Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.89 KB, 97 trang )

o0o
































Hà nội - 2008

o0o












Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01


















Hà nội - 2008

1
MỤC LỤC
Lời mở đầu 4
Chương 1: Quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài - Những vấn đề lý luận cơ bản và kinh nghiệm quốc tế 10
1.1. Nhận thức chung về quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài 10
1.1.1. Sự cần thiết phải quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài 10
1.1.2. Nội dung quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài 12
1.2. Kinh nghiệm quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài của Trung Quốc và bài học cho Việt Nam 20
1.2.1. Kinh nghiệm 20
1.2.2. Bài học cho Việt Nam 27
Chương 2: Thực trạng hoạt động quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 30
2.1. Hoạt động của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam từ
năm 2000 đến nay 30
2.1.1. Đóng góp 30
2.1.2. Hạn chế 40
2.1.3. Nguyên nhân của hạn chế 45
2.2. Thực trạng hoạt động quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn

đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 47
2
2.2.1. Quá trình xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật quản lý nhà nước
đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 47
2.2.1.1. Ban hành luật đầu tư 47
2.2.1.2. Chính sách, pháp luật về thuế 49
2.2.1.3. Chính sách đất đai 51
2.2.1.4. Chính sách lao động, tiền lương 53
2.2.2. Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về đầu tư nước ngoài 55
2.2.2.1. Hoạt động xúc tiến đầu tư 55
2.2.2.2. Hoạt động cấp giấy chứng nhận đầu tư và giấy đăng ký kinh doanh 58
2.2.2.3. Hoạt động phân cấp quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài 59
2.2.2.4. Hoạt động quản lý sau cấp phép 61
2.3. Đánh giá tổng quan hoạt động quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài 70
2.3.1. Những mặt đạt được 70
2.3.2. Những hạn chế 73
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với khu
vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 76
3.1. Bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội mới 76
3.2. Giải pháp 79
3.2.1. Hoàn thiện chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội
của đất nước 79
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách 81
3.2.3. Tăng cường hoạt động quản lý trước và sau cấp phép 83
3
3.2.4. Tăng cường hoạt động phân cấp đầu tư 84
3.2.5. Tăng cường công tác xúc tiến đầu tư 85
3.2.6. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính 86
3.2.7. Đào tạo nguồn nhân lực 87

Kết luận 90
Danh mục tài liệu tham khảo 92












4
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, sự di chuyển nguồn lực giữa các
quốc gia đã làm hình thành trong mỗi nền kinh tế một khu vực mới - khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đóng góp của khu vực kinh tế này đối với
sự tăng trưởng, phát triển kinh tế của mỗi nước là không thể phủ nhận, đặc
biệt, đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì sự di chuyển vào
của luồng vốn này có ý nghĩa vô cùng to lớn. Thực tiễn đã chứng minh, trong
quá trình mở cửa nền kinh tế, quốc gia nào thu hút được nhiều luồng vốn quốc
tế và sử dụng chúng có hiệu quả thì cơ hội tăng trưởng và phát triển kinh tế sẽ
nhiều hơn, đồng thời, khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển sẽ được
rút ngắn nhanh hơn. Vì lý do đó mà hiện nay, tất cả các nước đang phát triển
đều muốn thu hút ngày càng nhiều hơn luồng vốn nước ngoài và dẫn đến cạnh
tranh rất gay gắt.

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, trong đó quan
trọng nhất là đổi mới tư duy kinh tế, cùng với tác động của quá trình toàn cầu
hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang
diễn ra như vũ bão, năm 1988, khi luật đầu tư nước ngoài đầu tiên tại Việt
Nam được ban hành thì kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã chính thức trở
thành một trong những thành phần kinh tế cơ bản trong cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần của nước ta.
Sau 20 năm tồn tại và phát triển, đến nay, trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã có một
chỗ đứng rất vững chắc. Khu vực kinh tế này đã có những đóng góp rất quan
trọng vào đầu tư phát triển toàn xã hội, vào tăng trưởng GDP và ngân sách
nhà nước, cho kim ngạch xuất khẩu và tổng giá trị sản phẩm công nghiệp, góp
5
phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, cho nâng cao trình độ
công nghệ quản lý, góp phần đào tạo, nâng cao tay nghề, tạo việc làm, cải
thiện thu nhập cho người lao động.
Tuy nhiên, hoạt động quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế này còn
nhiều bất cập, chưa phát huy hết mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó.
Hệ thống chính sách, văn bản, pháp luật hướng dẫn, thực thi luật chưa rõ
ràng, đồng bộ, chưa tạo lập được môi trường sản xuất kinh doanh lành mạnh
hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Khi Việt Nam đã là thành viên chính thức
của WTO thì vấn đề quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế này cần được
củng cố tăng cường hơn nữa. Một mặt, tạo ra môi trường thông thoáng, lành
mạnh cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp để chúng ta có
thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực và trên thế giới trong việc thu
hút vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác, để phát huy mặt tích cực của khu vực
kinh tế này, phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước, rút ngắn
khoảng cách với các nước phát triển, hạn chế mặt tiêu cực có thể ảnh hưởng
đến xã hội, văn hóa và nền kinh tế của Việt Nam. Do vậy, hoạt động “Quản

lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam” được chọn làm đề tài luận văn của tôi.
2. Tình hình nghiên cứu.
Quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở
Việt Nam là vấn đề kinh tế vĩ mô có tác động lớn tới phát triển kinh tế xã hội
của đất nước, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Đã có nhiều công
trình nghiên cứu được công bố, các kết quả có tác động nhất định đối với thực
tiễn phát triển kinh tế xã hội của đất nước như:
6
- Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam, PGS,TS. Nguyễn Khắc Thân – GS,TS. Chu
Văn Cấp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tạo việc làm cho người lao động, Bùi
Anh Tuấn, NXB Thống kê, Hà Nội, 2000.
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt nam hiện nay, PGS.TS. Trần
Quang Lâm – TS. An Như Hải, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc CNH, HĐH ở Việt Nam, TS
Nguyễn Trọng Xuân, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp,
PGS.TS Trần Xuân Tùng, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Đầu tư của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) tại Việt Nam, PGS.TS
Đỗ Đức Bình, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Trần Văn Nam, Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài: Thực trạng và giải pháp, Trần Văn Nam, NXB Khoa học -
Kỹ thuật, Hà Nội, 2005.
Ngoài ra còn rất nhiều bài báo nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu chủ yếu chỉ tập trung vào việc làm thế nào để tăng cường thu hút
nguồn vốn đầu tư nước ngoài? Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp này ra
sao? Nó tham gia đóng góp vào phát triển kinh tế, xã hội như thế nào,… mà
chưa quan tâm nhiều đến hoạt động quản lý Nhà nước đối với thu hút, sử

dụng nó. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và đặc biệt khi Việt Nam đã
trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO),
những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý Nhà nước đối với các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cần có sự đổi mới để một mặt,
7
khai thác tối đa tính tích cực của nó, mặt khác, giảm thiểu những tiêu cực để
hội nhập kinh tế quốc tế thành công, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. Do
vậy, nghiên cứu hoạt động Quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vẫn là vấn đề hết sức cần thiết.
3. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm quản lý Nhà nước đối với khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài của Trung Quốc và thực trạng hoạt động
quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt
Nam hiện nay, đề tài tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý
Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
trong thời gian tới.
Nhiệm vụ cụ thể:
- Làm rõ sự cần thiết, nội dung của hoạt động quản lý Nhà nước đối với
khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Tìm hiểu kinh nghiệm hoạt động quản lý Nhà nước đối với khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài của Trung Quốc và rút ra bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam.
- Phân tích thực trạng hoạt động quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam những năm gần đây.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với
khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu hoạt động quản lý Nhà nước
đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (không
xét ODA).

8
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động quản lý Nhà nước đối với doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là vấn đề lớn, bao gồm tổng thể các
cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm điều chỉnh tất cả các mặt
của hoạt động đầu tư nước ngoài. Do vậy, đề tài sẽ chỉ tập trung nghiên cứu
vấn đề liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở tầm vĩ mô: Vì sao cần tăng cường quản lý Nhà nước đối với
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài? Nhà nước quản lý doanh
nghiệp FDI như thế nào? Khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của
WTO, hoạt động quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài cần có những thay đổi gì để vừa phù hợp với cam kết
quốc tế về đầu tư, vừa tạo lập môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài?
Từ đó đưa ra các giải pháp tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn mở rộng hội
nhập kinh tế quốc tế.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử làm phương pháp cơ bản, kết hợp với phương pháp
thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh.
6. Đóng góp của luận văn.
- Tìm hiểu kinh nghiệm của Trung Quốc về hoạt động quản lý Nhà nước
đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Đánh giá thực trạng hoạt động quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối
với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian
tới.
9
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, bố cục của luận văn

gồm 3 chương:
Chương 1: Quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài - Những vấn đề lý luận cơ bản và kinh nghiệm quốc tế.
Chương 2: Thực trạng hoạt động quản lý Nhà nước đối với khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với
khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.













10
Chương 1: Quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài - Những vấn đề lý luận cơ bản và kinh nghiệm quốc tế.
1.1. Nhận thức chung về quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài.
1.1.1. Sự cần thiết phải quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài.
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, Đảng ta luôn xác định Việt
Nam phải phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, nguồn vốn trong nước đóng
vai trò quyết định, còn vốn nước ngoài là một trong những nguồn vốn quan

trọng, đặc biệt nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được coi là nguồn
vốn thích hợp, có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Việc thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn FDI mang lại nhiều lợi ích to lớn:
Nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp Việt Nam chủ động tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Do đó, các giải
pháp tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn FDI
có ý nghĩa to lớn, một mặt phát huy tối đa nội lực của các doanh nghiệp này
vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước, mặt khác tạo đà cho sự phát
triển của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong nền kinh
tế.
Doanh nghiệp có vốn FDI là đối tượng quản lý của Nhà nước. Mối quan
hệ biện chứng giữa Nhà nước và các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp
có vốn FDI nói riêng là chặt chẽ và hết sức quan trọng. Sự quản lý của Nhà
nước có ảnh hưởng quyết định tới hoạt động của các doanh nghiệp trong một
quốc gia và ngược lại, hoạt động của các doanh nghiệp lại quyết định tới sức
mạnh của Nhà nước và có ảnh hưởng lớn đến các vấn đề kinh tế, xã hội của
11
đất nước. Do đó, thực hiện quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn
FDI là vấn đề hết sức cần thiết đối với mọi quốc gia.
Mục tiêu của Việt Nam là đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công
nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu đó, trong điều kiện nguồn vốn
ODA trên thế giới đang có xu hướng giảm xuống thì việc thu hút nguồn vồn
FDI là tất yếu.
Trong những năm gần đây, luồng vốn FDI vào Việt Nam liên
tục tăng, tuy nhiên, con số đó vẫn chưa phản ánh hết tiềm năng thu hút vốn
nước ngoài của chúng ta, mặt khác, tỷ lệ vốn giải ngân so với vốn đăng ký
còn rất thấp. Điều này đặt ra những vấn đề bức bách đối với chính phủ Việt
Nam, đòi hỏi các cơ quan hữu quan cần nghiên cứu tìm ra các giải pháp phù

hợp để tiếp tục tăng cường thu hút vốn FDI vào nước ta trong thời gian tới.
Theo quan sát của giới chuyên môn, trong những năm qua, khoảng 70 -
75% dòng vốn FDI trên thế giới chủ yếu di chuyển trong nội bộ các nước phát
triển, chỉ có khoảng 25 - 30% lượng vốn di chuyển đến các nước đang phát
triển và chậm phát triển. Hiện tượng này cho thấy lợi thế về tài nguyên thiên
nhiên dồi dào và lao động rẻ của các nước đang phát triển và chậm phát triển
đang dần không còn là yếu tố quan trọng trong thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài nữa. Trong điều kiện nền kinh tế tri thức, họ quan tâm nhiều hơn đến
nguồn lao động có chất lượng cao, môi trường đầu tư thuận lợi cả về pháp
luật và kết cấu hạ tầng, đủ để đáp ứng cho sự phát triển ngày càng cao của lực
lượng sản xuất.
Ngoài ra, sau cuộc khủng hoảng kinh tế ở Châu Á xuất hiện một nguy cơ
lớn, đó là các nước cũng đang rất cần vốn để khôi phục và phát triển nền kinh
tế, trong khi nguồn vốn trong nước hạn hẹp, họ tăng cường các biện pháp thu
hút vốn đầu tư từ bên ngoài bằng các chính sách thu hút rất hấp dẫn song song
với việc cải thiện môi trường đầu tư trong nước. Do đó, để thu hút nhiều hơn
12
nữa nguồn vốn từ bên ngoài, việc nâng cao năng lực và trình độ quản lý của
Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt Nam là đòi hỏi bức
thiết.
Bên cạnh những mặt tích cực, việc mở cửa cho dòng vốn nước ngoài vào
Việt Nam không phải không có những mặt tiêu cực. Khi luồng vốn FDI vào
trong nước không được kiểm soát chặt chẽ, nó có thể làm ảnh hưởng đến
nguồn tài nguyên, tới môi trường sinh thái của đất nước do việc khai thác và
sử dụng bừa bãi, quá mức. Về mặt xã hội, nó có thể làm ảnh hưởng tới thuần
phong, mỹ tục, tới truyền thống tốt đẹp của dân tộc và con người Việt Nam…
Còn một nguy cơ rất lớn là nó làm tăng sự lệ thuộc của Việt Nam với bên
ngoài, làm ảnh hưởng tới việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của đất
nước.
Những vấn đề bất lợi đó, đòi hỏi Nhà nước cần có sự quản lý chặt chẽ để

giảm thiểu mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực, tạo ra môi trường đầu tư hấp
dẫn thu hút ngày càng nhiều hơn luồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần thực
hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia.
1.1.2. Nội dung quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn FDI là việc Nhà nước
tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, các điều kiện cần thiết, tạo ra khung
khổ chính sách, pháp luật phù hợp thông qua bộ máy hành chính từ trung
ương đến địa phương quản lý hoạt động của doanh nghiệp từ khi thành lập
đến khi doanh nghiệp rút khỏi thị trường. Hoạt động quản lý Nhà nước đối
với doanh nghiệp có vốn FDI bao gồm những nội dung sau:
13
- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách về đầu tư phát
triển.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế đều được tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng vì mục
tiêu lợi nhuận, họ sẽ chỉ đầu tư vào những nơi có thể đem lại cho họ nhiều lợi
nhuận nhất. Bắt nguồn từ lý do đó thì chỉ những ngành, những lĩnh vực có
khả năng thu hồi vốn nhanh, những vùng có điều kiện sản xuất kinh doanh
thuận lợi mới thu hút được sự đầu tư của họ. Tuy nhiên, điều đó rất dễ dẫn
đến tình trạng mất cân đối trong sự phát triển của nền kinh tế. Do vậy, để các
doanh nghiệp có vốn FDI phát triển cân đối trong phạm vi cả nước, giữa các
vùng kinh tế, giữa các ngành kinh tế, việc xây dựng chiến lược, quy hoạch và
kế hoạch phát triển doanh nghiệp FDI đóng một vai trò rất quan trọng trong
quản lý Nhà nước.
Khi xây dựng chiến lược quy hoạch, kế hoạch cần đảm bảo thoả mãn các
yêu cầu kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, an ninh quốc phòng của đất nước,
đồng thời phải công khai cho các nhà đầu tư biết về những lĩnh vực, ngành
nghề khuyến khích, không khuyến khích hay cấm đầu tư, và những ưu tiên

của nhà nước là gì, thứ tự ra sao, những hình thức sản xuất kinh doanh nào
được cho phép thành lập và hoạt động, yêu cầu đối với chủ thể sản xuất kinh
doanh trong từng hình thức đó ra sao?
Khi đề ra chiến lược phải dựa trên cơ sở lợi ích của cả hai bên: Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và nước sở tại. Yêu cầu doanh nghiệp phải
hoạt động theo khuôn khổ pháp luật, nhưng không có nghĩa là bắt doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoàn toàn làm theo ý muốn của nước tiếp
nhận đầu tư, phải khéo léo làm cho vùng giao thoa lợi ích giữa các bên là lớn
nhất có thể.
14
Tuy nhiên, cũng không vì tăng cường thu hút FDI bằng mọi giá để buộc
quy hoạch chạy theo doanh nghiệp, chúng ta cần dựa vào lợi ích lâu dài của
mỗi địa phương và của cả đất nước. Quy hoạch cần rõ ràng, cụ thể và đảm
bảo để các nhà đầu tư nước ngoài được tự do lựa chọn ngành nghề kinh
doanh, trừ những lĩnh vực cấm. Kế hoạch, quy hoạch phải đồng bộ, cụ thể và
có tính khả thi cao. Phải luôn chú ý tới sức hấp dẫn của chính sách, quy
hoạch, kế hoạch đối với nhà đầu tư nước ngoài nhằm đảm bảo cạnh tranh
được với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư.
Doanh nghiệp có vốn FDI có quyền tự chủ rất lớn trong hoạt động sản
xuất kinh doanh. Do vậy, sự tác động của quản lý Nhà nước đối với loại hình
doanh nghiệp này, một mặt, phải tôn trọng các quy luật của thị trường, mặt
khác, phải đảm bảo mục tiêu chung về phát triển kinh tế xã hội của đất nước
và tính tự chủ của doanh nghiệp. Vì vậy, công cụ hữu hiệu nhất của nhà nước
trong việc quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chính là hệ thống
chính sách, pháp luật.
Hệ thống pháp luật và chính sách phải nhất quán, đồng bộ, minh bạch, rõ
ràng, tạo điều kiện cho tất cả các loại hình doanh nghiệp trong và ngoài nước
tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật để đạt được hiệu quả cao nhất.
Chính sách, pháp luật phải được đưa ra trên cơ sở điều kiện, hoàn cảnh cụ thể

của mỗi quốc gia, nhưng phải phù hợp với những nguyên tắc và thông lệ quốc
tế, đặc biệt phải phù hợp với những quy định của WTO. Những chính sách
khuyến khích, ưu đãi đầu tư cần được cân nhắc kỹ, xem xét dài hạn, tránh ảnh
hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế.
Cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp
FDI bao gồm:
15
+ Chính sách tài chính, chính sách đất đai, chính sách tiền tệ, chính sách
thuế, chính sách khoa học công nghệ, chính sách ưu đãi, khuyến khích, hỗ trợ
đầu tư, chính sách lao động tiền lương, chính sách về môi trường,…
+ Những quy định về các hình thức tổ chức doanh nghiệp, việc chia,
tách, sát nhập, hợp nhất và chuyển đổi doanh nghiệp, thủ tục đăng ký kinh
doanh, các ngành doanh nghiệp FDI được phép hoặc không được phép kinh
doanh, trình tự, thủ tục giải thể, phá sản doanh nghiệp.
+ Quy định về giải quyết tranh chấp, vướng mắc trong hoạt động của
doanh nghiệp, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh
nghiệp về thực thi pháp luật,…
- Quản lý hoạt động cấp phép và các hoạt động khác của doanh nghiệp.
+ Hoạt động cấp phép và rút giấy phép:
Để được cấp giấy chứng nhận đầu tư, giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải đáp ứng đầy đủ các yêu
cầu của nước tiếp nhận đầu tư về các vấn đề: phù hợp với chiến lược phát
triển kinh tế của đất nước, phù hợp với quy hoạch, chiến lược phát triển của
từng ngành, từng vùng, từng địa phương và bên cạnh lợi ích đem lại cho chủ
đầu tư thì phải thể hiện được lợi ích có thể đạt được cho sự phát triển kinh tế,
xã hội của nước tiếp nhận đầu tư.
Theo quy định của luật đầu tư năm 2005, những dự án liên quan đến an
ninh quốc phòng hoặc có quy mô lớn, đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực
quan trọng của nền kinh tế quốc dân, những lĩnh vực đầu tư có điều kiện sẽ do
cơ quan quản lý cao nhất của Nhà nước quyết định, những dự án ngoài những

điều kiện trên sẽ phân cấp dần cho các cơ quan quản lý Nhà nước cấp thấp
hơn.
16
Thực hiện phân cấp cấp giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép đăng ký kinh
doanh theo chủ trương của nhà nước quy định tại Luật đầu tư năm 2005,
UBND cấp tỉnh hoặc ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao, khu kinh tế sẽ là cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư cho hầu hết
các dự án. Đối với dự án đầu tư nước ngoài không nằm trong khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế thì cơ quan tiếp nhận hồ
sơ là sở kế hoạch đầu tư cấp tỉnh. Đối với dự án đầu tư vào khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ quan tiếp nhận hồ sơ sẽ là
ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
Các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét tính hợp lệ của hồ sơ dự án và sẽ yêu
cầu bổ sung nếu thấy cần thiết. Trong trường hợp cần thiết, họ sẽ gửi hồ sơ
xin tham khảo ý kiến của cơ quan cấp trên (bộ quản lý ngành, bộ kế hoạch
đầu tư, UBND tỉnh) về các vấn đề thuộc phạm vi, thẩm quyền giải quyết của
các cơ quan đó. Khi đã có ý kiến chỉ đạo thống nhất của các cơ quan liên
quan, cơ quan tiếp nhận hồ sơ sẽ tiến hành xem xét việc cấp giấy chứng nhận
đầu tư cho nhà đầu tư.
Xuất phát từ quan điểm đổi mới nhằm đơn giản hoá các thủ tục hành
chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nói chung và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng gia nhập thị trường và thực hiện
các hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, luật Doanh nghiệp năm 2005 quy
định thủ tục đăng ký kinh doanh được gắn với thủ tục đăng ký đầu tư. Theo
đó, giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Cũng theo luật doanh nghiệp năm 2005, cơ quan nhà nước cũng có thể
điều chỉnh nội dung trong giấy phép đầu tư với những dự án đã được cấp giấy
phép, nhưng trong quá trình triển khai có những điều chỉnh vốn, thay đổi đối
tác, và có sự thay đổi về chính sách ưu đãi,…
17

Trong các trường hợp doanh nghiệp giải thể trước thời hạn, cơ quan nhà
nước sẽ đưa ra các quyết định về việc chấm dứt hoạt động và thu hồi giấy
phép đầu tư.
+ Hoạt động chuyển giao công nghệ:
Trong các liên doanh, nhà nước có những quy định về tỷ lệ góp vốn của
các bên tham gia. Thông thường nhà nước khuyến khích phía Việt Nam góp
phần vốn lớn trong liên doanh và có những quy định chặt chẽ về kiểm soát giá
cả máy móc, thiết bị để tránh tình trạng phía nước ngoài nâng giá lên cao hơn
giá thị trường gây thiệt hại cho doanh nghiệp Việt Nam và nhà nước. Mặt
khác, nhà nước cũng có những quy định về quản lý quá trình chuyển giao
công nghệ, nhập máy móc thiết bị của những doanh nghiệp có vốn FDI để
tránh trường hợp các doanh nghiệp nhập khẩu máy móc, thiết bị cũ, lạc hậu sẽ
làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam và làm ảnh hưởng đến
môi trường sinh thái. Tuy nhiên, do trình độ của lao động Việt Nam có hạn,
nếu sử dụng công nghệ hiện đại sẽ đẩy người lao động đến chỗ thất nghiệp.
Do vậy, nhà nước cần có những quy định trong việc lựa chọn công nghệ và có
thể phải hy sinh một số mục tiêu kinh tế, xã hội.
+ Hoạt động tạo điều kiện cạnh tranh và kiểm soát độc quyền:
Nhà nước cũng cần phải có quy chế để giảm thiểu tình trạng các doanh
nghiệp FDI liên kết với nhau thống lĩnh thị trường gây thiệt hại cho người tiêu
dùng và doanh nghiệp trong nước để đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế.
+ Quản lý về vấn đề lao động tiền lương trong các doanh nghiệp FDI.
Nhà nước ban hành quy chế đảm bảo cho thị trường lao động Việt Nam
hoạt động có hiệu quả và đúng luật để đảm bảo cho sự cạnh tranh bình đẳng
18
giữa các loại hình doanh nghiệp trên thị trường này và cũng là để đảm bảo
quyền lợi cho người lao động.
Ban hành những quy định bắt buộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài chấp hành nghiêm chỉnh những chính sách, chế độ tuyển dụng lao

động, thời gian nghỉ ngơi, thời gian thử việc, an toàn lao động, tiền lương,
tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, chế độ nâng lương và các quyền lợi chính đáng
khác của người lao động.
- Thanh tra, kiểm tra và giám sát các hoạt động đầu tư.
Trong các nội dung của hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát là một
hoạt động không thể thiếu, bởi vì trong tất cả các hoạt động của con người,
chưa có lĩnh vực nào mà việc thực thi các quy định, pháp luật của nhà nước
lại được thực hiện nghiêm túc một cách hoàn toàn chủ động. Mục đích của
việc kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp là nhằm hạn
chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhà nước, kịp thời
phát hiện những sai sót trong quá trình thực hiện pháp luật của doanh nghiệp
để có những biện pháp điều chỉnh, ngăn chặn những sai phạm của doanh
nghiệp, hướng dẫn doanh nghiệp chấp hành đúng pháp luật, đồng thời có cơ
chế khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp một cách hợp lý. Qua việc thanh tra,
thẩm tra, giám sát của mình, nhà nước có thể nắm bắt được những thông tin
phản hồi từ phía doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, nhà nước có thể đánh giá mức
độ hiệu quả và hợp lý của hệ thống cơ chế, chính sách đã ban hành. Cần phải
hiểu thanh tra, kiểm tra, giám sát là hoạt động cần thiết, thường xuyên, liên
tục của các cơ quan quản lý nhà nước, nhưng phải dựa trên nguyên tắc tôn
trọng quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
tránh can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp.
19
Như vậy, mục đích của hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của nhà nước, một mặt để đảm bảo sự
nghiêm minh của pháp luật, mặt khác, nhằm tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ các
doanh nghiệp tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong hoạt động của mình
- Tổ chức hoạt động đào tạo nguồn lực.
Việt Nam cũng như các nước trong khu vực Châu Á thu hút luồng vốn
đầu tư nước ngoài bằng lợi thế về tài nguyên và giá nhân công rẻ. Tuy nhiên,

ngày nay, khi nền kinh tế thế giới đang dần chuyển sang nền kinh tế tri thức
thì lợi thế nhân công rẻ sẽ không còn là yếu tố chính hấp dẫn với nhà đầu tư
nước ngoài nữa. Nguồn lực có trình độ, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp,
phẩm chất đạo đức và nhân cách sẽ trở thành nhân tố quyết định chính đối với
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài nói riêng cũng như sự tăng trưởng, phát triển của mỗi quốc gia.
Hiện nay, nguồn nhân lực của chúng ta còn yếu về chuyên môn, kỹ năng
nghề nghiệp, trình độ ngoại ngữ và sự am hiểu về pháp luật lao động, pháp
luật đầu tư nước ngoài của chính đất nước mình cũng còn rất hạn chế. Đây là
nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam. Chính vì vậy, hoạt động đào tạo nguồn lực cũng là một nội
dung quan trọng trong quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài.
- Tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư.
Hoạt động xúc tiến đầu tư là một bộ phận quan trọng trong hệ thống
chính sách thu hút FDI của mỗi quốc gia. Hoạt động này thường được thực
hiện thông qua các phương pháp:
+ Tham gia các cuộc hội thảo, hội chợ, triển lãm quốc tế về đầu tư nước
ngoài.
20
+ Tổ chức các hoạt động quảng bá, tuyên truyền, giới thiệu hình ảnh
quốc gia trên các phương tiện thông tin đại chúng và thông qua các cuộc hội
thảo, triển lãm trong và ngoài nước.
+ Cung cấp các thông tin về cơ chế, chính sách, pháp luật về đầu tư.
+ Cung cấp các dịch vụ tư vấn và hỗ trợ đầu tư.
+ Tháo gỡ những khó khăn, thúc đẩy những dự án đang hoạt động hoạt
động hiệu quả hơn.
+ Cải tiến thủ tục hành chính trong quá trình cấp phép, giải quyết tranh
chấp theo hướng nhanh, gọn, đơn giản, minh bạch.
Hoạt động đầu tư được thực hiện thông qua cơ quan xúc tiến đầu tư.

Hiện nay, hoạt động này được phân cấp cho các cơ quan xúc tiến đầu tư của
các tỉnh, thành cùng tham gia với cơ quan xúc tiến đầu tư quốc gia để nâng
cao hiệu quả xúc tiến đầu tư.
1.2. Kinh nghiệm quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam.
1.2.1. Kinh nghiệm.
Trung Quốc là nước có diện tích rộng thứ ba thế giới, với dân số 130
triệu người, đông nhất trên thế giới. GDP bình quân đầu người của Trung
Quốc đã đạt mức 1.700USD. Chỉ sau một năm gia nhập tổ chức thương mại
thế giới (WTO), dòng vốn FDI vào Trung Quốc tăng nhanh chóng. Hiện có
khoảng 200 nước và khu vực đầu tư vào Trung Quốc. Từ năm 1993 đến nay,
Trung Quốc chỉ đứng thứ hai (sau Hoa Kỳ) về khối lượng thu hút vốn đầu tư
nước ngoài. Riêng hai năm 2002 và 2003, Trung Quốc đã vượt Hoa Kỳ và trở
thành nước tiếp nhận FDI lớn nhất thế giới. Vốn FDI vào Trung Quốc liên tục
21
tăng qua các năm. Năm 2001 FDI thực tế đạt 46,8 tỷ USD, năm 2002 tăng lên
52,7 tỷ USD, từ năm 2003 đến nay đều đạt từ 50 – 60 tỷ USD/năm. Dự tính
đến năm 2009, dòng FDI vào Trung Quốc có thể đạt 80 tỷ USD. Qua 27 năm
cải cách mở cửa, luỹ kế thu hút FDI của Trung Quốc đạt hơn 667 tỷ USD.
Tính đến năm 2007 đã có 480/500 công ty xuyên quốc gia mạnh nhất toàn cầu
đầu tư vào Trung Quốc và 14 năm liên tục Trung Quốc là nước thu hút FDI
đứng đầu các nước đang phát triển. Trung Quốc đã thực sự trở thành bộ phận
quan trọng trong mắt xích ngành nghề toàn cầu.
Có nhiều nguyên nhân tạo nên sức hấp dẫn của Trung Quốc đối với dòng
vốn FDI, song các nhà nghiên cứu cho rằng, nguyên nhân quan trọng nhất là
do nhận thức và đánh giá về tầm quan trọng của FDI trong chiến lược phát
triển kinh tế của đất nước này. Trung Quốc đã ban hành và có sự điều chỉnh
hệ thống chính sách, pháp luật đối với FDI phù hợp với điều kiện tình hình
mới nhằm tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi nhất cho nhà đầu tư nước ngoài.

- Chính sách, cơ chế, pháp luật đối với đầu tư nước ngoài.
Bộ luật liên doanh cổ phần giữa Trung Quốc với nước ngoài ban hành
ngày 01/07/1979 là văn bản đầu tiên về đầu tư nước ngoài sau cải cách và mở
cửa của Trung Quốc. Đến nay, Trung Quốc đã ban hành hơn 500 văn bản
gồm các bộ luật và văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động đầu tư nước
ngoài, trong đó có Luật liên doanh, quy định thực hiện luật liên doanh, quy
định của hội đồng nhà nước về khuyến khích đầu tư nước ngoài, luật ngoại
thương,… Những văn bản này cơ bản là phù hợp với đòi hỏi của những quan
hệ mở trong nền kinh tế thị trường và thường được sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp khi thực tiễn thay đổi.
Để nhất quán với những điều khoản đã cam kết, bảo vệ quyền lợi của
nhà đầu tư nước ngoài, đối xử công bằng và cùng có lợi chung, Trung Quốc
22
tăng cường ban hành và cải tiến luật, quy định, chính sách có liên quan đến
thu hút đầu tư nước ngoài nhằm thiết lập hệ thống thị trường thống nhất và có
trật tự trên toàn quốc như: Luật doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được ban
hành năm 1986, luật về khuyến khích đầu tư của thương nhân Đài Loan được
ban hành năm 1988. Luật hợp đồng hợp tác kinh doanh được ban hành năm
1988, luật thuế thu nhập doanh nghiệp được ban hành năm 1991. Năm 1990,
Trung Quốc tiến hành sửa đổi các luật trên với nhiều quy định có lợi cho các
nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 1992 là dấu mốc rất quan trọng trong lịch sử thu hút FDI của Trung
Quốc. Sự thông thoáng và cởi mở hơn của chính sách và chiến lược thu hút
FDI đã mở ra thời kỳ tăng trưởng FDI cao nhất trong lịch sử của Trung Quốc.
Năm 1992 Luật về hiệp hội thương mại được ban hành. Năm 1993 Luật công
ty được thông qua và các điều khoản về kiểm soát thuế tiêu thụ, thuế kinh
doanh và thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng được ban hành đã
khuyến khích mạnh dòng vốn FDI vào Trung Quốc. Để đảm bảo lợi ích và tạo
sự tin tưởng của giới đầu tư Đài Loan - một trong những nhà đầu tư lớn nhất
của Trung Quốc - vào chính sách mở cửa của đại lục, năm 1994 Trung Quốc

đã ban hành Luật bảo vệ đầu tư của thương nhân ở Đài Loan. Nhằm thúc đẩy
thu hút đầu tư nước ngoài, năm 1994 Trung Quốc đã ban hành điều luật về
kiểm soát ngoại tệ và tiến hành sửa đổi năm 1997. Ngoài ra, để tác động mạnh
hơn nữa đến hoạt động thu hút FDI, Trung Quốc đã ban hành một số luật và
điều khoản quy định, hướng dẫn hoạt động FDI như: các điều khoản hướng
dẫn lĩnh vực kêu gọi đầu tư năm 1995 và 1997, Luật về bảo hiểm và quy định
cụ thể hướng dẫn thực hiện luật hợp đồng hợp tác liên doanh năm 1995.
Cuối năm 2001, cùng với việc chính thức gia nhập tổ chức thương mại
thế giới (WTO), Trung Quốc đã cam kết mở cửa các lĩnh vực đầu tư theo lộ
trình đàm phán, đồng thời sửa đổi một cách cơ bản luật về liên doanh với
23
nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, bãi bỏ yêu cầu về chuyển
giao công nghệ, tỷ lệ nội địa hoá, sử dụng nguyên liệu, vật tư trong nước. Bên
cạnh đó, Trung Quốc đã sửa đổi các đạo luật và các chính sách nhằm khuyến
khích đầu tư vào các ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật công nghệ
cao, chính sách thúc đẩy kinh tế tư nhân, luật sở hữu trí tuệ và ban hành quy
định các doanh nghiệp có vốn FDI được quyền phân phối sản phẩm trên phạm
vi toàn quốc. Trung Quốc cũng đã điều chỉnh lại quy định bảo hộ và sát nhập
đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 2002, Trung Quốc đã ban hành một số văn bản mới để hướng dẫn
đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phù hợp với những cam kết trong quá trình
đàm phán ra nhập WTO. Hướng dẫn mới này đặc biệt tập trung thu hút đầu tư
vào công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn, công nghệ cao, vật liệu mới,
năng lượng, vận tải và bảo vệ môi trường. Các dự án đầu tư nước ngoài được
phân thành bốn loại: Khuyến khích đầu tư, được phép đầu tư, hạn chế đầu tư
và cấm đầu tư. Danh mục các dự án được khuyến khích đầu tư tăng từ 116
hạng mục lên 262 hạng mục. Số lĩnh vực bị cấm hoặc hạn chế đầu tư giảm
mạnh từ 112 hạng mục xuống còn 75 hạng mục. Theo đó, doanh nghiệp đầu
tư vào lĩnh vực khuyến khích đầu tư có thể được hưởng mức thuế thu nhập
doanh nghiệp là 15%. Các lĩnh vực dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, thương

mại, ngoại thương, truyền thông, du lịch, vận tải là những lĩnh vực sẽ từng
bước được mở cửa khuyến khích đầu tư theo lộ trình cam kết gia nhập WTO.
Những ngành trước đây bị cấm như khí đốt, bưu chính viễn thông, cấp thoát
nước, cung cấp hơi nóng, theo quy định mới, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ
được phép đầu tư. Ngoài ra, hướng dẫn mới còn khuyến khích các nhà đầu tư
nước ngoài tham gia cải cách doanh nghiệp nhà nước và cho phép họ được
quyền giữ cổ phần chi phối ở những doanh nghiệp nhà nước lớn, trừ những
lĩnh vực đặc biệt quan trọng với an ninh quốc gia. Việc tích cực điều chỉnh

×