ lệ ra rễ của hom.

9

Các loài cây nhiệt đới cần nhiệt độ không khí trong nhà giâm hom

thích hợp cho ra rễ là 28-33
o
C và nhiệt độ giá thể thích hợp là 25-30
o
C.
Trong lúc các loài cây vùng lạnh cần nhiệt độ không khí trong nhà giâm hom
thích hợp 23-27
o
C, nhiệt độ giá thể thích hợp là 22-24
o
C. Nói chung nhiệt
độ không khí trong nhà giâm hom nên cao hơn nhiệt độ giá thể 2-3
o
C. Theo
D.A.Komixarov thì nhu cầu về nhiệt cho ra rễ của hom các loài thực vật biến
động trong phạm vi rộng phụ thuộc vào đặc điểm sinh thái của chúng.
Độ ẩm không khí và độ ẩm giá thể
Độ ẩm không khí và độ ẩm giá thể là nhân tố hết sức quan trọng trong
quá trình giâm hom: Các hoạt động quang hợp, hô hấp, phân chia tế bào và
chuyển hóa vật chất trong cây đều cần nước, thiếu nước thì hom sẽ bị héo,
nhiều nước quá thì hoạt động của men tích lũy giải tăng lên, quá trình quang
hợp bị ngừng trệ, khi giâm hom mỗi loài cây cần một độ ẩm thích hợp, mật
độ ẩm của hom từ 15-20% thì hom mất hoàn toàn khả năng ra rễ.
Đối với nhiều loại cây, độ ẩm thích hợp cho cá thể cắm hom là 50-70%.
Yêu cầu độ ẩm không những thay đổi theo loài cây mà còn thay đổi theo mức
độ hóa gỗ của hom giâm. Nhiều loại cây hom hóa gỗ yếu nên yêu cầu độ ẩm
giá thể thấp và độ ẩm không khí cao, trong khi hom nửa hóa gỗ lại yêu cầu độ
ẩm giá thể cao hơn.
Mặt khác, cây lá kim không nên có độ ẩm giá thể quá lớn, trong khi
cây lá rộng cẩn độ ẩm lớn hơn. Trong thực tế, phun sương mù để duy trì độ

ẩm cần thiết cho hom, yêu cầu về độ ẩm không khí và giá thể cho từng loại
cây, từng giai đoạn không giống nhau, tùy thời tiết mà ta điều chỉnh số lần
phun sương để đảm bảo độ ẩm nhất định cho hom, cho nên phun sương là
yêu cầu bắt buộc khi giâm hom, phun sương vừa làm tăng độ ẩm vừa làm
giảm nhiệt độ không khí, làm giảm sự bốc hơi nước của lá.
Độ ẩm không khí và giá thể là một yếu tố quan trọng không thể thiếu
được cho hom ra rễ. trong quá trình giâm hom, độ ẩm giữ cho hom không bị
khô héo và giúp cho hom quang hợp, tốt nhất để duy trì độ ẩm không khí là
tạo một lớp mù trong nhà giâm hom, độ ẩm giá thể quá thấp làm cho hom
khô, héo lá trước lúc ra rễ. Song độ ẩm giá thể cao làm cho phần hom cắm

10

trong giá thể bị thối rữa, nhất là đối với những hom còn non. Vì vậy, để duy trì
độ ẩm thích hợp cho hom ra rễ cần chọn vật liệu phù hợp với từng loài cây.
Giá thể cắm hom
Giá thể cắm hom là nơi cắm hom sau khi đã sử lý chất kích thích ra rễ.
Giá thể được dùng làm thí nghiệm này là đất vàng trong vườn ươm. Một giá
thể cắm hom tốt là có độ thoát khí tốt và duy trì được độ ẩm trong thời gian
dài mà không ứ nước, tạo điều kiện cho rễ phát triển tốt, đồng thời làm sạch
không bị nhiễm nấm, không có nguồn sâu bệnh, độ pH khoảng 6.0-7.0.
Hom được cắm trực tiếp trên giá thể là đất vườn ươm, đảm bảo độ
thoát nước trung bình, không tạo cho giá thể quá khô hoặc quá ướt [4]. Để
chống sâu bệnh, giá thể hom đều đã được sử lý qua thuốc diệt nấm: KMnO
4

trong vòng 24 giờ trước khi cắm hom.
Sử dụng chất điều hòa sinh trường
Trong các chất điều hòa sinh trưởng thì auxin được coi là những chất
quan trọng nhất trong quá trình ra rễ của cây hom. Song nhiều chất khác tác

động cùng auxin và thay đổi hoạt tính của auxin cùng tồn tại một cách tự
nhiên trong các mô của hom giâm và tác động đến quá trình ra rễ của chúng.
Những chất quan trọng nhất là Rhirocalin, đồng nhân tố ra rễ và các chất kích
thích và kìm hãm ra rễ.
Rhirocalin: Được coi là cần thiết cho hình thành rễ của nhiều loại cây.
Builena, 1965 cho rằng: Rhirocalin là một phức chất của 3 nhân tố. Nhân tố
đặc thù có khả năng chuyển dịch, có nhóm diphenol được sản xuất từ lá dưới
ánh sáng. Nhân tố không đặc thù và linh hoạt (auxin) tồn tại ở các nồng độ
theo giới hạn sinh lý. Các enzyme đặc thù có thể ở dạng Phenol-Oxylaza
nằm ở trụ bì, Phloem và tượng tầng. Phức hợp hai chất đầu cùng chất thứ ba
tạo thành Rhirocalin phát động ra rễ ở hom giâm.
Chất điều hòa sinh trưởng đóng vai trò đặc biệt trong quá trình hình
thành bộ rễ của hom giâm. Để cho hom ra rễ thì mỗi loài cây sử dụng một
loại thuốc với nồng độ và thời gian thích hợp.
Auxin tự nhiên: NAA (axit Napthalen-axetic), trong từng trường hợp
cụ thể thì auxin lại có hiệu quả ra rễ khác nhau đối với từng loại cây khác
nhau và các loại thuốc khác nhau. Thí nghiệm giâm hom cho các loài cây

11

Bạch đàn trắng, Mỡ, Sở tại trung tâm nghiên cứu giống cây rừng cho thấy
rằng: IBA là chất có hiệu quả ra rễ cao nhất đối với Bạch đàn trắng: 93%;
IAA và 2,4D là chất có hiệu quả ra rễ cao nhất đối với cây Mỡ: 85% [6]; đối
với cây Sở chất có hiệu quả ra rễ cao nhất là NNA: 75%.
Xử lý bằng thuốc nước
Khi xử lý hom bằng thuốc nước thì nồng độ và thời gian xử lý ảnh
hưởng rất lớn đến tỉ lệ ra rễ của hom giâm. Nồng độ xử lý quá thấp, không
có tác dụng phân hóa tế bào thành để hình thành rễ, nồng độ quá cao hom
thối rữa trước lúc rễ hình thành, nồng độ thấp phải xử lý thời gian dài, còn
nồng độ quá cao phải xử lý trong thời gian ngắn. Thí nghiệm nghiên cứu 4

nồng độ: 300ppm, 450ppm, 600ppm, 750ppm. Ví dụ: hom Thông đuôi ngựa
2 tuổi được xử lý bằng thuốc nước IBA nồng độ 75ppm, 100ppm, 150ppm,
trong 8h có tỉ lệ ra rễ tương ứng là 6%, 80%, 87% [5].
Khi lựa chọn nồng độ chất kích thích ra rễ cần chú ý đến nhiệt độ
không khí và mức độ hóa gỗ của hom. Trong quá trình giâm hom khi nhiệt
độ cao cần phải xử lý với nồng độ thấp hơn và ngược lại. Hom quá non
(chưa hóa gỗ) phải xử lý với nồng độ thấp, ngược lại hom hơi già (gần hóa
gỗ hoàn toàn) phải xử lý với nồng độ cao hơn.
Thời gian xử lý thuốc
Cùng một loại thuốc, cùng một nồng độ, nhưng thời gian xử lý khác
nhau cũng cho kết quả khác nhau. Cần chú ý là giữa thời gian xử lý, nồng độ
và nhiệt độ không khí có mối quan hệ nhất định nên cần phải điều chỉnh sao
cho thích hợp thì kết quả ra rễ của hom mới được cải thiện, nếu nồng độ chất
kích thích cao, cần xử lý với thời gian ngắn và ngược lại. Nếu nhiệt độ
không khí cao cần xử lý với nồng độ thấp và thời gian ngắn hơn.
Phương pháp xử lý hom
Thông thường hom được xử lý bằng cách ngâm hom trong dung dịch
chất kích thích ra rễ. Chất kích thích ra rễ là hỗn hợp chất tan thì phần gốc
của hom được nhúng vào nước và chấm vào thuốc, sao cho thuốc dính vào
phần gốc hom. Chất kích thích là dung dịch có nồng độ thấp 20-200 ppm
phần gốc hom được nhúng vào dung dịch 24 giờ, chất kích thích ra rễ ở nồng

12

độ 500-1000 ppm phần gốc của hom được nhúng nhanh trong dung dịch 4 -
5 giây. Hom Sao đen với 4 nồng độ được nhúng trong dung dịch 10-15 phút.
Tóm lại, xử lý hom bằng dung dịch có ưu điểm là tăng tỷ lệ ra rễ của
hom, nhưng không thích hợp cho sản xuất dạng lớn. Dạng dung dịch thường
được dùng trong nghiên cứu hoặc các thì nghiệm có lượng hom ít hay loài
cây rất khó ra rễ.

Nhận xét chung
Như vậy, để hình thành một bộ rễ mới phải trải qua quá trình rất phức
tạp, tổng hợp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nội sinh, ngoại sinh, sử dụng
các chất điều hòa sinh trưởng (Auxin) … Quá trình hình thành rễ phải trải qua
rất nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn cần phức hệ nhất định các điều
kiện hoàn cảnh, có thể nói chọn đúng thời gian giâm hom, cây tuổi mẹ lấy
hom (ngọn), chọn đúng thuốc xử lý và nồng độ thích hợp, kết hợp với các yếu
tố kỹ thuật chăm sóc tốt… Thì hom sẽ có tỷ lệ ra rễ cao nhất, chất lượng bộ rễ
tốt nhất. Chính vì vậy, nắm chắc cơ sở khoa học của việc nhân giống bằng
hom thì hom giâm sẽ đạt tỷ lệ ra rễ cao nhất.
2.1.6. Những yêu cầu kỹ thuật cơ bản khi giâm hom
Vật liệu giâm hom rất nhạy cảm với sự mất nước và dễ bị nấm bệnh.
Hom phải ở độ hóa gỗ thích hợp cho từng loại cây và phải được bảo quản
tốt. Khi giâm hom yêu cầu: Không cắt hom quá già hoặc quá non, hom đã
cắt không được để trực tiếp dưới ánh sáng mặt trời. Vật liệu giâm hom
không nên để quá xa nơi giâm hom và không nên cất trữ úa một ngày, khi
vận chuyển phải cất trữ hom trong bình lạnh, và phải giữ đủ ẩm [9].
Hom giâm không ngắn dưới 5 cm, song cũng không dài quá 15 cm.
Khi cắt hom phải dùng dao sắc để tránh hom không bị dập nát, xây xước.
Phải xử lý bằng thuốc chống nấm bệnh trước khi xử lý bằng thuốc kích thích
ra rễ, phải để lại số lá tối thiểu ở phía trên cho hom giâm và phải cắt bớt
phiến lá, song phải cắt hết lá ở phần giâm dưới đất. Hom giâm phải đặt trong
lều nilon để giữ ẩm và giữ nhiệt. Trên lều có mái che để tránh ánh sáng trực
xạ và giảm bớt cường độ ánh sáng. Giá thể giâm hom phải được thoát nước
tốt và không bị nhiễm nấm bệnh. Phải thường xuyên phun tưới sương để giữ
ẩm và giữ độ ẩm không khí cho hom giâm [8].

13

2.2. Những nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam

2.2.1. Trên thế giới
Trong Lâm Nghiệp, nhân giống sinh trưởng cho cây rừng đã được sử
dụng trên 100 năm nay. Ngay từ năm 1940, Marrier de Boisdyver (người
pháp) đã ghép 10000 cây Thông đen. Năm 1883, Velinski A.H công bố công
trình nhân giống của một số loài cây lá kim và cây lá rộng thường xanh bằng
hom. Ở Pháp năm 1969, Trung tâm Lâm Nghiệp nhiệt đới bắt đầu chương
trình nhân giống cho các loại bạch đàn, năm 1973 mới có 1 ha rừng trồng
bằng cây hom thì đến năm 1986 đã có khoảng 24000 ha rừng trồng bằng
hom, các rừng này đạt tăng trưởng bình quân 35m
3
/ha/năm [10].
Theo tài liệu của Trung tâm giống cây rừng Asean- Canada (gọi tắt là
ACFTSC), những năm gần đây, nghiên cứu và sản xuất cây hom được tiến
hành ở các nước Đông nam Á [12].
Ở Malaysia, nhân giống sinh dưỡng các loại cây họ sao Dầu bắt đầu từ
những năm 1970, hầu hết các nghiên cứu được tiến hành ở viện nghiên cứu
Lâm nghiệp Malaysia, ở trường Đại học Tổng hợp Pertanian, Trung tâm
nghiên cứu Lâm nghiệp Sepilok, cũng đã báo cáo các công trình có giá trị về
công trình nhân giống sinh dưỡng cây họ Dầu. Tuy nhiên, cho đến nay tỷ lệ
ra rễ của các cây họ Dầu còn quá thấp, sau khi thay đổi các phương tiện
nhân giống như: các phương pháp vệ sinh tốt hơn, che bóng hiệu quả hơn,
phun sương mù, kỹ thuật trẻ hóa cây mẹ, … Thì tỷ lệ ra rễ được cải thiện (ví
dụ: Hopea odorata có tỷ lệ ra rễ 86%, Shorea Leprosula 71%, Shoera
Parvifolia 70%,…
Ở Malaysia, việc giâm hom cho sao đen được Alias tiến hành từ năm
1984, song không đem lại kết quả như mong muốn, từ năm 1991 đến năm
1994 Aminah tiếp tục nghiên cứu xử lý hom sao đen bằng thuốc bột Seradix
(IBA 0,8%) và thấy rằng tỷ lệ ra rễ cao nhất cho hom từ cây 6-12 tháng tuổi
là 75%, cây 18-20 tháng tuổi là 50%, đến năm 1996 tác giả này đã đạt được
tỷ lệ ra rễ cho Sao đen cao hơn. Nhân giống sinh dưỡng cho các loai cây họ

Dầu như loài Shorea Macrophylla đã được các nhà Lâm nghiệp đặt loài cây
họ Dầu được chú ý trong chương trình thuần hóa các loài cây nhiệt đới. Hai
phương pháp nhân giống được áp dụng là nhân giống trong buồng dưới hệ

14

thống phun mù tự động và nhân trên các luống nhân hom, phương pháp thứ
nhất thu được khoảng 90% đến 100% số hom ra rễ và được áp dụng để sản
xuất cây giống phục vụ trồng rừng, phương pháp thứ 2 thu được 60% - 80%
số hom ra rễ và được áp dụng rộng rãi ở nhiều địa phương.
Ở Brunei, nhân giống sinh dưỡng họ Dầu bắt đầu từ năm 1987, có sự
hợp tác quốc tế với Nhật Bản ở Trung tâm Lâm nghiệp Brunei tại Sungai
Liang đã nghiên cứu giâm hom chồi của cây Shorea assmica ra rễ thành
công sau 3 tháng ở môi trường tro núi lửa, nước không khí, cát khô, được sử
dụng như môi trường giâm hom trong hệ thống phun sương bao kín.
Ở Philippines, trong khi tỷ lệ ra rễ khi chiết chỉ đạt 10% đối với loài
D.Grandifolius đến 25% đối với loài Anisoptera Thurifera, thì kết quả giâm
hom đã đạt được với các loài sau 3 tháng như: Shorea almon tỷ lệ ra rễ
56%, Shorea Quamata 44% và D.Grandifolius không ra rễ.
Ở Indonesia, các nghiên cứu nhân hom cây họ Dầu được tiến hành tại
trạm nghiên cứu cây họ Dầu Wanariset đã áp dụng phương pháp nhân giống
mới “Tắm bong bóng” [11], sử dụng phương pháp này thu được tỷ lệ ra rễ
90% - 100% với các loài Shorea Leprosula, Shorera blanco…
2.2.2. Ở Việt Nam
Từ lâu trong sản xuất Nông-Lâm nghiệp, người dân Việt Nam đã biết
sử dụng các phương pháp nhân giống sinh dưỡng như chiết, ghép các loại
cây ăn quả, cây cảnh. Người nông dân đã biết trồng bằng hom cho các loài
Tre, Trúc, Sắn, Mía …. Song với những loài cây rừng nhân giống bằng hom
mới được chú ý từ những năm 1979 trở lại đây.
Lần đầu tiên vào năm 1976, những thực nghiệm về nhân giống hom

với một số loài Thông và Bạch đàn được tiến hành tại trung tâm nghiên cứu
cây có sợi Phù Ninh - Phú Thọ. Đây là nghiên cứu rất sơ khai, song đã mở
đầu cho các nghiên cứu thực nghiệm tiếp sau này ở Việt Nam.
Những năm 1983-1984 các thực nghiệm về nhân giống bằng hom
được tiến hành tại viện Lâm Nghiệp (nay là Viện Khoa Học Lâm Nghiệp
Việt Nam), đối tượng nghiện cứu là các loài Mỡ, Lát hoa, Bạch đàn (Nguyễn
Ngọc Tân,1983; Phạm Văn Tuấn, 1984), nội dung nghiên cứu tập trung vào

15

các điểm cấu tạo giải phẫu của hom, ảnh hưởng nhiệt độ, độ ẩm môi trường
và xử lý các chất kích thích ra rễ đến tỷ lệ sống và ra rễ của hom giâm.
Trong những năm 1990 trở lại đây, Lê Đình Khả và cộng sự đã nghiên
cứu giâm hom cho Keo lá tràm, Keo tai tượng, … Đã đạt kết quả, các thí
nghiệm về loại nhà giâm hom, môi trường cắm hom, thời vụ và phương
pháp xử lý chồi cũng được thực hiện. Từ kết quả nghiên cứu này đã xây
dựng được các hướng dẫn kỹ thuật nhân giống bằng hom, phục vụ cho các
chương trình trồng rừng. Ngoài ra, một số loài cây quý hiếm như Thông đỏ,
Bách xanh cũng được nghiên cứu và đạt kết quả. Trung tâm nghiên cứu
giống cây rừng (Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam) sau một thời gian
nghiên cứu thực nghiệm đã thành công trong việc sản xuất hom cây Bạch
đàn trắng và Keo lai theo kế hoạch được bộ Nông Nghiệp và Phát Triển
Nông Thông phê duyệt trong 3 năm 1996 -1998, để phục vụ chương trình trồng
thí điểm Keo lai ở vùng sinh thái chính trong cả nước. Tính đến cuối năm 1997,
Trung tâm đã sản xuất khoảng 120 ngàn cây hom cho 60 ha rừng trồng.
2.3. Tổng quan loài cây nghiên cứu
Đặc điểm hình thái
Cây Sao đen có tên khoa học là Hopea odorata, thuộc họ Dầu, tên
tiếng Anh là Golden oak, là loài cây gỗ lớn thường xanh, thân thẳng, tròn
thuôn, cao từ 20 - 30m. Khi cây trưởng thành, vỏ nứt dọc, màu đen, lõi gỗ

hơi đỏ. Tán lá rậm, hình chóp, cành nhánh khỏe, dài, mọc chếch. Lá hình trái
xoan thuôn, mép hơi gợn sóng, đáy tròn, đỉnh nhọn, mặt trên lá màu xanh
bóng. Mặt dưới hơi bạc, có tuyến ở nách gân bên. Hoa mọc thành chùm, hoa
nhỏ màu trắng. Quả có hai cánh, phủ lông mịn, dài 3-6 cm, lúc non xanh
nhạt, lúc già chuyển qua nâu. Sao đen có cụm hoa hình chùy mang nhiều
bông, mọc ở nách lá hay đỉnh cành, trục cụm hoa có lông xám trắng, mỗi
cụm hoa thường mang 10-12 bông, mỗi bông có 4-6 hoa. Hoa gần không
cuống, lá đài 5, phía ngoài và trong có lông, cánh hoa 5, hình lưỡi hái, mép
có răng, có lông ở ngoài. Quả Sao đen hình trứng, đường kính 7-8mm, mang
2 cánh phát triển, dài 5-6 cm, rộng 1-2 cm, có 7-11 gân song song.


16

Phân bố
Ở Việt Nam: Gặp ở hầu hết các tỉnh từ Quảng Nam trở vào, bao gồm:
Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình
Thuận, Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh, Đồng Nai, An Giang, Kiên
Giang … Tập trung nhiều ở vùng Đông Nam Bộ và Nam Tây Nguyên. Cây
Sao đen cũng được trồng ở nhiều tỉnh cả phía Nam và phía Bắc Việt Nam.
Tại Hà Nội cây được trồng từ đầu thế kỉ XX. Phố Lò Đúc, Hà Nội có hàng
sao đen rất nổi tiếng [1].
Trên thế giới: Lào, Campuchia, Malaysia, Ấn Độ, Thái Lan.
• Giá trị
Thành phần hóa học:
Sao đen trồng lâu năm sẽ cho chai cục. Có khi thu được 10-20 kg chai
cục trên một cây Sao đen mọc ở rừng tự nhiên. Thoạt đầu nhựa chảy ra từ
vết thương, sau đặc lại. Nhựa Sao đen có các chỉ số: điểm chảy 1150, chỉ số
xà phòng 37,1; chỉ số acid 31,5 và hàm lượng tro 0,56%. Sao đen cũng là
cây cung cấp tannin vỏ chưa 15%, lá chứa 11% và gỗ chứa 10%.

Các kết quả nghiên cứu của Nguyễn Quang Huy và cộng sự (2005)
cho biết, dịch chiết bằng ethanol từ vỏ cây Sao đen có hoạt tính ức chế mạnh
sự sinh sản acid của vi khuẩn Streptococus mutans.
Công dụng: Nhựa Sao đen dùng làm véc ni, công nghiệp sơn. Do có
nhiều tannin (15%) nên vỏ Sao đen được dùng làm thuốc: chữa đau răng,
viêm lợi, áp xe, làm răng bền Sao đen được khai thác chủ yếu để lấy gỗ.
Gỗ Sao màu vàng nhạt, hơi xám, dác có màu sáng hơn, thuộc loại gỗ quí,
không mối mọt thường dùng trong xây dựng, đóng đồ đạc, làm sàn nhà, tà
vẹt, đóng toa xe, tàu đi biển, Gỗ Sao đen được ngư dân miền Tây Nam Bộ
rất ưa chuộng. Đây là nguyên liệu dùng cho đóng tàu, thuyền, phà qua sông ….
Cây Sao đen có kích thước lớn, cao, to, tán đẹp nên rất thích hợp trồng
làm cây đường phố, quanh các công trình lớn.
2.3. Tổng quan địa điểm nghiên cứu
• Vị trí địa lí
Đề tài được thực hiện tại Vườn Uơm Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp
Vùng núi phía Bắc trường Đại học Nông Lâm vị trí của trường như sau:

17

Phía Bắc giáp với phường Quán Triều
Phía Nam giáp với phường Thịnh Đán
Phía Tây giáp với xã Phúc Hà
Phía Đông giáp với khu dân cư Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên.
Địa hình, đất:
Vườn Uơm ở khu vực chân đồi, hầu hết đất ở đây là đất Feralit phát
triển trên đá sa thạch, đất lấy để hoạt động đóng bầu là đất tầng B.
Theo kết quả phân tích mẫu đất của trường ta nhận thấy:
Độ PH của đất thấp chứng tỏ đất ở đây là đất chua. Đất nghèo mùn, hàm
lượng N, P
2

O
5
ở mức thấp chứng tỏ đất nghèo dinh dưỡng.
Bảng 2.1: Kết quả phân tích mẫu đất
Độ sâu
tầng đất
(cm)
Chỉ tiêu chỉ tiêu dễ tiêu/100g đất
Mùn N P
2
O
5
K
2
O N P
2
O
5
K
2
O PH
1 - 10 1.766 0.024

0.241

0.035

3.64 4.56 0.90 3.5
10 -30 0.670 0.058


0.211

0.060

3.06 0.12 0.12 3.9
30 -60 0.711 0.034

0.131

0.107

0.107 3.04 3.04 3.7
(Nguồn: Theo số liệu phân tích đất của trường ĐHNL Thái Nguyên)


18

PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cây hom Sao đen ở giai đoạn hom
bánh tẻ.
Phạm vi nghiên cứu: Thuốc kích thích sinh trưởng IBA ở các nồng độ
300ppm, 450ppm, 600ppm, 750ppm.
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành
- Địa điểm: Thí nghiệm được tiến hành tại vườn ươm Trung tâm
Nghiên cứu Lâm nghiệp Vùng núi phía Bắc trường Đại Học Nông Lâm Thái
Nguyên.
- Thời gian tiến hành: 02/2014 – 04/2014
3.3. Nội dung nghiên cứu

- Nghiên cứu tỉ lệ hom sống định kỳ 20 ngày, 40 ngày, 60 ngày ở các
công thức thí nghiệm.
- Nghiên cứu tỉ lệ ra rễ của hom cây Sao đen ở cuối đợt thí nghiệm.
- Nghiên cứu sự nảy chồi của hom cây Sao đen ở cuối đợt thí nghiệm.
- Xác định nồng độ loại thuốc có ảnh hưởng tốt nhất đến sự hình thành
cây hom Sao đen.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm và kế thừa có
chọn lọc các kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Sử dụng phương pháp phân tích phương sai để kiểm tra mức độ chính
xác của kết quả thí nghiệm.
3.4.1. Ngoại nghiệp
Thí nghiệm được tiến hành với 5 công thức mỗi công thức được lặp
lại 3 lần:
Công thức I: Nồng độ IBA là 300ppm.
Công thức II: Nồng độ IBA là 450ppm.
Công thức III: Nồng độ IBA là 600pmm.
Công thức IV: Nồng độ IBA là 750ppm.
Công thức V: Công thức đối chứng không dùng thuốc

×