Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị
trường chứng khoán.
2
I. Những vấn đề chung về lý thuyết.
1. Thị trường chứng khoán (TTCK).
1.1. Khái niệm
Hiên nay có rất nhiều các quan điểm khác nhau về thị trường chứng khoán
nhưng quan điểm đầy đủ và rõ ràng nhất, phù hợp với sự phát triển chung của
TTCK hiện nay: TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính và là nơi diễn ra
các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán – các hàng hóa và dich vụ tài
chính giữa các chủ thể tham gia, việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo
những nguyên tắc nhất định.
Chứng khoán được hiểu là các giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho
phép các chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập hoặc quyền sở hữu.
Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ
cấp hoặc thị trường thứ cấp. Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở
hữu của chứng khoán, như vậy, thực chất đây chính là quá trình vận động chủ động
của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và
lưu thông hàng hóa.
1.2. Các chủ thế trên TTCK
a. Chủ thể phát hành.
Chủ thể phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK.
Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán – hàng hóa của thị trường
chứng khoán.
Bao gồm: Chính phủ,các doanh nghiệp và một số tổ chức khác: các quỹ đầu
tư, tổ chức tài chính trung gian…
b. Nhà đầu tư.
3
Nhà đầu tư là những người có tiền, những người thực sự mua và bán chứng
khoán trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể chia thành 2 loại là nhà đầu
tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
Nhà đầu tư cá nhân: là những cá nhân và hộ gia đình, có vốn nhàn rỗi tạm
thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích kiếm lời.
Nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng
khoán với số lượng lớn trên thị trường. (các tổ chức này mua bán chứng khoán
không vì lợi ích của chính họ mà vì lợi ích của những người góp tiền vào quỹ đó)
Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán là các quỹ đầu
tư, quỹ tương hỗ, quỹ lương hưu, quỹ bảo hiểm xã hôi khác
c. Các tổ chức kinh doanh trên TTCK
Các công ty chứng khoán là những công ty hoạt động trong kĩnh vực CK,
có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ tài chính là bảo lãnh phát
hành, môi giới, tự doanh, quản lý quỹ đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán.
Các ngân hàng thương mại
d. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
Cơ quan quản lý Nhà nước về TTCK do Chính phủ thành lập với mục đích
bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, bảo đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động lành
mạnh, an toàn và phát triển bền vững
Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành thị trường chứng khoán thông
qua bộ máy tổ chức và hệ thống các quy định, văn bản pháp luật về giao dịch
chứng khoán trên cơ sở phù hợp với các quy định của luật pháp và Ủy ban chứng
khoán.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức tự quản của các công
ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán,
4
được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các thành viên và các nhà đầu tư
trên thị trường chứng khoán.
Các tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ là tổ chức nhận lưu giữ các chứng
khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán.
Các tổ chức tài trợ chứng khoán là các tổ chức được thành lập với mục đích
mở rộng và tăng trưởng của thị trường chứng khoán thông qua các hoạt động như
cho vay tiền để mua cổ phiếu và cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch
bảo chứng.
Các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là công ty chuyên cung cấp dịch vụ
đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và tiềm lực
tài chính của các tổ chức phát hành theo những điều khoản đã cam kết.
2. Ngân hàng thương mại (NHTM).
2.1. Khái niệm
Đầu tiên ngân hàng thương mại là một loại ngân hàng trung gian. Ở mỗi
nước có một cách định nghĩa riêng về ngân hàng thương mại. Ví dụ: Ở Mỹ: ngân
hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính
và họat động trong ngành dịch vị tài chính. Ở Pháp: ngân hàng thương mại là
những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận tiền của công chúng dưới hình
thức kí thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ
chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. Ở Ấn Độ: ngân hàng thương mại là cơ
sở nhận các khoản kí thác để cho vay hay tài trợ và đầu tư. Ở Thổ Nhĩ Kì: ngân
hàng thương mại là hội trách nhiệm hữu hạn thiết lập nhằm mục đích nhận tiền kí
thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ công hối phiếu, chiết khấu và
những hình thức vay mượn khác…
Ở Việt Nam Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của hội đồng Nhà nước
Việt Nam xác định: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat
động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm
5
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán.
Tuy nhiên, với sự phát triển của thị trường tài chính, các ngân hàng thương
mại ở Việt Nam có xu hướng mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực ngân
hàng đầu tư nhằm vận dụng tối đa hóa các mối quan hệ khách hàng, nguồn nhân
lực dồi dào với kiến thức, kĩ năng tài chình chuyên sâu và cơ sở vật chất sẵn có,
đặc bệt khi thị trường chứng khoán Việt Nam có những bước phát triển thì hình
thức hoạt động này lại càng phổ biến.
2.2. Các hình thức ngân hàng thương mại hoạt động trên thị trường
chứng khoán.
a. Ngân hàng thương mại chuyên doanh
Ngân hàng thương mại chuyên doanh là hình thức ngân hàng thương mại chỉ
hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ với các hoạt động thường xuyên và chủ
yếu là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền
đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
b. Ngân hàng thương mại đa năng một phần
Ngân hàng thương mại đa năng một phần là hình thức mà các ngân hàng
thương mại nếu muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải thành
lập một công ty con trực thuộc ngân hàng thương mại hạch toán độc lập và tách rời
hoạt động kinh doanh tiền. Mô hình này được gọi là mô hình ngân hàng kiểu Anh. .
Mô hình này có ưu điểm các ngân hàng được kết hợp kinh doanh ngân hàng
và kinh doanh chứng khoán, do đó tận dụng được thế mạnh về tài chính, kinh
nghiệm, mạng lưới khách hàng rộng khắp của ngân hàng. Bên cạnh đó, bởi vì có
quy định hoạt động riêng rẽ giữa hai hoạt động trên cho nên hạn chế được rủi ro
nếu có sự biến động của mộ trong hai thị trường. Đặc biệt, mô hình này phù hợp
với những nước mới thành lập thị trường chứng khoán khi mà cần có tổ chức tài
6
chính lành mạnh tham gia vào thị trường và khi hệ thống luật, kiểm soát… còn
nhiều mặt hạn chế.
Ví dụ: công ty chứng khoán ngân hàng Đông Á, công ty chứng khoán ngân
hàng ngoại thương Việt Nam…
Công ty trực thuộc của ngân hàng thương mại là doanh nghiệp có tư cách
pháp nhân, hạch toán độc lập bằng vốn tự có mà ngân hàng thương mại:
a) Sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thông đã phát hành
của công ty đó; hoặc
b) Có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp bổ nhiệm đa số hoặc tất cả thành viên
Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của công ty đó; hoặc
c) Có quyền quyết định việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ của công ty đó.
c. Ngân hàng thương mại đa năng toàn phần
Ngân hàng thương mại đa năng toàn phần là hình thức ngân hàng thương
mại được phép trực tiếp kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm và kinh
doanh tiền tệ cũng như các dịch vụ tài chính khác. Mô hình này được gọi là mô
hình ngân hàng kiểu Đức.
Mô hình này có ưu điểm đó là giảm bớt rủi ro trong kinh doanh bằng cách
đa dạng hóa đầu tư, tăng khả năng chịu dựng của ngân hàng trước những biến động
về tài chính.
Tuy nhiên, mô hình này cũng có nhược điểm là khă năng chuyên môn không
sâu trong từng lĩnh vực; khó tách bạch hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh
doanh chứng khoán, dễ gây lũng đoạn thị trường; ngoài ra còn không có sự tách
biệt giữa các nguồn vốn.
7
Trên thực tế, ở Việt Nam chỉ tồn tại hai hình thức ngân hàng hoạt động trên
thị trường chứng khoán là ngân hàng chuyên doanh và ngân hàng đa năng một
phần.
3. Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
3.1. Phát hành chứng khoán
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh, cũng cần có vốn để
hoạt động.Vốn của ngân hàng thương mại có thể hình thành từ nhiều nguồn. Một
nguồn vốn quan trọng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường là
nguồn vốn huy đông trên thị trường chứng khoán thông qua việc phát hành chứng
khoán.
Trong qúa trình hoạt động, ở những thời điểm nhất định, ngân hàng thấy cần
phải huy động thêm vốn trước những cơ hội kinh doanh đầy hấp dẫn. Điều đó có
nghĩa là ngân hàng huy động vốn ở thế chủ động, có nghĩa là có đầu ra mới tính
đầu vào. Ngân hàng xác định rõ quy mô vốn huy động, loại tiền huy động và đưa
ra các mức chi phí hợp lý làm cho việc tạo vốn của ngân hàng thành công nhanh
chóng.
Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán
thông qua việc phát hành các công cụ nợ như các chứng chỉ tiền gửi (CDs), kì
phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng. Đối với các ngân hàng mại cổ phần có thể
huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu.
a. Phát hành công cụ nợ
Thông qua việc phát hành các công cụ nợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ: kì
phiếu, trái phiếu ngắn hạn, chứng chỉ tiền gửi, NH có thể huy động được vốn ngắn
hạn còn phát hành các công cụ nợ trên thị trường vốn để huy động vốn trong trung
và dài hạn.
Kỳ phiếu: kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy tờ nhận nợ ngắn hạn do ngân
hàng phát hành nhằm huy động vốn trong dân, chủ yếu là để phục vụ cho những kế
8
hoạch kinh doanh xác định của ngân hàng như một dự án, một chương trình kinh
tế.
Chứng chỉ tiền gửi là văn bản do ngân hàng phát hành để chứng nhận rằng
người sở hữu văn bản đã gửi tiền vào ngân hàng. Chứng chỉ tiên gửi thực chất là
lời hứa trả một lượng tiền nhất định cho người sở hữu nó vào một thời điểm nhất
định trong tương lai. Chứng chỉ tiền gửi (Certificate of deposit / CDs/ CD) là một
loại Giấy tờ có giá do ngân hàng phát hành để huy động vốn từ các tổ chức và cá
nhân khác. Ở Mỹ và Anh, nó là loại trái phiếu "có thể trao đổi", nghĩa là có thể
chuyển nhượng đơn giản bằng cách trao cho người mua. Vì vậy, chúng có khả
năng thanh toán cao đối với người sở hữu, đồng thời đảm bảo nguồn vốn cho ngân
hàng trong một thời gian. Lãi suất của chứng chỉ tiền gửi được trả sáu tháng một
lần nếu chứng chỉ tiền gửi có thời hạn trên 1 năm và được trả khi đúng hạn nếu có
thời hạn dưới một năm. Chứng chỉ tiền gửi áp dụng lần đầu tiên ở Mỹ vào đầu
những năm 60, sau đó được lưu hành ở Anh.
Trái phiếu ngân hàng là một giấy tờ có giá, xác nhận khoản nợ của khách
hàng đối với người chủ ngân hàng với những cam kết như thanh toán một số tiền
xác định vào một ngày xác định trong tương lai với thời hạn xác định cho trước.
Ngân hàng thương mại khi có nhu cầu huy động vôn với số lượng lớn có thể phát
hành trái phiếu trung và dài hạn. Để thu hút các nhà đầu tư và chiều theo thị hiếu
khách hàng có nhiều loại trái phiếu của ngân hàng thương mại đã ra đời như: trái
phiếu có lãi suất chuyển đổi, trái phiếu chiết khấu, trái phiếu có thể chuyển đổi,
trái phiếu có lãi suất cố định. Đối với ngân hàng thương mại có sẵn chuyên môn
và cơ sở vật chất, viêc phát hành trái phiếu để huy động vốn được xem như giải
pháp có tính hiệu quả.
b. Phát hành cổ phiếu
9
Ngoài ra, đối với các ngân hang thương mại cổ phần để tạo nguồn vốn khi
mới thành lập hoặc tăng vốn bổ sung trong quá trình hoạt động có thể huy động
vốn bằng cách phát hành cổ phiếu.
NHTM cổ phần là ngân hàng hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần,
vốn hoạt động do công cổ đông đóng góp, trong đó các cổ đông có thể là các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng, cá nhân cùng góp vốn theo quy định
của nhà nước.
Cổ phiếu là chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở
hữu đối với một phần vốn cổ phần của tở chức phát hành. Ngân hàng có thể phát
hành 2 loại cổ phiếu là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Có thể thấy với tính chuyên nghiệp cao và uy tín lớn trên thị trường tài chính
cộng với các mối quan hệ rộng rãi, hoạt động phát hành chứng khoán của ngân
hàng thương mại có nhiều lợi thế hơn so với các doanh nghiệp thông thường khác.
Bên cạnh đó việc có thể tự đứng ra phát hành chứng khoán không phải thông qua
các trung gian phân phối, bảo lãnh phát hành cũng giúp ngân hàng thương mại
giảm chi phí huy động vốn. Do vậy chứng khoán do ngân hàng thương mại phát
hành đẽ dàng được chấp nhận hơn so vơi các doanh nghiệp khác.
3.2. Tư vấn đầu tư chứng khoán.
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc các công ty chứng khoán thông qua hoạt
động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực
hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài
chính cho khách hàng.
Theo đối tượng của hoạt động tư vấn, có thể chia thành tư vấn cho người
phát hành và tư vấn đầu tư.
- Tư vấn phát hành: tư vấn cho tổ chức dự kiến phát hành về cách thức, hình
thức phát hành, xây dựng hồ sơ…
10
- Tư vấn đầu tư: tư vấn cho khách hàng đầu tư chứng khoán trên thị trường
thứ cấp về giá, thời gian, định hướng đầu tư vào các loại chứng khoán…
Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn:
- Không đảm bảo chắc chắn về giá trị của chứng khoán.
- Luôn nhắc nhở khách hàng là những lời mình tư vấn dựa trên cơ sở phân
tích các yếu tố lí thuyết và diễn biến trong quá khứ, có thể là không hoàn
toàn chính xác và khách hàng mới là người quyết định cuối cùng.
- Không được dụ dỗ, mời chào khách hàng mua hay bán một loại chứng
khoán nào đó. .
Một trong những trở ngại quan trọng đối với thị trường tài chính là vấn đề
thông tin không cân xứng, sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Với chức năng
là thủ quỹ doanh nghiệp, thực hiện kiểm soát và giám sát bằng đồng tiền đối với
nền kinh tế quốc dân, NHTM có đặc quyền về việc thu thập các thông tin về các
doanh nghiệp có phát hành chứng khoán qua mối quan hệ lâu năm rất sâu sát trong
quan hệ tín dụng, thanh toán. Từ đó có thể phân tích mọi mặt sản xuất kinh doanh,
các nguồn tài trợ và cả xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Nguồn thông tin này là cơ sở quan trọng đầu tiên cho việc phân tích và đánh giá
doanh nghiệp, định giá chứng khoán, từ đó có thể thực hiện việc tư vấn đầu tư cho
khách hàng một cách nhanh chóng hiệu quả.
3.3. Môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua bán chứng
khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, công ty chứng khoán đại diện
cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hoặc
thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao
dịch của mình.
Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán sẽ chuyển đến khách
hàng các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng
11
khoán và nhà đầu tư mua chứng khoán. Nhà MGCK thường tư vấn cho khách hàng
của mình trong những giao dịch chứng khoán; phân tích và giải thích cho thân chủ
về phương thức hoạt động của thị trường CK, thu thập thông tin để giúp họ có sự
đầu tư tốt nhất. Khi được uỷ thác giao dịch, nhà MGCK liền liên lạc với sàn giao
dịch thông qua mạng internet hay mạng điện thoại.
Khi giao dịch được tiến hành, nhà môi giới thông báo tên người giao dịch và
giá cả giao dịch. Người mua sẽ trả tiền cho cố phiếu họ đã mua và nhà môi giới
tiến hành thông tin cho người mua về mã số của cổ phiếu. Sau đó hai bên kết thúc
giao dịch.
Với các NHTM, công ty chứng khoán thuộc ngân hàng sẽ đảm trách dịch vụ
này và mang lại cho ngân hàng những lợi nhuận từ lệ phí giao dịch hay hoa hồng
giao dịch rất lớn. Công ty chứng khoán thuộc ngân hàng có những ưu thế hơn so
với các công ty chứng khoán khác trong nghiệp vụ môi giới vì:
Thứ nhất, Ngân hàng đã có mối quan hệ sâu sắc với các doanh nghiệp qua
việc tín dụng thanh toán, nắm được các thông tin cần thiết cho việc môi giới chứng
khoán, tạo được uy tín với khách hàng.
Thứ hai, Ngân hàng đã có sẵn cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật một mạng
lưới chi nhánh, đại lý rộng khắp sẵn sàng phục vụ mọi yêu cầu của nhà đầu tư.
Thứ ba, Ngân hàng có đội ngũ cán bộ, nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn
về kinh doanh tiền tệ liên quan chặt chẽ và gần gũi với nghiệp vụ môi giới chứng
khoán.
3.4. Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam
kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán,
nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại,
12
hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành,
hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chúng.
Việc bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các phương
thức sau:
- Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh mà theo đó, tổ
chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ chứng khoán phát hành, cho dù có phân
phối hết hay không.
- Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó, tổ
chức bảo lãnh thoả thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh phát
hành không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán, mà cam kết sẽ cố gắng hết mức
để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng phần không phân phối hết sẽ được trả lại
cho tổ chức phát hành.
- Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không bán gì: là phương thức
bảo lãnh mà theo đó, tổ chức phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phát hành nếu
không bán hết số chứng khoán thì huỷ bỏ toàn bộ đợt phát hành.
- Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: là phương thức bảo lãnh trung
gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán
tất cả hoặc không bán gì. Theo phương thức này, tổ chức phát hành chỉ thị cho tổ
chức bảo lãnh phát hành phải bán tối thiểu một tỷ lệ nhất định chứng khoán phát
hành. Nếu lượng chứng khoán bán được đạt tỷ lệ thấp hơn tỷ lệ yêu cầu thì toàn bộ
đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ.
Tổ chức bảo lãnh phát hành là CTCK được phép hoạt động bảo lãnh phát
hành chứng khoán và NHTM được BCK chấp thuận bảo lãnh phát hành trái phiếu
theo điều kiện do Bộ tài chính quy định.
Thông thường, để phát hành chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát hành
cần phải có sự bảo lãnh phát hành. Nếu số lượng phát hành không lớn thì chỉ cần
có một tổ chức bảo lãnh phát hành. Nếu đó là một công ty lớn và số chứng khoán
13
phát hành vượt quá khả năng của một tổ chức bảo lãnh thí cần phải có một tổ hợp
bảo lãnh phát hành, bao gồm một hoặc một số tổ chức bảo lãnh chính và cả tổ chức
bảo lãnh thành viên.
Các tổ chức bảo lãnh phát hành được hưởng một khoản phí bảo lãnh nhất
định trên số tiền thu được từ đợt phát hành. Phí bảo lãnh cao hay thấp là tùy thuộc
vào tính chất của đợt phát hành (lớn, nhỏ, thuận lợi hay khó khăn). Đối với trái
phiếu, phí bảo lãnh phụ thuộc vào lãi suất trái phiếu, theo tỷ lệ nghịch.
+ Với việc bảo lãnh phát hành cổ phiếu: các NHTM tham gia bảo lãnh phát
hành cổ phiếu thông qua các công ty chứng khoán của mình.
+ Với việc bảo lãnh phát hành trái phiếu: các NHTM lớn đều có dịch vụ bảo
lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Ngoài ra, các NHTM còn tham gia bảo
lãnh phát hành, đại lý phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ
bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền địa phương.
3.5. Lưu kí và thanh toán bù trừ
a. Lưu kí chứng khoán
Lưu ký chứng khoán là một trong những điều kiện cần thiết để thực hiện
giao dịch trên thị trường chứng khoán. Lưu ký là việc gửi chứng chỉ chứng khoán
như tờ cổ phiếu, trái phiếu, hoặc các loại giấy tờ hợp pháp chứng minh quyền sở
hữu chứng khoán vào hệ thống lưu ký. Hệ thống lưu ký chứng khoán bao gồm
Trung tâm lưu ký và các thành viên lưu ký. Chứng chỉ chứng khoán của nhà đầu tư
sẽ được cất giữ an toàn tại Trung tâm lưu ký. Chứng khoán đã được lưu ký sẽ được
ghi nhận vào tài khoản lưu ký chứng khoán đứng tên nhà đầu tư. Khi chứng khoán
được giao dịch, tài khoản của nhà đầu tư sẽ được ghi tăng hoặc giảm mà không cần
phải trao tay tờ chứng chỉ chứng khoán. Lưu ký chứng khoán là bắt buộc trước khi
muốn chứng khoán được giao dịch qua sàn giao dịch của Trung tâm giao dịch
chứng khoán.
14
Ở Việt Nam theo quyết định số 05/1999/QĐ – UBCK3 ngày 27/3/1999, lưu
ký chứng khoán là hoạt động lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và
giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán lưu ký.
Khi thực hiện dịch vụ lưu kí chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng
khoán sẽ nhận được các khoản phí lưu kí chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí
chuyển nhượng chứng khoán.
b. Thanh toán bù trừ chứng khoán
Thanh toán bù trừ chứng khoán là hoạt động luân chuyển chứng khoán trên
các tài khoản lưu ký dưới sự điều hành của trung tâm lưu ký, thanh toán bù trừ
chứng khoán.
Nguyên tắc:
- Hoạt động này chỉ thực hiện đối với các chứng khoán lưu ký tổng hợp tại các trung
tâm lưu ký, các chứng khoán chuyển nhượng tự do.
- Việc thanh toán bù trừ chứng khoán phải tuân theo các nguyên tắc giao chứng
khoán đồng thời với thanh toán trả tiền.
- Thanh toán bù trừ chứng khoán được thực hiện thông qua nghiệp vụ bù trừ đa
phương và thanh toán từng giao dịch cho các thành viên tham gia.
- Hoạt động này được áp dụng cho mọi giao dịch trên thị trường chứng khoán và
thanh toán tiền qua hệ thống ngân hàng thanh toán chỉ định.
Hoạt động này gồm hai giai đoạn:
- Giai đoạn bù trừ:
- Giai đoạn thanh toán:
Trên thị trường chứng khoán, nếu tất cả các khoản thanh toán đều thực hiện
bằng tiền mặt thì sẽ mất đi tính sôi động. Để giải quyết được nhược điểm trên
người ta áp dụng thanh toán bằng chuyển khoản, đã giảm đi một gánh nặng lớn,
theo đó tất cả những người mua và người bán, các môi giới, kinh doanh chứng
khoán đều có tài khoản ở ngân hàng, khi các giao dich mua bán kết thúc thì mỗi
15
người đều nhận được các giấy báo nợ, báo có mà không cần quan tâm đến tiền mặt
nữa. Đây là một bước tiến giúp cho TTCK hoạt động một cách trôi chảy hơn. Việc
thực hiện công tác thanh toán đều do các ngân hàng đảm nhận, nếu công tác này
được tiến hành tốt sẽ là một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự thành công của một thị
trường chứng khoán.
3.6. Tự doanh chứng khoán
Tự doanh chứng khoán là nghiệp vụ mua bán chúng khoán cho chính mình
để hưởng lợi nhuận từ chệnh lệch giá chứng khoán và tự gánh chịu rủi ro.
Thực chất của hình thức kinh doanh này là NH luôn luôn mua CK của khách
hàng bằng tiền mặt của mình và bán cho khách hàng không vì mục đích ăn hoa
hồng, mà là lợi nhuận chênh lệch giữa thị giá mua và thị giá bán.
Hoạt động tự doanh chứng khoán thường do công ty chứng khoán trực
thuộc các ngân hàng thương mại tham gia tiến hành do có những nghiệp vụ chuyên
môn đặc thù. Tuy nhiên đây là một hoạt động khó khăn và phức tạp, hoạt động này
có thể mang lại cho các ngân hàng thương mại những khoản lợi nhuận lớn nhưng
cũng có thể gây ra những tổn thất không nhỏ.
Để thực hiện nghiệp vụ này thành công, ngoài đội ngũ nhân viên phân tích
thị trường có nghiệp vụ giỏi và nhanh nhậy với những biến động của thị trường,
ngân hàng thương mại còn phải có một chế độ phân cấp quản lý và đưa ra những
quyết định đầu tư hợp lý, trong đó việc xây dựng chế độ phân cấp quản lý và ra
quyết định đầu tư vào những loại chứng khoán nào là một trong những vấn đề then
chốt, quyết định đến nhiều vấn đề của ngân hàng thương mại.
Ở các nước phát triển có thị trường chứng khoán phát triển thì nghiệp vụ tự
doanh là rất phổ biến, bởi lẽ các công ty chứng khoán trực thuộc của các ngân hàng
thương mại ở các nước này có kinh nghiệm và quản lý tốt nên việc kinh doanh
chứng khoán bằng nguồn vốn của chính đơn vị mình là điều tất yếu.
3.7. Thực hiện chứng khoán phái sinh.
16
Chứng khoán phái sinh (derivatives) là những công cụ được phát hành trên
cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu, nhằm nhiều mục tiêu khác
nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các chứng khoán
phái sinh sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các các đối tượng đầu tư như cổ
phiếu, trái phiếu, để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao
nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu.
Ngân hàng thương mại tham gia thực hiện các công cụ phái sinh là để bảo
hiểm rủi ro giao dịch tài chính cho cả ngân hàng và khách hàng. Trong quá trình
hoạt động, nếu có sinh lời thì bản chất vẫn là phòng ngừa rủi ro để tối đa hóa lợi
nhuận chứ không hẳn là kiếm lời.
Vậy, doanh nghiệp sẽ được lợi gì? Trước hết, doanh nghiệp nước ngoài khi
đưa vốn ngoại tệ vào Việt Nam đầu tư, sau khi thu lợi nhuận và chuyển tiền về
nước, nếu sử dụng công cụ phái sinh, họ sẽ tránh được thiệt hại khi có rủi ro về tỷ
giá. Tiếp đó là các dự án đầu tư với số vốn lớn. Các dự án này đều vay hay mua
chịu một lượng lớn hàng hóa nước ngoài bằng USD, nếu sử dụng hoán đổi lãi suất
(Swaps) thì có thể tránh được thiệt hại không nhỏ với những biến động khó lường
của thị trường tiền tệ. Thế nhưng, chủ các dự án này dường như chưa bao giờ sử
dụng công cụ phái sinh. Ngay cả quỹ dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước,
lượng ngoại tệ tương đương với giá trị vài chục tuần nhập khẩu cũng đang tồn tại
như một thứ "quỹ chết trong ao tù", mặc dù lượng dự trữ tăng lên và đồng USD
đang yếu đi từng ngày. Giá như có một cơ chế rõ ràng, cho phép sử dụng quỹ này
thích ứng với các công cụ phái sinh thì đồng vốn sẽ được sinh lời thay vì nằm im
trong két sắt.
Các công cụ phái sinh rất phong phú và đa dạng, nhưng nhìn chung có bốn
công cụ chính là Hợp đồng kỳ hạn (forwards), Hợp đồng tươnglai (futures), Quyền
chọn (options) và Hợp đồng hoán đổi (swaps).
17
a. Hợp đồng kỳ hạn:
Đây là một công cụ phái sinh đơn giản, là thoả thuận/hợp đồng mua
hoặc bán hàng hoá hay tài sản tài chính tại một thời điểm trong tương lai với mức
giá xác định trước. Công cụ này là loại hợp đồng “song phương” thực hiện vô điều
kiện. Theo đó, hai bên phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ qui định trong hợp đồng.
Hợp đồng kỳ hạn thường được giao dịch trên thị trường phi tập trung, không có
một qui định/thể chế nào bắt buộc đối với các giao dịch giữa các tổ chức/cá nhân;
không thực hiện thanh toán bù trừ hàng ngày và giá trị khác “O” chỉ được hạch
toán vào ngày đáo hạn cho bên thắng (+) và bên thua (-) nếu hợp đồng được thực
hiện thành công.
b. Hợp đồng tương lai:
Công cụ này tương tự như công cụ kỳ hạn nhưng đã khắc phục được rủi ro
của chính công cụ phòng chống rủi ro có thể xảy ra ở hợp đồng kỳ hạn (như mất
khả năng thanh toán, “xù”, chi phí “tìm” đối tác cụ thể...). Theo đó, công cụ hợp
đồng tương lai được chuẩn hoá cao hơn, giá cả, số lượng và các chi tiết của hợp
đồng được đảm bảo bởi trung tâm thanh toán bù trừ, hoặc bởi một Định chế tài
chính đóng vai trò này.
Các hợp đồng được chuẩn hoá và các thành viên tham gia thị trường phải
tuân thủ các qui định giới hạn về giá để hạn chế sự biến động mạnh gây bất ổn cho
thị trường. Do hợp đồng được chuẩn hoá cao, các thành viên có thể ước lượng
được khối lượng hàng hoá giao dịch nên đảm bảo tính thanh khoản của thị trường.
Hầu hết các hợp đồng tương lai được thực hiện qua trung tâm thanh toán bù trừ và
phải trả phí. Các bên tham gia phải có tiền đặt cọc/ký quĩ để đảm bảo thực hiện
hợp đồng. Bù lại, hai bên “mua” và “bán” hợp đồng không nhất thiết phải biết
nhau (tiết kiệm được chi phí “tìm nhau”) mà chỉ cần trao đổi qua trung gian.
Các hợp đồng tương lai bắt đầu nở rộ và phố biến trong các giao dịch
thương mại và bao gồm nhiều loại khác nhau như: Hợp đồng tương lai chỉ số
chứng khoán (index futures), Hợp đồng tương lai lãi suất (interest futures), Hợp
18
đồng tương lai ngoại hối (currency futures), Hợp đồng tương lai nông sản
(agricultural futures), Hợp đồng tương lai kim loại và khoáng sản (metal and
mineral futures)...
c. Hợp đồng quyền chọn:
Là hợp đồng cho phép người mua quyền lựa chọn quyền (không phải nghĩa
vụ) mua (call) hoặc quyền bán (put) một công cụ hoặc một tài sản gốc theo giá cụ
thể - giá thực hiện vào một ngày cụ thể trong tương lai. Giá trả cho quyền này,
ngoài giá chính thức chỉ biết được từ hiệu số rủi ro kỳ vọng trong hợp đồng xác
định trước với rủi ro thực lúc đáo hạn thì người mua quyền còn phải trả trước phí
đặt cọc cho người bán (premium). Phí đặt cọc, hay phí cuộc chơi chính là một bộ
phận của giá để nhận ra năng lực dự báo rủi ro của người mua, do đó phí đặt cọc
trở thành giới hạn thấp nhất của rủi ro nếu người mua quyền “thua cuộc” và từ chối
thực hiện hợp đồng vào thời điểm nào đó trong giới hạn thời gian hiệu lực của hợp
đồng. Hợp đồng quyền chọn chỉ quy định quyền giao hay nhận mà không bắt buộc
thực hiện nghĩa vụ của mình. Người mua quyền có thể: Thực hiện quyền, hay bán
quyền cho một người mua khác; hay không thực hiện quyền. Điều đáng chú ý là
việc từ chối hay không từ chối quyền khi giá vào ngày đáo hạn cao (hay thấp) hơn
giá trong hợp đồng sẽ được quyết định trên cơ sở mức độ chênh lệch giữa giá định
trước với giá thực tế của sản phẩm chính ở ngày đáo hạn và quyền phí. Nghĩa là
“giá của hợp đồng quyền chọn bằng chênh lệch giá giữa giá thực tế với giá trong
hợp đồng “cộng” với phí mua quyền nếu người mua quyền thực hiện được quyền
thành công theo hợp đồng, hoặc đơn giản chỉ là phí để “rút lui” không thực hiện
hợp đồng. Cụ thể, trong khi người mua hợp đồng quyền chọn mua mong muốn giá
của sản phẩm hợp đồng sẽ tăng lên trong ngày đáo hạn thì người mua hợp đồng lựa
chọn bán lại hy vọng giá xuống, nếu cao hơn giá định trước họ sẽ từ chối quyền
bánvàchịumấtquyềnphí.
d. Công cụ hoán đổi (SWAP:)