Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Trình bày các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại trên Thị trường chứng khoán, liên hệ thực tiễn tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.68 KB, 31 trang )

Đề tài 14:
Trình bày các hoạt động cơ bản
của Ngân hàng thương mại trên TTCK.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam
MỤC LỤC
I) Giới thiệu chung về ngân hàng thương mại 1
1) Khái niệm : 1
2) Chức năng của ngân hàng thương mại: 1
3) Hoạt động của ngân hàng thương mại: 6
3.1)Hoạt động huy động vốn: 6
3.2) Hoạt động %n dụng: 6
3.3)Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: 7
3.4) Các hoạt động khác: 7
II)Giới thiệu chung về thị trường chứng khoán 7
1)Khái niệm: 7
2) Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán 8
3)Vai trò của thị trường chứng khoán 8
4) Phân loại thị trường chứng khoán: 9
4.1). Xét về quá trình luân chuyển chứng khoán thì thị trường chứng khoán được chia làm
thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp 9
4.2)Xét về phương diện pháp lý thị trường chứng khoán được chia thành thị trường tập
trung , thị trường phi tập trung 11
4.3)Thị trường trái phiếu,cổ phiếu.các công cụ phái sinh 11
4.4) Nếu xét về phương thức giao dịch thì thị trường chứng khoán được chia thành thị
trường giao ngay và thị trường giao sau: 12
III) Các hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng
khoán 12
1. Hoạt động phát hành chứng khoán 13
2. Hoạt động đầu tư chứng khoán 15
3. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán 17
4. Hoạt động tư vấn chứng khoán 20


5. Hoạt động môi giới chứng khoán 21
6. Hoạt động quản lý danh mục đầu tư chứng khoán 22
7. Các hoạt động khác 23
IV) Vai trò của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán. .24
1. Trên thị trường sơ cấp 24
2) Trên thị trường thứ cấp 25
V) Kiến nghị, giải pháp để phát huy hiệu quả hoạt động của ngân hàng
thương mại trên thị trường chứng khoán: 27
I) Giới thiệu chung về ngân hàng thương mại
1) Khái niệm :
Đầu tiên ngân hàng thương mại là một loại ngân hàng trung gian. Ở
mỗi nước có một cách định nghĩa riêng về ngân hàng thương mại. Ví dụ: Ở
Mỹ: ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các
dịch vụ tài chính và họat động trong ngành dịch vị tài chính. Ở Pháp: ngân
hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận tiền
của công chúng dưới hình thức kí thác hay hình thức khác các số tiền mà họ
dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Ấn Độ: ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản kí thác để cho vay
hay tài trợ và đầu tư. Ở Thổ Nhĩ Kì: ngân hàng thương mại là hội trách nhiệm
hữu hạn thiết lập nhằm mục đích nhận tiền kí thác và thực hiện các nghiệp vụ
hối đoái, nghiệp vụ công hối phiếu, chiết khấu và những hình thức vay mượn
khác…
Ở Việt Nam Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của hội đồng Nhà
nước Việt Nam xác định: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanhtiền
tệ mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng
với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp
vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
2) Chức năng của ngân hàng thương mại:
a) Chức năng trung gian tín dụng
Đây là chức năng đặc trưng cơ bản nhất của Ngân hàng Thương mại và

có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trung gian tài chính là hoạt động cầu nối giữa cung và cầu vốn trong xã hội,
khơi nguồn vốn từ những người có thể vì lý do gì đó không dùng nó một cách
sinh lợi sang những người có ý muốn dùng nó để sinh lợi.
Một mặt Ngân hàng Thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn
1
tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành
nguồn vốn cho vay; mặt khác trên cơ sở số vốn đã huy động được, ngân hàng
cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng…của các
chủ thể kinh tế, góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh
tế xã hội thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy ngân hàng Thương mại vừa là
người đi vay vừa là người cho vay. Vai trò trung gian ngày càng trở nên
phong phú hơn như việc phát hành thêm trái phiếu, cổ phiếu chứng chỉ tiền
gửi và hiện nay phổ biến là tiền gửi tiết kiệm…
Ngày nay, quan niệm vai trò trung gian tín dụng trở nên biến hoá hơn.
Sự phát triển của thị trường tài chính làm xuất hiện những khía cạnh khác của
chức năng này. Ngân hàng có thể đứng làm trung gian giữa ngân hàng (phát
hành cổ phiếu) với những nhà đầu tư; chuyển giao các mệnh lệnh trên thị
trường chứng khoán; đảm nhận việc mua bán trái phiếu ngân hàng. Do đó
ngân hàng không chỉ làm trung gian giữa người gửi tiền và người vay tiền mà
còn là trung gian giữa người đầu tư và người cần vay vốn trên thị trường.
Thông qua chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng Thương mại đã và đang
thực hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên,
vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, cải
thiện đời sống của nhân dân.
b) Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện
thanh toán
Chức năng này là sự kế thừa và phát triển chức năng ngân hàng là thủ
quỹ của các ngân hàng, tức là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản
hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khoản. Công việc của người thủ quỹ

chính là ở chỗ làm trung gian thanh toán. Ngày nay hầu hết các khoản thanh
toán chi trả về hàng hoá dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế( các ngân hàng và cá
nhân ) đều được chuyển giao cho ngân hàng thực hiện, việc thanh toán trở nên
2
tiện lợi, tiết kiệm được nhiều chi phí, mọi quan hệ thanh toán được thực hiện
bằng cách các chủ thể mở tài khoản tại ngân hàng và yêu cầu ngân hàng thực
hiện các khoản chi trả hoặc uỷ nhiệm cho ngân hàng thực hiện việc thu nhận
các khoản tiền vào tài khoản của mình.
Trong khi làm trung gian thanh toán ngân hàng tạo ra những công cụ
lưu thông tín dụng và độc quyền quản lý các công cụ đó (séc, giấy chuyển
ngân, thẻ thanh toán… ) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu
thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng
hoá. Khách hàng của ngân hàng không phải chi trả với nhau bằng các bao tiền
rất tốn kém, mà chỉ cần ra lệnh cho ngân hàng thông qua các phương tiện,
ngân hàng sẽ ghi nợ tài khoản người này ghi có tài khoản người kia nhanh
chóng. Việc làm trung gian thanh toán của ngân hàng ngày nay đã phát triển
đến tầm mức rất mức rất đa dạng không chỉ là trung gian thanh toán truyền
thống như trước mà còn quaảnlý các phương tiện thanh toán. Đây là vai trò
ngày càng chiếm vị rí rất quan trọng phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của
khoa học kỹ thuật.
c) Chức năng tạo tiền trong hệ thống ngân hàng hai cấp
Các ngân hàng có khả năng tạo ra tiền gửi khi họ cho vay hoặc đầu tư,
tức là ngân hàng mở rộng cung tiền tệ bằng cho vay và đầu tư. Khi một ngân
hàng cho một cá nhân hoặc ngân hàng vay, nó tạo ra trên sổ sách của nó một
khoản tiền gửi dành cho quyền lợi của người đi vay. Tương tự như vậy, khi
ngân hàng mua trái phiếu kho bạc hoặc các loại chứng khoán khác cho danh
mục của mình thì tiền gửi được tạo ra cho quyền lợi của những người bán
chứng khoán này. Nói cách khái quát, ngân hàng có khả năng tạo ra tiền dưới
chiêu bài gửi mới bằng cách cấp phát tín dụng cho khách hàng và đầu tư vào
chứng khoán. Tiền gửi được tạo ra qua việc cho vay và đầu tư của ngân hàng

được gọi là ”tiền gửi thứ cấp”. Cũng giống như đối với tất cả các loại tiền gửi
3
của ngân hàng, tiền gửi thứ cấp là những giấy nợ của ngân hàng tạo ra. Tuy
nhiên sự khác biệt quan trọng giữa giấy nợ của một ngân hàng với giấy nợ
của các người đi vay là giấy nợ của ngân hàng được chấp nhận như là tiền.
Khách hàng cảm thấy an tâm khi chấp nhận tờ giấy nợ tiền gửi của một ngân
hàng hơn là những rủi ro và bất tiện khác của giấy nợ do các nhà kinh doanh
khác tạo ra.
Khả năng tạo tiền của ngân hàng Thương mại gắn liền với việc ngân
hàng cung cấp một cơ chế cho việc thực hiện thanh toán dưới hình thức tiền
tệ, tài khoản séc và các phuơng tiện giao dịch khác và thường được công
chúng chấp nhận rộng rãi. Không có một định chế tài chính nào khác có thể
cung cấp một công cụ với khả năng không hạn chế cho việc thanh toán cho
các bên thứ ba theo yêu cầu. Hệ thống Ngân hàng Thương mại có một vai trò
trung tâm trong việc tạo ra quỹ khả dụng cho việc mua hàng hoá và dịch vụ
trong nền kinh tế hiện đại bằng cách cung cấp tài khoản giao dịch cho khách
hàng. Tài khoản giao dịch hiện vẫn còn là hình thức chính của tiền tệ ở phần
lớn các quốc gia, nó tượng trưng cho nợ (lời hứa thanh toán) của một ngân
hàng, tượng trưng cho phương thức chính được công chúng ngày nay sử dụng
để thanh toán. Các quỹ chảy tự do xuyên qua các biên giới địa dư và chính trị,
bởi vì các ngân hàng riêng lẻ sẵn lòng thanh toán ngay lập tức bất kỳ hối
phiếu nào ký phát cho họ. Toàn bộ hệ thống dựa trên niềm tin của công chúng
và sự tự nguyện chấp nhận tiền gửi ngân hàng như là một phương tiện trung
gian cho việc thanh toán hàng hoá và dịch vụ. Trong lịch sử, các ngân hàng là
các định chế độc nhất cung cấp tài khoản thanh toán và đáp ứng chủ yếu nhu
cầu của khách hàng ngân hàng. Tuy nhiên tính độc nhất này đang đang dần dà
biến mất trước sự phát triển rầm rộ của những nhà cung cấp dịch vụ tài chính
đang nhảy vào thị trường người truyền thống và lôi cuốn đi những khách hàng
quý giá nhất của ngân hàng. Chính vì vậy rủi ro kinh doanh của ngân hàng
4

ngày càng tăng đòi hỏi các ngân hàng Thương mại phải đổi mới liên tục để
theo kịp nhu cầu của các “thượng đế”
d) Chức năng tài trợ ngoại thương, mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc
tế
Một trong những đặc điểm rõ nhất của công nghiệp ngân hàng Thương
mại là các hoạt động ngân hàng đã trở nên toàn cầu hoá do các ngân hàng đều
có các chi nhánh vượt ra khỏi nước mình và tham gia vào các trung tâm tài
chính ở nước ngoài. Ngày nay xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá với những
đặc trưng tự do hoá Thương mại và tự do hoá tài chính ngày càng rộng khắp
và mạnh mẽ đã và đang đòi hỏi ngân hàng các nước đẩy mạnh hoạt động kinh
doanh đối nội đối ngoại với các ngân hàng Thương mại ở các quốc gia khác
nhau. Mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại các ngân hàng Thương mại sẽ
thu được nhiều lợi ích: tranh thủ được các nguồn vốn trên thị trường quốc tế
thông qua các ngân hàng nước ngoài hoặc các chi nhánh ngân hàng nước
ngoài tại trong nước để đầu tư phát triển kinh tế đất nước; có điều kiện tiếp
cận và học hỏi công nghệ ngân hàng tiên tiến, nhất là ở các khâu thanh toán,
kinh doanh ngoại hối, thẩm định dự án, phòng ngừa rủi ro, kiểm soát nội bộ
và giám sát tài chính; góp phần quan trọng khuyến khích mở rộng xuất khẩu,
kiểm soát tốt nhập khẩu; tạo điều kiện, cơ hội mở rộng thị trường, tìm kiếm
bạn hàng trên những lĩnh vực kinh doanh khác nhau.
Một trong những chức năng quan trọng nhất do các ngân hàng thực
hiện trong việc tham gia vào nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là tài trợ xuất nhập
khẩu và nền Thương mại giữa các quốc gia. Giống như Thương mại trong
nước, hoạt động ngoại thương đòi hỏi các phương pháp tài trợ khác nhau,
hoạt động ngoại thương bao gồm ứng tiền trước, tài khoản mở, uỷ thác, nhờ
thu và thư tín dụng, tín dụng chiết khấu hối phiếu, bảo lãnh, mua và bán séc
du lịch…Từ lâu, các ngân hàng chỉ liên quan đến một quá trình riêng biệt
5
trong các giao dịch mậu dịch quốc tế như cung cấp một khoản tiền cho vay
hoặc một L/C. Nhưng từ khi tài trợ trở thành một phần không thể thiếu đối

với nhiều giao dịch Thương mại, các ngân hàng đã phát triển các dịch vụ này,
kết hợp việc cho vay của ngân hàng với các nguồn bảo trợ từ các cơ quan xuất
khẩu của chính phủ, ngân hàng thuê mua tài chính quốc tế và các nguồn tài
trợ phi ngân hàng khác, cùng với bảo hiểm rủi ro chính trị và kinh tế.
Để có thể tham gia hoạt động kinh doanh đối ngoại thì đòi hỏi các
ngân hàng phải có những điều kiện hết sức ngặt nghèo, nguyên tắc chặt chẽ,
phương châm linh hoạt…như: năng lực tài chính, trình độ quản lý, khả năng
tự động hoá cơ giới hoá, đội ngũ cán bộ …Đây là một đỏi hỏi nhưng cũng là
một cơ hội lớn đối với sự phát triển của các ngân hàng Thương mại.
3) Hoạt động của ngân hàng thương mại:
3.1)Hoạt động huy động vốn:
_Nhận tiền gửi của các cá nhân, tổ chức
_Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá trị để
huy động vốn.
_Vay vốn của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.
_Vay vốn ngắn hạn của ngân hàng nhà nước.
_Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của pháp luật.
3.2) Hoạt động tín dụng:
_Cho vay: NHTM cho các cá nhân và tổ chức vay vốn dưới các hình
thức:
+Cho vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, dịch vụ,
đời sống.
+Cho vay trung và dài hạn để thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh,
dịch vụ, đời sống.
_Bảo lãnh: NHTM được bảo lãnh vay vốn, bỏa lãnh thanh toán, bảo
6
lãnh thực hiện hợp đồng, bằng uy tín và khả năng tài chính cảu mình đối với
người được bảo lãnh.
_Chiết khấu: NHTM được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có
giá ngắn hạn khác đối với tổ chức cá nhân và tái chiết khấu đối với các tổ

chức tín dụng khác.
_Cho thuê tài chính: NHTM được phép thực hiện cho thuê tài chính
nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài chính.
3.3)Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ:
Để thực hiện dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp và cá nhân tổ
chức, NHTM lập tài khoản cho họ chính tại ngân hàng mình.Để thực hiện
dịch vụ thanh toán giữa các ngân hàng thương mại với nhau, các NHTM phải
lập tài khoản tại ngân hàng nhà nứớc và duy trì một số lượng tiền mặt dự trữ
bắt buộc.
3.4) Các hoạt động khác:
_Góp vốn và mua cổ phần.
_Tham gia thị trường tiền tệ.
_Kinh doanh thị trường ngoại hối.
_Ủy thác và nhận ủy thác.
_Cung ứng dịch vụ bảo hiểm.
_Tư vấn tài chính.
_Bảo quản vật quý giá.
II)Giới thiệu chung về thị trường chứng khoán
1)Khái niệm:
Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của Thị trường vốn,
hoạt động của nó nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội
tập trung thành nguồn vốn lớn tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và
Chính phủ để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu
7
tư.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán
các loại chứng khoán. Việc mua bán được tiến hành ở hai thị trường sơ cấp và
thứ cấp. do vậy thị trường chứng khoán là nơi chứng khoán được phát hành
và trao đổi.
2) Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán.

- Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế.
- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng.
- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán.
- Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp.
- Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô.
3)Vai trò của thị trường chứng khoán.
• Tạo ra các công cụ tài chính có tính thanh khoản cao, tích tụ, tập
trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn vốn phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế.
• Thực hiện tái phân phối công bằng hơn, tạo hiệu quả và tăng
trưởng kinh tế, tiến tới một xã hội công bằng và dân chủ hơn.
• Tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh
nghiệp, tạo điều kiện kết hợp hài hòa giữa lợi ích của chủ sở hữu, nhà quản lý
và người làm công.
• Thúc đẩy toàn cầu hóa thị trường tài chính và nền kinh tế thế giới
nói chung, tăng tính lỏng và tính cạnh tranh trên thị trường tài chính quốc tế,
mở ra nhiều cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp trong nước.
• Tạo cơ hội cho chính phủ huy động các nguồn tài chính mà
không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo ra các công cụ cho việc thực hiện
chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ.
• Cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong
8
tương lai, tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế.
4) Phân loại thị trường chứng khoán:
4.1). Xét về quá trình luân chuyển chứng khoán thì thị trường chứng
khoán được chia làm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
a. Thị trường sơ cấp: là nơi diễn ra quá trình mua bán lần đầu các
chứng khoán mới phát hành. Thị trường sơ cấp còn được gọi là thị trường cấp
một hay thị trường phát hành.
Có 2 phương pháp phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Đó là

phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng.
+ Phát hành riêng lẻ
Phát hành riêng lẻ là quá trình trong đó chứng khoán được bán trong
phạm vi một số người nhất định (thông thường là cho các nhà đầu tư có tổ
chức), với những điều kiện (khối lượng phát hành) hạn chế.
Việc phát hành chứng khoán riêng lẻ thông thường chịu sự điều chỉnh
của Luật công ty. Chứng khoán phát hành theo phương thức này không phảI
là đối tượng giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán.
+ Phát hành ra công chúng
Phát hành ra công chúng là quá trình trong đó chứng khoán được bán
rộng rãi ra công chúng, cho một số lượng lớn người đầu tư, trong tổng lượng
phát hành phải giành một tỷ lệ nhất định cho các nhà đầu tư nhỏ và khối
lượng phát hành phải đạt được một mức nhất định.
Những công ty phát hành chứng khoán ra công chúng được gọi là các
công ty đại chúng.
Có sự khác nhau giữa phát hành cổ phiếu và phát hành trái phiếu ra
công chúng:
* Phát hành cổ phiếu ra công chúng được thực hiện theo một trong hai
hình thức sau:
9
- Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO): là việc phát hành trong đó cổ
phiếu của công ty lần đầu tiên được bán rộng rãi cho công chúng đầu tư.
- Chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp): là đợt phát hành cổ phiếu bổ
sung của công ty đại chúng cho rộng rãi công chúng đầu tư.
* Phát hành trái phiếu ra công chúng được thực hiện bằng một hình
thức duy nhất, đó là chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp).
Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải chịu sự chi phối của
pháp luật về chứng khoán và phải được cơ quan quản lý nhà nước về chứng
khoán cấp phép. Những công ty phát hành chứng khoán ra công chúng phải
thực hiện một chế độ báo cáo, công bố thông tin công khai và chịu sự giám

sát riêng theo qui định của pháp luật chứng khoán.
Ở Việt Nam, việc phát hành chứng khoán ra công chúng để niêm yết tại
Trung tâm giao dịch chứng khoán phải tuân theo các qui định tại Nghị định
48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường
chứng khoán. Nghị định này qui định việc phát hành chứng khoán ra công
chúng để niêm yết tại thị trường giao dịch tập trung phải được Uỷ ban chứng
khoán cấp phép trừ việc phát hành trái phiếu Chính phủ. Các chứng khoán
này sau khi được phát hành ra công chúng sẽ được niêm yết tại Trung tâm
giao dịch chứng khoán.
Mục đích của việc phân biệt hai hình thức phát hành (phát hành riêng lẻ
và phát hành ra công chúng như trên là nhằm có các biện pháp bảo vệ cho
công chúng đầu tư, nhất là những nhà đầu tư nhỏ không hiểu biết nhiều về
lĩnh vực chứng khoán. Nhằm mục đích này, để được phép phát hành ra công
chúng, tổ chức phát hành phải là những công ty làm ăn có chất lượng cao,
hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đáp ứng được các điều kiện do cơ
quan quản lý nhà nước về chứng khoán (Uỷ ban chứng khoán nhà nước) qui
định.
10
b. Thị trường thứ cấp: là nơi diễn ra các giao dịch chứng khoán đã được
phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp tạo điều kiện cho thị
trường sơ cấp phát triển, tăng tiềm năng huy động vốn của các tổ chức phát
hành chứng khoán. Trên thị trường chứng khoán vừa có giao dịch của thị
trường sơ cấp, vừa có giao dịch của thị trường thứ cấp.
Sau khi chứng khoán mới được phát hành trên thị trường sơ cấp, chúng
sẽ được giao dịch trên thị trường thứ cấp. Khác với thị trường sơ cấp, tiền bán
chứng khoán trên thị trường thứ cấp thuộc về các nhà đầu tư và nhà kinh
doanh chứ không thuộc về các công ty phát hành chứng khoán.
4.2)Xét về phương diện pháp lý thị trường chứng khoán được chia thành
thị trường tập trung , thị trường phi tập trung
- Thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán): là thị trường trong

đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm tập
trung gọi là sàn giao dịch (trading floor). Các chứng khoán được niêm yết tại
Sở giao dịch thông thường là chứng khoán của những công ty lớn, có danh
tiếng, đã qua thử thách của thị trường. Phương thức giao dịch tại Sở giao dịch
là phương thức đấu giá, trong đó các lệnh mua, bán được ghép với nhau để
hình thành giá cả cạnh tranh tốt nhất.
- Thị trường phi tập trung (OTC): là thị trường trong đó việc giao dịch
mua bán chứng khoán không diễn ra tại một địa điểm tập trung mà thông qua
hệ thống computer nối mạng giữa các thành viên của thị trường. Các chứng
khoán được giao dịch trên thị trường phi tập trung là chứng khoán của các
công ty vừa và nhỏ. Phương thức giao dịch tại thị trường OTC là phương thức
thoả thuận, giá cả chứng khoán được xác định trên cơ sở thoả thuận giữa các
thành viên của thị trường.
4.3)Thị trường trái phiếu,cổ phiếu.các công cụ phái sinh
a. Thị trường trái phiếu( bond market)
11
Là thị trường phát hành trái phiếu mới và mua đi bán lại trái phiếu cũ.
b. Thị trường cổ phiếu( the stock market)
Là thị trường phát hành cổ phiếu mới và mua đi bán lại cổ phiếu cũ.
Hoạt động của thị trường này gåm cả hai lĩnh vực đầu tư chứng khoán và kinh
doanh chứng khoán.
c.Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh
Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua
đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền,
hợp đồng quyền chọn
4.4) Nếu xét về phương thức giao dịch thì thị trường chứng khoán được
chia thành thị trường giao ngay và thị trường giao sau:
1, thị trường giao ngay: là thị trường mua bán chứng khoán theo giá tại
thời điểm giao dịch nhưng việc thực hiện thanh toán và giao hàng có thể diễn
ra sau dó một vài ngày theo thoả thuận.

2, thị trường giao sau: Là thị trường mua bán chứng khoán theo một
loại hợp đồng định sẵn, giá cả được thoả thuận trong ngày giao dịch , nhưng
việc thanh toán và giao hàng xảy ra trong một thời hạn ở tương lai.
III) Các hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường
chứng khoán
Hiện nay, mô hình NHTM hoạt động trên TTCK, trên thế giới có 2
loại:
* Mô hình chuyên doanh (hay còn gọi là mô hình đơn năng)
Theo mô hình này, các công ty chứng khoán là công ty chuyên doanh
độc lập, các NHTM và các tổ chức tài chính khác không được phép tham gia
vào hoạt động kinh doanh chứng khoán. Ưu điểm của mô hình này là hạn chế
rủi ro cho hệ thống ngân hàng do những ảnh hưởng tiêu cực của thị trường
chứng khoán, và các ngân hàng không được sử dụng vốn huy động để đầu tư
12
vào lĩnh vực chứng khoán: mặt khác, với sự chuyên môn hoá tạo điều kiện
cho thị trường chứng khoán phát triển
* Mô hình đa năng bao gồm:
Một là mô hình ngân hàng đa năng hoàn toàn: Mô hình này không có
sự tách bạch nào giữa hoạt động ngân hàng và chứng khoán. NHTM không
những được hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ mà còn được hoạt động trong
lĩnh vực chứng khoán và bảo hiểm. (Các hoạt động trong lĩnh vực chứng
khoán gồm bảo lãnh phát hành, môI giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư,
tư vấn đầu tư, tham gia vào lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán). Ưu
điểm của mô hình này là ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh,
nhờ đó mà giảm bớt rủi roc ho hoạt động kinh doanh chung và có khả năng về
tài chính chịu đựng các biến động của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, mô
hình đa năng hoàn toàn có một số hạn chế: thị trường chứng khoán phát triển
chậm vì hoạt động chủ yếu của hệ thống ngân hàng dùng vốn để cấp tín dụng
và dịch vụ thanh toán, do đó ngân hàng thường quan tâm đến lĩnh vực chứng
khoán. Bên cạnh đó, còn nhược điểm là trong trường hợp biến động trên thị

trường chứng khoán, hậu quả có thể tác động tiêu cực đến lĩnh vực kinh
doanh tiền tệ giữa hai loại hình kinh doanh này.
Hai là mô hình đa năng một phần: Các ngân hàng muốn hoạt động
trong lĩnh vực chứng khoán phảI thành lập công ty con- công ty chứng khoán,
hoạt động độc lập. Mô hình này có ưu điểm các ngân hàng được kết hợp kinh
doanh ngân hàng và kinh doanh chứng khoán, do đó tận dụng được thế mạnh
về tài chính, kinh nghiệm, mạng lưới khách hàng rộng khắp của ngân hàng.
Bên cạnh đó, bởi vì có quy định hoạt động riêng rẽ giữa hai hoạt động trên
cho nên hạn chế được rủi ro nếu có sự biến động của một trong hai thị trường.
1. Hoạt động phát hành chứng khoán
NHTM là một doanh nghiệp và TTCK được xem là kênh dẫn vốn quan
13
trọng đối với doanh nghiệp đặc biệt này. Để huy động vốn trên TTCK, các
NHTM có thể phát hành các loại chứng khoán: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ
quỹ đầu tư. Việc phát hành chứng khoán của các NHTM chịu sự điều tiết của
nhiều luật khác nhau như Luật chứng khoán, Luật Doanh nghiệp, Luật Ngân
hàng.
Các NHTM muốn phát hành chứng khoán phải đáp ứng các điều kiện
phát hành và tuân thủ các nguyên tắc, thủ tục phát hành. Điều kiện phát hành
được quy định tùy theo luật pháp của mỗi nước. Tuy nhiên, những nguyên tắc
cơ bản trong quy định phát hành là: quy mô về vốn, tính liên tục trong hoạt
động kinh doanh, đội ngũ quản lý, phương án khả thi về việc sử dụng vốn từ
đợt phát hành
Các NHTM có thể thực hiện các phương thức phát hành chứng khoán:
phát hành riêng lẻ (phát hành mang tính nội bộ) hoặc phát hành ra công
chúng( phát hành rộng rãi ) tùy theo điều kiện và mục đích.
Phát hành riêng lẻ là việc phát hành trong đó chứng khoán được bán
trong phạm vi một số người nhất định với những điều kiện hạn chế và khối
lượng phát hành phải đạt một mức nhất định. Chứng khoán dưới hình thức
này không phải là đối tượng được niêm yết và giao dịch trên TTCK tập trung.

NHTM chọn hình thức phát hành này khi không đủ điều kiện để phát hành ra
công chúng; số lượng vốn cần huy động nhỏ, phát hành nhằm mục đích duy
trì các mối quan hệ trong kinh doanh hay phát hành cho cán bộ nhân viên của
ngân hàng.
Phát hành chứng khoán ra công chúng là hình thức phát hành trong đó
chứng khoán được phát hành rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn các
nhà đầu tư nhất định, trong đó phải đảm bảo một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ.
Ngoài ra, tổng khối lượng phát hành chứng khoán cũng phải đạt mức theo quy
định. Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải được các cơ quan quản
14
lý Nhà nước về chứng khoán cấp giấy phép hoặc chấp thuận. Sau khi phát
hành trên thị trường sơ cấp, chứng khoán sẽ được giao dịch tại Sở giao dịch
chứng khoán khi đã đáp ứng được các quy định về niêm yết chứng khoán.
Hoạt động phát hành chứng khoán của các NHTM cung cấp cho TTCK
hàng hóa có chất lượng và tăng hiệu quả của thị trường. Các chứng khoán do
các NHTM phát hành thường có độ hấp dẫn cao đối với các nhà đầu tư do uy
tín, do mối quan hệ của các NHTM.
Các NHTM có thể đứng ra thành lập quỹ đầu tư chứng khoán, một tổ
chức quan trọng trên TTCK nhằm giúp các nhà đầu tư nhỏ, cá thể có thể phân
tán rủi ro và giảm chi phí đầu tư. Bằng cách phát hành chứng chỉ quỹ, các
NHTM có thể thu hút, tập trung lượng vốn nhỏ lẻ của các nhà đầu tư thành
lượng vốn lớn để đầu tư chứng khoán một cách chuyên nghiệp và đa dạng
hóa.
Là một doanh nghiệp đặc biệt với tính chất chuyên nghiệp và uy tín cao
trên TTCK, hoạt động phát hành chứng khoán của các NHTM có nhiều lợi thế
hơn các doanh nghiệp thông thường khác. Các ngân hàng có thể tự đứng ra
phát hành làm giảm chi phí huy động vốn. Do vậy, các NHTM có thể dễ dàng
huy động vốn hơn so với các doanh nghiệp khác trên TTCK.
2. Hoạt động đầu tư chứng khoán
Tín dụng được coi là hoạt động sinh lời lớn nhất song trong hoạt động

này các NHTM thường phải đối mặt với các rủi ro cao nhất có thể xảy ra.
Chính vì vậy, các NHTM không ngừng mở rộng những lĩnh vực đầu tư mới.
Thực tế cho thấy rằng các NHTM ngày nay không chỉ thực hiện vai trò là một
trung gian tài chính sử dụng nguồn vốn huy động để tiến hành cho vay mà nó
còn thực hiện hoạt động kinh doanh trên TTCK như một nhà đầu tư có tổ
chức.
Hoạt động đầu tư chứng khoán cuả các NHTM được xem như là yếu tố
15
trợ giúp cho việc tăng chất lượng và hiệu quả của thị trường. Điều này là do
các lợi thế sẵn có của NHTM, đó chính là tính chuyên nghiệp trong thu thập
và xử lý thông tin, có quy mô lớn và tính đa dạng hóa cao.
Khi đầu tư chứng khoán, NHTM thường quan tâm đến tính thanh
khoản và sinh lời. Các nhà quản trị ngân hàng tùy theo mục tiêu, chiến lược
trong từng giai đoạn phải liên tục xem xét mối quan hệ đánh đổi giữa tính
sinh lời và thanh khoản của các chứng khoán nắm giữ.
Tuy nhiên, vấn đề chủ yếu mà NHTM khi lựa chọn chứng khoán đầu tư
là khả năng trao đổi và bán lại trên thị trường. Các loại chứng khoán có tính
thanh khoản cao là những chứng khoán có khả năng được mua và bán nhanh
trên thị trường, giá cả ổn định và có khả năng thu hồi vốn đầu tư ban đầu ( tức
là có rủi ro về tổn thất vốn đầu tư là thấp ). Mục đích khi đầu tư vào chứng
khoán thanh khoản cao song sinh lợi thấp ( như Trái phiếu Chính phủ, tín
phiếu Kho bạc ) của các NHTM là nhằm dự trữ thứ cấp cho nhu cầu thanh
toán, dự phòng và tích trữ.
Còn đối với các chứng khoán có tính thanh khoản thấp hơn, mức độ rủi
ro cao hơn và thường có tính sinh lời cao được các NHTM đầu tư dài hạn và
xây dựng danh mục đầu tư đa dạng nhằm giảm thiểu rủi ro: danh mục đầu tư
trái phiếu, danh mục đầu tư cổ phiếu, danh mục đầu tư hỗn hợp.
Hoạt động đầu tư chứng khoán đóng một vai trò quan trọng trong hoạt
động NHTM: cung cấp một nguồn thu nhập bổ sung cho ngân hàng, tạo
nguồn thanh khoản, giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hoá danh mục đầu tư, hạn

chế ảnh hưởng của thuế và chứng khoán có thể được sử dụng như những vật
thế chấp cho các khoản đi vay của ngân hàng.
Có thể nói, hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM là cầu nối quan
trọng giữa thị trường tín dụng và TTCK. Khi thị trường tín dụng trầm lắng,
một bộ phận vốn trên thị trường tín dụng sẽ được dịch chuyển sang TTCK
16
thông qua hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM. Ngược lại, khi nhu cầu
tín dụng tăng lên, các NHTM sẽ bán các chứng khoán để tăng lượng vốn cho
hoạt động tín dụng. tài Việc dịch chuyển vốn giữa hai thị trường giúp cho các
NHTM có thể sử dụng tối đa các nguồn vốn để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Tuy nhiên, dù hoạt động trên thị trường tín dụng hay đầu tư chứng khoán thì
các NHTM đều đã thực hiện chức năng trợ cho nền kinh tế.
Hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM ngày càng phát triển. Sự
phát triển của TTCK cùng với sự xuất hiện và phát triển của các chứng khoán
phái sinh đã làm tăng khả năng đầu tư chứng khoán của NHTM. Ngược lại,
hoạt động đầu tư chứng khoán của các NHTM làm tăng tính chuyên nghiệp
và sự sôi động của TTCK.
Tuy nhiên, hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM luôn chịu sự
giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý bởi vì hoạt động này sẽ làm tăng
rủi ro không chỉ với các ngân hàng mà còn đối với cả nền kinh tế. Chẳng hạn
như, rủi ro về việc người phát hành chứng khoán không thể thanh toán được
vốn gốc và lãi đã buộc các nhà chức trách nghiêm cấm các NHTM tham gia
hoạt động mua bán chứng khoán mang tính đầu cơ. Hay do không có sự tách
biệt rõ ràng giữa các nguồn vốn, các ngân hàng có thể sử dụng tiền gửi tiết
kiệm của dân cư để đầu tư chứng khoán và khi TTCK biến động theo chiều
hướng xấu sẽ tác động tới công chúng thông qua việc ồ ạt rút tiền gửi, làm
cho ngân hàng mất khả năng chi trả. Việc mất khả năng thanh toán của các
NHTM thường dẫn đến những phản ứng dây chuyền gây đổ vỡ hệ thống ngân
hàng và có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Đây cũng chính là lý do mà các
nhà quản lý thường muốn hạn chế hoạt động kinh doanh chứng khoán của

NHTM.
3. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán
Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán là hoạt động giúp cho chủ
17
thể phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức
việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn
đầu sau khi phát hành.
Cơ sở để các NHTM có thể thực hiện được hoạt động bảo lãnh phát
hành bắt nguồn từ vị thế là trung gian tài chính trên TTCK. Các ngân hàng
với lợi thế kinh nghiệm, thông tin đầy đủ cùng với trình độ chuyên môn hóa
cao có thể dễ dàng hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện việc phát hành chứng khoán
thành công. NHTM thực hiện các công việc với chi phí thấp hơn, đồng thời tư
vấn cho doanh nghiệp các yếu tố pháp lý và kỹ thuật: thủ tục, hồ sơ phát hành,
số lượng và loại chứng khoán, chi phí vốn, định giá chứng khoán. Hơn thế
nữa, với uy tín sẵn có, mạng lưới tổ chức rộng rãi, quan hệ truyền thống với
khách hàng, sự bảo lãnh của NHTM sẽ giúp các chứng khoán phát hành được
công chúng đầu tư tin tưởng và chấp nhận dễ dàng hơn. Trong khi đó, nếu
doanh nghiệp tự đảm nhận việc phân phối chứng khoán, họ sẽ phải đối mặt
với nhiều vấn đề và rủi ro.
Khi thực hiện bảo lãnh phát hành, các NHTM đã nhận toàn bộ hay một
phần rủi ro trong việc phân phối chứng khoán. Do đó, tổ chức phát hành phải
trả cho tổ chức bảo lãnh phí bảo lãnh phát hành. Phí này được xác định bằng
một tỷ lệ phần trăm nhất định trên khối lượng chứng khoán được phân phối.
Tỷ lệ này phụ thuộc vào quy định của pháp luật, vào tính chất của đợt phát
hành, loại hình bảo lãnh và phụ thuộc vào quan hệ giữa tổ chức phát hành và
tổ chức phân phối chứng khoán.
Ngoài phí phát hành, ngân hàng còn có thể được hưởng thu nhập từ
khoản chênh lệch giữa giá phát hành và thị giá chứng khoán. Tuy nhiên, cũng
có thể không nhận được phần thu nhập này hoặc bị thua lỗ nếu như phán đoán
không chính xác.

Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán có thể được thực hiện bởi
18
sự kết hợp giữa NHTM với các trung gian tài chính khác tạo nên một nghiệp
đoàn bảo lãnh phát hành. Việc thành lập nghiệp đoàn này sẽ giúp ngân hàng
san sẻ rủi ro, tận dụng lợi thế của các trung gian tài chính khác và có thể thực
hiện bảo lãnh phát hành lượng chứng khoán lớn hơn khả năng cho phép của
ngân hàng.
Các NHTM có thể thực hiện việc bảo lãnh phát hành chứng khoán theo
các phương thức là:
* Bảo lãnh cam kết tối đa: là phương thức bảo lãnh trong đó tổ chức
bảo lãnh chỉ cam kết phân phối tối đa số chứng khoán của tổ chức phát hành
tới mức có thể. Phương thức này gần giống với phương thức đại lý trong
trường hợp không bán hết, số chứng khoán còn lại được trả lại cho nhà phát
hành. Vì vậy, với phương thức bảo lãnh này, tổ chức phát hành có thể gặp rủi
ro do không huy động đủ vốn như dự định.
* Bảo lãnh cam kết chắc chắn: là phương thức mà tổ chức bảo lãnh
phải cam kết mua toàn bộ số chứng khoán chưa phân phối hết của tổ chức
phát hành. Như vậy, tổ chức bảo lãnh phát hành phải đảm bảo mang lại chính
xác toàn bộ tổng giá trị của đợt phát hành cho tổ chức phát hành. Mọi rủi ro
của đợt phát hành sẽ do người bảo lãnh chịu.
* Bảo lãnh cam kết tất cả hoặc không: Trong phương thức này, nếu số
chứng khoán được phân phối chưa tới một mức tối thiểu như thỏa thuận thì
toàn bộ đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ, số tiền đặt mua chứng khoán sẽ trả lại cho
người mua.
* Bảo lãnh tối thiểu- tối đa: là phương thức trung gian giữa phương
thức bảo lãnh cố gắng tối đa và phương thức bảo lãnh tất cả hoặc không. Theo
phương thức này, tổ chức bảo lãnh phát hành phải cam kết bán tối thiểu một
số lượng chứng khoán nhất định ( mức sàn ). Ngoài số lượng này, tổ chức bảo
lãnh phát hành có thể tự do chào bán chứng khoán nhưng không vượt quá
19

mức tối đa quy định ( mức trần ). Nếu số lượng chứng khoán bán ra thấp hơn
mức tối thiểu đã được quy định thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ.
NHTM có thể tham gia hoạt động đại lý, bảo lãnh phát hành trái phiếu
chính phủ. Họ chính là những thành viên chủ yếu của thị trường đấu thầu tín
phiếu, Trái phiếu chính phủ và là những nhà đầu tư lớn, đảm nhiệm vai trò
nhà tạo thị trường đối với các chứng khoán này.
Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của NHTM đóng vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của TTCK nói chung và sự phát triển của
chính bản thân ngân hàng nói riêng. Tuy nhiên, cũng như các hoạt động kinh
doanh chứng khoán khác, sự tham gia vào hoạt động bảo lãnh phát hành
chứng khoán của NHTM phụ thuộc vào quy định cụ thể của mỗi nước.
4. Hoạt động tư vấn chứng khoán
Đối với các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán như nhà đầu tư cá
thể, tổ chức phát hành, việc đánh giá chất lượng chứng khoán, xác định thời
điểm phát hành là rất khó khăn. Điều này là do họ không có đủ thông tin
chính xác, không đủ thời gian và sự hiểu biết cần thiết để theo dõi diễn biến
thị trường, thu thập và xử lý thông tin. Với ưu thế của mình trong việc phân
tích và xử lý thông tin, phân tích tài chính chuyên nghiệp, NHTM đã giúp
những nhà đầu tư, tổ chức phát hành khắc phục những yếu điểm, tiết kiệm chi
phí, tránh rủi ro và đưa ra những quyết định đúng đắn thông qua hoạt động tư
vấn.
Tư vấn đầu tư chứng khoán là các hoạt động phân tích, đưa ra các
khuyến nghị liên quan đến chứng khoán, hoặc công bố và phát hành các báo
cáo phân tích có liên quan đến chứng khoán.
Có hai hình thức tư vấn là tư vấn trực tiếp và tư vấn gián tiếp. Hình
thức tư vấn trực tiếp được thực hiện khi phân tích, xử lý các tình huống đầu tư
của chính khách hàng, từ đó có những khuyến nghị trực tiếp trên cơ sở một
20
khoản lệ phí tư vấn thỏa thuận. Trong khi đó, thông qua hình thức tư vấn gián
tiếp các ngân hàng có thể chia sẻ thông tin của mình bằng việc phát hành các

báo cáo phân tích trên các tạp chí, sách báo chuyên đề.
Trong mô hình tổ chức của các NHTM trên thế giới đều có bộ phận
chuyên môn phòng môi giới, tư vấn chứng khoán. Phòng môi giới và tư vấn
sẽ tiếp nhận những thông tin cần thiết và phù hợp sau đó tiến hành phân tích
chỉ ra xu hướng và khuyến nghị cụ thể. Khi đó các NHTM phải chịu trách
nhiệm về tính trung thực của những lời tư vấn của mình đối với khách hàng
và đôi khi hoạt động tư vấn phải được quản lý và cấp phép. Tuy nhiên, trong
hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán, khách hàng vẫn là người tự chịu trách
nhiệm về các quyết định của mình.
5. Hoạt động môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là điều kiện cơ bản kiến tạo nên hoạt động của
TTCK. Đối với nhiều nước, hoạt động môi giới chứng khoán được xem là hạt
nhân của thị trường. Điều này bắt nguồn từ nguyên tắc chủ đạo đối với hoạt
động của TTCK - nguyên tắc trung gian.
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán
chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hoa hồng. Theo đó, NHTM đại
diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở
giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu
trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình. Thông qua hoạt động môi
giới, NHTM sẽ chuyển đến khách hàng các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư
và kết nối giữa nhà đầu tư mua chứng khoán và nhà đầu tư bán chứng khoán.
Và tất nhiên trong hoạt động này, ngân hàng sẽ được hưởng tiền hoa hồng từ
phía khách hàng, thường được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định
trên tổng giá trị giao dịch.
Hoạt động môi giới là dịch vụ ngân hàng rất phát triển ở các nước trên
21
thế giới. Sự tham gia ngày càng nhiều hơn của ngân hàng trong hoạt động môi
giới làm tăng tính cạnh tranh, và trên cơ sở đó, làm giảm chi phí trong giao
dịch chứng khoán cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ môi giới. Việc thực
hiện nguyên tắc trung gian của TTCK nhằm đảm bảo cho các hoạt động trên

thị trường được diễn ra hợp pháp, công khai cũng như đảm bảo an toàn cho
các nhà đầu tư và cho cả thị trường.
Để được phép hoạt động môi giới chứng khoán, các NHTM phải có đủ
điều kiện cần thiết như là: vốn pháp định, giấy phép hành nghề đối với các
nhân viên môi giới, các yêu cầu về cơ sở vật chất và phải được UBCK cấp
giấy phép hoạt động môi giới.
Hoạt động môi giới chứng khoán có những tác động tích cực đối với
TTCK, nhưng hoạt động này cần phải có luật pháp đảm bảo với những quy
định chặt chẽ nhằm tránh những trường hợp đầu cơ gây lộn xộn trên thị
trường.
6. Hoạt động quản lý danh mục đầu tư chứng khoán
Quản lý danh mục đầu tư là hoạt động quản lý vốn của khách hàng
thông qua việc mua, bán và nắm giữ các chứng khoán theo uỷ thác vì quyền
lợi của khách hàng. Thực chất hoạt động này là một dạng của hoạt động tư
vấn mang tính tổng hợp có kèm theo đầu tư, khách hàng uỷ quyền cho ngân
hàng thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên
tắc đã được thỏa thuận.
Trong hoạt động này, các NHTM phải đảm bảo tách biệt giữa tài sản
của khach hàng với tài sản của ngân hàng. Khách hàng có thể uỷ quyền một
phần hay toàn bộ đối với chứng khoán của họ tùy theo mức độ tín nhiệm của
họ đối với ngân hàng. Ngân hàng phải gửi các bản kê sao về tình hình tài sản
trong danh mục cho khách hàng theo định kỳ, hoặc theo yêu cầu của khách
hàng. Đặc biệt các NHTM phải đảm bảo an toàn và bí mật các thông tin về tài
22

×