BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRẦN THÁI TRÍ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM TRA NỘI BỘ
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGHỆ AN, 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRẦN THÁI TRÍ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM TRA NỘI BỘ
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60.14.01.14
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐINH XUÂN KHOA
NGHỆ AN, 2014
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tác giả
đã nhận được sự động viên, giúp đỡ tận tình, tạo điều kiện thuận lợi của các
cấp lãnh đạo, thầy cô giáo, người thân và gia đình.
Tác giả xin chân thành cảm ơn: Hội đồng Khoa học và Đào tạo trường
Đại học Vinh, quý thầy cô giảng dạy lớp Cao học Quản lý giáo dục K20, thầy
cô trong khoa Giáo dục, phòng đào tạo Sau đại học, Ban Giám hiệu và các
Phòng, Khoa, Tổ trường Cao đẳng Kinh tế TP.HCM đã nhiệt tình giảng dạy,
cung cấp tài liệu, tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở thực tế, đóng góp những ý
kiến quí báu cho việc nghiên cứu hoàn thành đề tài. Đặc biệt, tác giả xin bày
tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Đinh Xuân Khoa người hướng dẫn
khoa học đã tận tâm bồi dưỡng kiến thức, phương pháp nghiên cứu, năng lực
tư duy và trực tiếp giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.
Mặc dù rất nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện, nhưng trong bài
luận văn không sau tránh khỏi những thiếu sót, tác giả kính mong nhận được
những lời chỉ dẫn ân cần của các thầy cô giáo, ý kiến trao đổi của quí đồng
nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu viết tắt Nội dung
CB Cơ bản
CCVC Công chức viên chức
CN Chuyên nghiệp
CSVC Cơ sở vật chất
GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
GD-PL Giáo dục-Pháp luật
GV Giảng viên
HTQT&QLKH Hợp tác quốc tế và Quản lý khoa học
HSSV Học sinh Sinh viên
KH Kế hoạch
KTNB Kiểm tra nội bộ
KTNBTH Kiểm tra nội bộ trường học
KT&ĐBCL Khảo thí và Đảm bảo chất lượng
NC&PT Nghiên cứu và Phát triển
NN Ngoại ngữ
NV Nhân viên
QLHS-SV Quản lý Học sinh - Sinh viên
QTKD Quản trị Kinh doanh
QTTB Quản trị thiết bị
TCCN Trung cấp chuyên nghiệp
TC-HC Tổ chức - Hành chính
TC-KT Tài chính - Kế toán
TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
VLVH Vừa làm vừa học
TM-DL Thương mại - Du lịch
XHCN Xã hội Chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mọi sự vật, hiện tượng đều có chung một quy luật là không ngừng vận
động và phát triển trong thế giới. Sự vận động và phát triển đều thể hiện ở hai
chiều hướng đi lên hoặc đi xuống, tạm quy ước rằng: đi lên là chiều hướng
phát triển tích cực và đi xuống là chiều hướng phát triển tiêu cực. Đi lên hay
đi xuống đều thể hiện quá trình thay đổi của sự vật và hiện tượng là do sự tác
động của môi trường khách quan và chủ quan của con người là không thể
thiếu được trong suốt quá trình thay đổi của sự vật và hiện tượng, mà trong đó
vai trò chủ quan của con người là nhân tố quan trọng, quyết định đến kết quả
của quá trình thay đổi.
Theo tác giả Nguyễn Thị Hường, trường Đại học Vinh, nhận thức đúng
về sự thay đổi như sau:
“Thay đổi là một quá trình tự nhiên: Thế giới đang vận động không
ngừng, thay đổi đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ, thậm chí là hàng giây. Hãy
nhớ rằng, có một thứ duy nhất trên thế giới này không bao giờ thay đổi đó là
sự thay đổi. Và cũng chỉ có một thứ duy nhất trên thế giới này làm cho mọi
thứ thay đổi, đó là thay đổi. Nếu chúng ta không chịu thay đổi, chúng ta sẽ bị
đào thải”.([23], tr13)
Vì vậy, trong quản lý nói chung và quản lý giáo dục nói riêng, đặc biệt
trong công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát giáo dục là một bộ phận không
thể tách rời trong hệ thống quản lý ấy và cũng là yếu tố hàng đầu để đánh giá
chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý giáo dục. Kiểm tra, giám sát nó
gắn liền với chức năng lãnh đạo của người quản lý là điều không thể thiếu
được trong tiến trình phát triển sự nghiệp giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, kiểm tra, thanh tra là một bộ phận không thể
2
tách rời của công tác lãnh đạo. Công tác lãnh đạo bao gồm ba bộ phận cấu
thành, đó là quyết định chủ trương, chính sách; tổ chức thực hiện chủ trương,
chính sách đã ban hành; và thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chủ trương,
chính sách đã ban hành đó.
Vì lý lẽ trên ngành giáo dục Việt Nam trong những năm gần đây đã
từng bước chuyển mình và đổi mới phù hợp với xu hướng mới, thời đại mới;
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng trong nội
dung nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ, phát triển nguồn nhân lực: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và
công nghệ là quốc sách hàng đầu và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.”[32]
Trong Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI”; Đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội,
nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân
chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.”[33]
Đi đôi với việc đổi mới giáo dục đào tạo công tác quản lý cũng được đề ra:
Tại Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X cũng đã nêu rõ “Đổi mới và nâng
cao năng lực quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo; Nhà nước thực hiện đúng
chức năng định hướng phát triển, tạo lập khung pháp lý và kiểm tra, thanh tra,
giám sát việc thực thi pháp luật, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong
giáo dục và đào tạo, chống bệnh thành tích. Đổi mới tổ chức và hoạt động, đề
cao và bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường, nhất là trường
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ” ([32], tr 209);
3
Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XI: “Tiếp tục đổi
mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng cường tính tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào tạo Tăng cường công tác thanh
tra, kiên quyết khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục, đào tạo.”;
Vấn đề này, cho thấy công tác thanh tra giáo dục và đào tạo nhất thiết
phải chuyển mình thay đổi, nhất là thanh tra nội bộ tại các cơ sở giáo dục và
đào tạo phải từng bước chuyển đổi nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
quản lý của cơ sở giáo dục và đào tạo, trong đó đặc biệt cần phải có các giải
pháp tích cực hơn nữa trong quản lý công tác thanh tra, kiểm tra ở nội bộ của
trường nhằm đáp ứng cho nhu cầu quản lý giáo dục và đào tạo nói chung và
cho cơ sở giáo dục và đào tạo nói riêng.
Nhằm triển khai và thực hiện vấn đề trên, trường Cao đẳng Kinh tế
TP.HCM là một cơ sở giáo dục và đào tạo không nằm ngoài các vấn đề đã
nêu. Phòng Thanh tra đã được thành lập hơn ba năm có lẻ theo Quyết định số
318/QĐ -CĐKT, ngày 18/8/2010 của Hiệu trưởng trường Cao đẳng Kinh tế
TP.HCM; dựa trên Điều lệ thành lập trường cao đẳng và Thông tư số
43/2006/QĐ-BGDĐT ngày 20/10/2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tổ
chức và hướng dẫn thanh tra toàn diện trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác
và thanh tra hoạt động sư phạm của nhà giáo. Điều đó đòi hỏi nhà trường nói
chung và công tác thanh tra, kiểm tra nói riêng cần phải có sự khẩn trương
nhất định trong quản lý công tác thanh tra, kiểm tra trong giai đoạn mới, tình
hình mới hiện nay;
Tuy mới được thành lập không lâu nhưng Phòng Thanh tra đã có những
nỗ lực nhất định, giúp cho trường ổn định, từng bước đi vào nề nếp, đảm bảo
thời gian làm việc và kế hoạch giảng dạy đúng tiến độ, đã được lãnh đạo và
tập thể nhà trường tin tưởng, đánh giá cao trong công tác. Tuy nhiên, bên
cạnh đó Phòng Thanh tra trường Cao đẳng Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
4
cần phải tăng cường quản lý công tác thanh tra, kiểm tra nâng cao chất lượng
và hiệu quả hơn nữa mới theo kịp và phù hợp với xu thế phát triển của nhà
trường trong tương lai; đồng thời đáp ứng cho việc đăng ký “Hệ thống quản
lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001-2008” mà trường đã đề ra là vô cùng
bức thiết;
Với những vấn đề nêu trên, tác giả thấy rằng Phòng thanh tra Trường
Cao đẳng Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh cần thiết phải có một số giải pháp
quản lý nhất định nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác thanh tra,
kiểm tra của trường. Trước mắt giải quyết bốn vấn đề tồn tại cần phải nghiên
cứu trong quản lý như sau:
- Phòng Thanh tra phải thật sự là tai, mắt của lãnh đạo và là bạn của cấp
dưới phải dựa trên các nghiên cứu khoa học và thực tiễn đễ đề ra giải pháp
nhằm đáp ứng cho nội dung và yêu cầu này;
- Cần tăng cường hơn nữa trong công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt
động của trường không chỉ phát hiện, ngăn ngừa, phòng chống các biểu hiện
tiêu cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật để chấn chỉnh mà còn phải phát hiện
những cái đúng, cái hợp lý, những tích cực của bộ phận hay đơn vị để nhân
rộng điển hình; những bất cập cần điều chỉnh trong quản lý ;
- Chưa thực sự ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý cho
công tác thanh tra. Từ đó, làm hạn chế trong công tác thu thập số liệu, thống
kê, tổng hợp, theo dõi, đánh giá Mất nhiều thời gian, công sức và nhầm lẫn;
- Chưa xây dựng quy trình làm việc theo Hệ thống quản lý chất lượng
theo tiêu chuẩn ISO 9001-2008.
Những vấn đề trên đòi hỏi Phòng thanh tra phải nghiên cứu để có các
giải pháp quản lý thỏa đáng, nhằm nâng cao chất lượng và có hiệu quả trong
công tác thanh tra, kiểm tra nói riêng và công tác quản lý của trường nói
5
chung. Được vậy, mới góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhà trường theo
hướng đi lên phù hợp với xu thế mới mà ngành giáo dục Việt Nam đã và đang
ra sức đổi mới. Vì lẽ đó, tác giả mạnh dạn đưa ra đề tài cần được nghiên cứu:
“Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm tra nội bộ ở trường Cao
đẳng Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh”.
Tuy nhiên, những điều nêu trên chỉ là cách nhìn chủ quan còn hạn hẹp
của tác giả cùng với thời gian nghiên cứu có hạn, tác giả chỉ có thể đưa ra
một số giải pháp chủ quan của mình, rất mong rằng các sơ sót, hạn chế sẽ
được quý thầy, cô hướng dẫn; các cấp lãnh đạo nhà trường cùng với các
đồng nghiệp giúp đở, đóng góp để đề tài sớm được ứng dụng mang tính khả
thi trong thực tế nhằm góp phần xây dựng Trường Cao đẳng Kinh tế Thành
phố Hồ Chí Minh nói riêng và cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo cả nước
nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất được các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm
tra nội bộ tại trường Cao đẳng Kinh tế TP.HCM.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Công tác kiểm tra nội bộ ở trường cao đẳng.
- Đối tượng nghiên cứu: Giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm
tra nội bộ của trường Cao đẳng Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Giả thuyết khoa học
Cùng với sự đổi mới và nâng cao năng lực quản lý cơ sở giáo dục nếu
công tác kiểm tra của trường có các giải pháp quản lý có cơ sở khoa học thích
hợp và khả thi thì có thể thực hiện và đảm bảo những mục tiêu và yêu cầu
quản lý của trường Cao đẳng Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
6
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về những yêu cầu quản lý đối với công tác
kiểm tra nội bộ trường Cao đẳng Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
- Khảo sát phân tích, đánh giá được thực trạng về công tác kiểm tra nội
bộ trong những năm qua đã và đang tác động ảnh hưởng đến công tác quản lý
trong nhà trường Cao đẳng Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất các giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác kiểm tra nội bộ trong nhà trường.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Là phương pháp để nghiên cứu lý luận, tổng hợp phân tích tài liệu:
+ Phân tích, tổng hợp các tài liệu lý thuyết về công tác kiểm tra nội bộ;
phương pháp, nội dung, hình thức kiểm tra.
+ Hệ thống hóa tài liệu lý thuyết và các văn bản quy phạm pháp luật
hiện hành về công tác kiểm tra nội bộ nói chung và công tác quản lý kiểm tra
nội bộ ở cơ sở giáo dục và đào tạo nói riêng.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn để khảo sát thực trạng về quản lý
công tác kiểm tra trong nội bộ nhà trường. Kết hợp cùng với hệ thống quản lý
trong trường nhằm đưa ra:
+ Bức tranh tổng thể của công tác kiểm tra nội bộ của trường Cao đẳng
Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Tình hình thực hiện công tác kiểm tra nội bộ của trường trong thực
tiễn, mặt mạnh, mặt yếu; mức độ thành công, những nguyên nhân của tồn tại,
7
bất cập về các giải pháp quản lý trong công tác kiểm tra nội bộ của nhà trường
đã áp dụng trong thực tế.
- Thống kê và xử lý kết quả nghiên cứu
Phần nhập số liệu và xử lý kết quả sẽ được thiết kế trên phần mềm MS.
Excel; cùng với các ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình thực hiện.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng kiểm tra nội bộ trường
cao đẳng
Chương 2: Thực trạng chất lượng kiểm tra nội bộ ở trường Cao đẳng
Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng kiểm tra nội bộ ở
trường Cao đẳng Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG KIỂM TRA NỘI BỘ TRƯỜNG CAO ĐẲNG
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nội dung của quản lý nhà nước, theo giai đoạn tác động, có ba chức
năng cơ bản sau đây: ra quyết định, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực
hiện quyết định đó. Quyết định quản lý là sản phẩm đặc biệt của lao động
quản lý. Để có được một quyết định quản lý, người ra quyết định phải trải qua
một quy trình gồm nhiều bước. Trong đó, bước khởi đầu không thể thiếu là
thu thập, phân tích và xử lý thông tin, đánh giá tình hình làm căn cứ cho việc
ra quyết định. Những thông tin có được cũng cần được kiểm tra về tính khách
quan, tính chính xác. Những yêu cầu này sẽ được đáp ứng một cách tốt nhất
nếu người ra quyết định làm tốt chức năng kiểm tra.
Mặt khác, cần thấy rằng việc đề ra quyết định mới chỉ là điểm xuất phát
của quá trình quản lý. Tổ chức thực hiện quyết định và kiểm tra việc thực hiện
quyết định đó là hai giai đoạn tiếp theo của quá trình quản lý. Chúng bao gồm
những công việc như: truyền đạt quyết định, lập kế hoạch tổ chức thực hiện,
kiểm tra việc thực hiện, điều chỉnh quyết định và tổng kết đánh giá tình hình
thực hiện quyết định. Ở đây, kiểm tra được hiểu là hình thức tác động có tính
hướng đích để quan sát cả hệ thống nhằm phát hiện kịp thời những sai lệch so
với yêu cầu đề ra, từ đó có những giải pháp phù hợp, bảo đảm để đối tượng
quản lý tự điều chỉnh hoặc buộc phải điều chỉnh sao cho hoạt động của nó đạt
đến mục tiêu mà chủ thể quản lý đã xác định. Từ phân tích nêu trên thấy rõ
vai trò quan trọng của công tác thanh tra, kiểm tra. Có thể có những quyết định
đúng đắn, hứa hẹn hiệu quả tốt, nhưng do thiếu công tác thanh tra, kiểm tra trong
9
quá trình thực hiện để phát hiện kịp thời những lệch lạc và đề ra các giải pháp
uốn nắn phù hợp thì kết quả thu được có thể hoàn toàn ngược lại.
Cũng cần phải nói thêm rằng, việc có tìm được giải pháp phù hợp để
chấn chỉnh lệch lạc hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố
chất lượng của hoạt động thanh tra, kiểm tra. Hoạt động kiểm tra, theo nghĩa
thông thường, có thể đưa lại những thông tin cần thiết, đáp ứng yêu cầu của
việc tìm ra các giải pháp phù hợp. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, hoạt động
kiểm tra theo nghiã thông thường chưa đáp ứng được yêu cầu tìm ra giải pháp
phù hợp để chấn chỉnh lệch lạc, cần có một phương thức kiểm tra khác. Loại
phương thức kiểm tra này không dừng lại ở chỗ phát hiện lệch lạc của đối
tượng quản lý so với yêu cầu đề ra, mà còn phải tìm ra những nguyên nhân
chủ quan, khách quan của sự lệch lạc đó. Nếu có yếu tố trách nhiệm thì đương
nhiên còn phải chỉ ra được trách nhiệm đó thuộc về ai? tổ chức, đơn vị hay cá
nhân nào? Kiểm tra theo phương thức mới này đã làm nảy sinh những yêu cầu
mới của chính hoạt động kiểm tra như: phải thu thập thông tin, xử lý phân tích
và tổng hợp, nhận xét và đánh giá thông tin thu được… Loại kiểm tra như vậy
rất gần với hoạt động thanh tra. Nói cách khác, thực chất thanh tra là một
phương thức của kiểm tra, là công cụ của hoạt động quản lý và là chức năng
của người làm công tác quản lý.
Tóm lại, công tác kiểm tra và giám sát là một hoạt động xuyên suốt của
quá trình quản lý từ khâu kế hoạch, thực hiện và tổng kết công tác là không
thể thiếu được. Có kiểm tra mới phát hiện những lệch lạc, sai phạm, những
bấc cập phát sinh để kịp thời uốn nắn, tìm ra những nguyên nhân, giải pháp
nhằm khắc phục và tác động một cách có hiệu quả đến quá trình quản lý và
lãnh đạo đạt được chất lượng và hiệu quả tối ưu.
10
1.1.1. Ở nước ngoài
Lênin đã chỉ rõ: Khi đường lối, chính sách đã được xác định, phương
hướng đã được thông qua thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải đặt lên hàng
đầu và sự lãnh đạo phải “Chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc lệnh và
mệnh lệnh sang việc lựa chọn người và kiểm tra sự thực hiện” ([34], tr450)
còn nhấn mạnh: “Kiểm tra nhân viên công tác và kiểm tra việc chấp hành
thực tế công tác- mấu chốt của toàn bộ công tác, của toàn bộ chính sách hiện
nay là ở đấy, vẫn ở đấy và chỉ có ở đấy” ([35], tr19)
Hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, giám sát có nội dung, tính chất,
đối tượng tác động, thủ tục tiến hành khác nhau. Mỗi loại hoạt động có vai
trò, tác động xã hội nhất định, chúng phối hợp tạo thành công lực để củng cố
pháp chế, trật tự pháp luật. Khi đánh giá về vai trò các loại hoạt động này
V.I.Lênin viết: "Thống kê và kiểm tra là điều chủ yếu để bảo đảm sự hoạt
động đúng đắn trong chủ nghĩa xã hội" ([34], tr124), rằng: "kiểm tra con
người và kiểm tra việc chấp hành nhiệm vụ trên thực tế luôn là mấu chốt của
toàn bộ công tác, của chính trị" ([36], tr 19)
1.1.2. Ở trong nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Chính sách đúng là nguồn gốc của
thắng lợi. Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hay thất bại của chính
sách đó là do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy
cũng vô ích”, “Nếu tổ chức việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như có ngọn
đèn pha, bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm, bao nhiêu
cán bộ chúng ta đều thấy rõ. Có thể nói rằng: Chín phần mười khuyết điểm
trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra” ([17], tr 154,156) “Kiểm
tra có tác dụng thúc đẩy, giáo dục Đảng viên và cán bộ làm tròn nhiệm vụ đối
với Đảng, đối với Nhà nước, làm tấm gương tốt cho nhân dân, do đó góp
phần vào việc cũng cố Đảng về tư tưởng và tổ chức”([16], tr 133).
11
Trong bài nói chuyện với Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc năm
1960, Người chỉ rõ: “Lãng phí, tham ô là kết quả, mà nguyên nhân là bệnh
quan liêu, mệnh lệnh…” ([19],tr 12, 13).
Để chống lại bệnh quan liêu, mệnh lệnh, Người cho rằng chỉ có một
cách, đó là phải kiểm tra, kiểm soát. Trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm
việc”, Người khẳng định: người lãnh đạo phải “kiểm soát kết quả công việc
của cán bộ của mình”. Đối với người lãnh đạo, Người viết: “Giao công việc
mà không kiểm tra, đến lúc thất bại mới chú ý đến. Thế là không biết yêu dấu
cán bộ”. Người còn khẳng định: “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy;
muốn biết các nghị quyết có được thi hành hay không, thi hành có đúng
không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm cho qua chuyện, chỉ có một cách là
khéo kiểm soát” và “kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn
nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi” ([19], tr 276, 287,
288).
Trong tác phẩm “Một việc mà các cơ quan lãnh đạo cần thực hành
ngay”, Người cũng viết: “Hiện nay, nhiều nơi cán bộ lãnh đạo chỉ lo khai hội
và thảo nghị quyết, đánh điện và gửi chỉ thị, sau đó thì họ không biết gì đến
những nghị quyết đó đã được thực hành đến đâu, có những khó khăn, trở ngại
gì, dân chúng có ra sức tham gia hay không. Họ quên mất kiểm tra. Đó là một
sai lầm rất to”. Người cho rằng: “Có kiểm tra mới huy động được tinh thần
tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm
của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời” ([19], tr 520, 521).
Qua thực tiễn Đảng ta đã kết luận: Công tác kiểm tra là” một bộ phận
quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng” ([30], tr122), là “một
khâu quan trọng của tổ chức thực hiện” là “Biện pháp hiệu nghiệm để khắc
phục bệnh quan liêu”([31], tr137)
12
Tại Văn Kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã nêu rõ” “Đổi mới và nâng cao
năng lực quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo; Nhà nước thực hiện đúng
chức năng định hướng phát triển, tạo lập khung pháp lý và kiểm tra, thanh tra,
giám sát việc thực thi pháp luật, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong
giáo dục và đào tạo, chống bệnh thành tích. Đổi mới tổ chức và hoạt động, đề
cao và bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường, nhất là
trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ” ([32],209)
Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thư XI của Đảng trong phần kiểm điểm 5
năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X; nhìn lại 10 năm thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế xã hội 2001-2010, đã chỉ ra ”Tiếp tục đổi mới cơ chế quản
lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của các cơ sở giáo dục, đào tạo Tăng cường công tác thanh tra, kiên quyết
khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục, đào tạo.” ([33], tr217,218).
Thông tư Số: 51 /2012 /TT-BGDĐT ngày 18/12/2012 của Bộ Giáo dục
và Đào tạo Quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra của cơ sở giáo dục
đại học, trường trung cấp chuyên nghiệp, đã nói lên tầm quan trong của
công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ nhà trường.
Tác giả Hà Sỹ Hồ, trong cuốn “Những bài giảng về quản lý trường
học” trong tập 2-NXBGD đã nói: “Chức năng kiểm tra đặc biệt quan trọng vì
quá trình quản lý đòi hỏi những thông tin chính xác, kịp thời về thực trạng của
đối tượng quản lý, về việc thực hiện các quyết định đã đề ra, tức là đòi hỏi
những liên hệ ngược chính xác, vững chắc giữa các phân hệ quản lý, và phân
hệ được quản lý ”. Tác giả định: “Quản lý mà không kiểm tra thì quản lý sẽ
ít hiệu quả và trở thành quản lý quan liêu” ([14], tr. 126).
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang, trong cuốn “Những khái niệm cơ bản về
quản lý giáo dục” cho rằng: Quá trình quản lý diễn ra qua năm giai đoạn:
13
“Chuẩn bị kế hoạch, kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra; trong đó kiểm tra
là giai đoạn cuối cùng, kết thúc một chu trình quản lý. Kiểm tra giúp cho việc
chuẩn bị tích cực cho kỳ kế hoạch tiếp theo. Kiểm tra tốt sẽ đánh giá được sâu
sắc và chuẩn bị trạng thái cuối cùng của hệ thì đến kỳ kế hoạch tiếp theo là việc
soạn thảo kế hoạch năm học mới sẽ thuận lợi, kế thừa mặt mạnh để tiếp tục phát
huy, phát hiện được lệch lạc để uốn nắn, loại trừ”. Tác giả đã kết luận: “Như
vậy, theo lý thuyết Xibecnetic, kiểm tra giữ vai trò liên hệ nghịch trong quá trình
quản lý, nó giúp cho chủ thể quản lý điều khiển tối ưu hệ thống quản lý. Không
có kiểm tra không có quản lý” ([22], 35).
Trong Giáo trình Tâm lý học lãnh đạo, quản lý trong yếu tố tâm lý xã
hội cần phải tính đến khi tổ chức thực hiện quyết định “phải tổ chức kiểm tra
tiến độ thực hiện và chất lượng ra quyết định. Đây là yêu cầu kiểm tra của
công tác lãnh đạo, quản lý, kiểm tra đường lối, chính sách và các quyết định
đã ban hành, không kiểm tra coi như không lãnh đạo chính là khâu này…”
([29], tr196)
Phạm Minh Hùng Đề cương bài giảng Quản lý chất lượng giáo dục
(Nghệ An 2011), Đại học Vinh;
Phan Quốc Lâm Đề cương chi tiết chuyên đề Xã hội học Giáo dục
(2006) Đại học Vinh
Cùng với các đề tài đã được nghiên cứu về hoạt động thanh tra, kiểm
tra chất lượng thuộc lĩnh vực giáo dục đào tạo của các luận văn thạc sĩ ở
trường Đại học Vinh như đề tài của tác giả Lê Minh Tân (2008) Đổi mới công
tác quản lý và sử dụng thiết bị dạy học góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
giáo viên dạy nghề tại trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh; đề tài của
Nguyễn Thị Phương Thảo (2008) Một số giải pháp góp phần nâng cao chất
lượng hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên Khoa học cơ bản ở các
trường THCN & DN trên địa bàn Tỉnh Nghệ An; đề tài của Phạm Văn Quyết
14
(2008) Một số giải pháp nâng cao năng lực giảng dạy thực hành cho đội ngũ
giảng viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh; đề tài Vương Xuân Chấn
(2008) Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng giáo
viên tại các trường trung học phổ thông thị xã Cửa Lò Tỉnh Nghệ An.
Qua nghiên cứu tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề công tác kiểm
tra nội bộ và chất lượng công tác kiểm tra nội bộ, các tác giả trong và ngoài
nước đã quan tâm nghiên cứu về công tác kiểm tra nội bộ và nâng cao chất
lượng công tác kiểm tra nội bộ. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu
về nâng cao chất lượng công tác kiểm tra nội bộ ở trường cao đẳng. Vì thế,
chúng tôi nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng kiểm tra
nội bộ ở trường Cao đẳng Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh”
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Kiểm tra nội bộ
1.2.1.1. Kiểm tra (control)
Kiểm tra là đo đường và chấn chỉnh việc thực hiện nhằm đảm bảo rằng
các mục tiêu và các kế hoạch vạch ra để thực hiện các mục tiêu này đã và
đang được hoàn thành.
Kiểm tra là “xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét” ([28],
tr203), để chỉ hoạt động của chủ thể tác động vào đối tượng kiểm tra (có thể
trực thuộc hoặc không trực thuộc). Tuy nhiên, khái niệm kiểm tra (control) có
thể được hiểu theo 2 nghĩa: Theo nghĩa rộng, để chỉ hoạt động của các tổ chức
xã hội, các đoàn thể và của công dân kiểm tra hoạt động bộ máy của nhà
nước. Theo nghĩa này, tính quyền lực nhà nước trong kiểm tra bị hạn chế vì
các chủ thể thực hiện kiểm tra không có quyền áp dụng trực tiếp những biện
pháp cưỡng chế nhà nước. Theo nghĩa hẹp hơn, kiểm tra là hoạt động của chủ
thể nhằm tiến hành xem xét, xác định một việc gì đó của đối tượng bị quản lý
xem có phù hợp hay không phù hợp với trạng thái đã được định trước (kiểm
15
tra mang tính nội bộ của người đứng đầu cơ quan). Theo nghĩa này, chủ thể
kiểm tra có thể áp dụng một chế tài pháp lý nhất định như áp dụng các hình
thức kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc buộc phải thực hiện một số
biện pháp ngăn chặn hành chính. Ở nghĩa này, khái niệm kiểm tra nằm trong
khái niệm thanh tra “tổ chức Thanh tra là công cụ đắc lực của Đảng, của
chính quyền trong việc kiểm tra sự chấp hành đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật, kế hoạch của Nhà nước” Chỉ thị số 38/CT ngày 20/02/1984
của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác thanh tra.
Xét về chủ thể thì phạm vi chủ thể tiến hành hoạt động kiểm tra đa
dạng hơn thanh tra rất nhiều. Chủ thể tiến hành kiểm tra có thể là Nhà nước
hoặc cũng có thể là một chủ thể phi Nhà nước, chẳng hạn như hoạt động kiểm
tra của một tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (Đảng, Công đoàn,
Mặt trận, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ…), hoạt động kiểm tra trong nội bộ
một doanh nghiệp: kiểm tra của Giám đốc đối với các phòng, ban, kiểm tra
của Quản đốc đối với người lao động. Trên một bình diện rộng hơn nữa, kiểm
tra có thể là sự xem xét thực tế để đánh giá, nhận xét của bất kỳ một cá nhân
nào trong xã hội trong bất cứ một hoạt động nào. Khi con người biết lao động
một cách có ý thức thì đã xuất hiện yêu cầu tất yếu là phải kiểm tra. Ăng ghen
đã nói “mỗi hoạt động có ý thức, có tổ chức của con người đều chứa đựng
trong đó những yếu tố của kiểm tra” và “đối với mỗi con người tự nhiên, mỗi
cộng đồng nguyên thuỷ, kiểm tra được xem như là phương thức hành động để
thực hiện mục đích”. Như vậy, kiểm tra cũng xuất hiện trước thanh tra và xuất
hiện trước khi có sự ra đời của Nhà nước đầu tiên trong lịch sử. Có thể nói,
kiểm tra sẽ tồn tại cùng với loài người. Khi Nhà nước tự tiêu vong, thanh tra
sẽ mất đi như đã nói ở trên, nhưng kiểm tra thì vẫn còn tồn tại cùng với “chức
16
năng quản lý đơn thuần là chăm lo đến lợi ích của xã hội” như Ăng ghen đã
chỉ ra.
Kiểm tra gắn liền với công việc của một tổ chức, một cán bộ, công
chức nhất định và thường theo một số hướng sau: 1- Theo dõi để cho hoạt
động của tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và sự phân công giữa các
đơn vị; 2- Quan sát để đảm bảo rằng nhiệm vụ được giao có đủ điều kiện thực
hiện, phù hợp với thực tế. Hướng dẫn và điều chỉnh kịp thời để đảm bảo hiệu
suất công việc của từng đơn vị; 3- Kiểm tra kết quả cuối cùng, đánh giá hiệu
quả thực tế của các hoạt động theo kế hoạch đặt ra.
Trong quản lý hành chính nhà nước, kiểm tra có mục tiêu là tìm kiếm
động cơ, nguyên nhân cán bộ làm tốt (hay không làm tốt) nhiệm vụ được
giao. Một sự kiểm tra như vậy có thể được thực hiện trong nội bộ của bộ máy
quản lý, nhưng cũng có thể ở ngoài hệ thống đó mà người ta có thể gọi là
kiểm soát ngoại lai.
Ở nước ta, trong các nghị quyết của Đảng, Hiến pháp năm 1980, Hiến
pháp năm 1992 và Hiến pháp 2013 cũng xem thanh tra và kiểm tra như là
những mặt, phương diện của quản lý nhà nước, có chung mục đích đều là
những chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước. Hiến pháp năm
1980, khi đề cập đến nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ, quy định:
“Chính phủ tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê…; công tác thanh tra và
kiểm tra nhà nước; chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước;
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân” (khoản 15 Điều 107).
Thông báo Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII)
chỉ rõ: “tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để mọi thành phần kinh tế
kinh doanh đúng pháp luật”.
17
Như vậy, về cơ bản, thanh tra, kiểm tra và giám sát có nghĩa như nhau,
tính chất như nhau, nhưng khác nhau về chủ thể thực hiện và khác nhau về
phạm vi - tức đối tượng thanh tra, kiểm tra, giám sát.
Tóm lại, kiểm tra là một hoạt động thường xuyên, do tính chất này mà
chúng ta không thể nói là đã có một hệ thống hay cơ chế kiểm tra hữu hiệu
nếu chỉ có những người lãnh đạo tổ chức và những cán bộ, tổ chức chuyên
trách tham gia vào hoạt động kiểm tra. Điều quan trọng là phải thiết lập
được hệ thống tự kiểm tra và trở thành một nề nếp kiểm tra lẫn nhau trong
nội bộ của tổ chức đơn vị, phải có kết hợp giữa hai nhân tố chủ quan (bên
trong) và khách quan (bên ngoài) trong tổ chức kiểm tra. Ví dụ như việc
kiểm tra đánh giá giảng viên không chỉ ở “nhóm giảng viên” gọi là “bên
trong” mà còn phải kết hợp qua “nhóm học sinh, sinh viên”, “nhóm CCVC”
gọi là “bên ngoài” hoặc hai nhân tố khác nhau trong cùng một công việc.
Cũng ví dụ trên giữa hai nhóm giảng viên khác nhau (khoa, trường) được tổ
chức kiểm tra lẫn nhau.
1.2.1.2. Kiểm tra nội bộ trường học, cơ sở giáo dục khác
Kiểm tra nội bộ trường học, cơ sở giáo dục khác (gọi chung là kiểm
tra nội bộ trường học) là hoạt động xem xét, đánh giá các mặt hoạt động
giáo dục và điều kiện dạy - học; đánh giá kết quả, mức độ hoàn thành nhiệm
vụ của các thành viên và bộ phận trong nhà trường; phân tích nguyên nhân
của các ưu điểm, nhược điểm đồng thời đề xuất các biện pháp phát huy ưu
điểm, khắc phục những hạn chế, thiếu sót; nhằm mục đích phát triển sự
nghiệp giáo dục nói chung, phát triển nhà trường, phát triển người giáo viên
và học sinh nói riêng.
Kiểm tra nội bộ trường học, về thực chất gồm hai hoạt động:
- Hiệu trưởng hoặc Thủ trưởng cơ sở giáo dục (gọi chung là Hiệu
trưởng) tiến hành kiểm tra các công việc, kết quả hoạt động và mối quan hệ
18
của các thành viên, bộ phận; xem xét những điều kiện, phương tiện bảo đảm
cho việc phục vụ dạy học và giáo dục trong nhà trường.
- Việc tự kiểm tra của các cá nhân, đơn vị trong cơ sở giáo dục và công
tác tự kiểm tra của hiệu trưởng trường học. ([20] tr 01),
Phân biệt giữa thanh tra và kiểm tra:
Có thể nói giữa hoạt động thanh tra và kiểm tra có mối quan hệ chặt
chẽ, gần gũi và có nhiều điểm giao thao nhau. Bởi vì kiểm tra và thanh ra đều
là những công cụ quan trọng, một chức năng chung của quản lý nhà nước, là
hoạt động mang tính chất phản hồi của “chu trình quản lý”. Qua kiểm tra,
thanh tra, các cơ quan quản lý nhà nước có thể phân tích đánh theo dõi quá
trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý đề ra. Đây là mối quan hệ đan
chéo nhau. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì thanh tra là một loại hình đặc biệt
của kiểm tra, ngược lại nếu hiểu theo nghĩa hẹp, thanh tra lại bao hàm cả kiểm
tra. Các hoạt động thao tác nghiệp vụ trong một cuộc thanh tra như việc kiểm
tra sổ sách, tài liệu của đối tượng thanh tra; so sánh đối chiếu, đánh giá tài
liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình thanh tra…đó là kiểm tra. Chính
vì vậy trong thực tiễn, nhiều người trong đó có cả một số doanh nghiệp
thường hay nhầm lẫn, đồng nhất kiểm tra với thanh tra. Tuy nhiên với tư cách
là một hoạt động độc lập, kiểm tra có nhiều điểm khác biệt với thanh tra:
- Một là về chủ thể tiến hành: Giữa kiểm tra và thanh tra có một mảng giao
thoa về chủ thể, đó là Nhà nước. Nhà nước tiến hành cả hoạt động thanh tra
và kiểm tra. Tuy nhiên, chủ thể của kiểm tra rộng hơn của thanh tra rất nhiều.
Trong khi chủ thể tiến hành thanh tra phải là Nhà nước, thì chủ thể tiến hành
kiểm tra có thể là Nhà nước hoặc có thể là chủ thể phi nhà nước, chẳng hạn
như hoạt động kiểm tra của một tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội
(Đảng, Công đoàn, Mặt trận, Đoàn thanh niên ), hay như hoạt động kiểm tra
trong nội bộ một doanh nghiệp.
19
- Hai là về mục đích thực hiện: Mục đích của thanh tra bao giờ cũng
rộng hơn, sâu hơn đối với các hoạt động kiểm tra. Đặc biệt, đối với các cuộc
thanh tra để giải quyết khiếu nại, tố cáo thì sự khác biệt về mục đích, ý nghĩa
giữa hoạt động thanh tra và kiểm tra càng rõ hơn nhiều, bởi: thông thường
khiếu nại, tố cáo phản ánh sự bức xúc, bất bình của nhân dân trước những
việc mà nhân dân cho là quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm cho
nên mục đích của hoạt động thanh tra không còn chỉ là xem xét, đánh giá một
cách bình thường nữa.
- Ba là về phương pháp tiến hành: Với mục đích rõ ràng hơn, rộng hơn,
khi tiến hành thanh tra, Đoàn thanh tra cũng áp dụng những biện pháp nghiệp
vụ sâu hơn, đi vào thực chất đến tận cùng của vấn đề như: xác minh, thu thập
chứng cứ, đối thoại, chất vấn, giám định Đặc biệt, quá trình thanh tra các
Đoàn thanh tra còn có thể áp dụng những biện pháp cần thiết để phục vụ
thanh tra theo quy định của pháp luật về thanh tra để tác động lên đối tượng bị
quản lý.
- Bốn là về trình độ nghiệp vụ: Hoạt động thanh tra đòi hỏi thanh tra
viên phải có nghiệp vụ giỏi, am hiểu về kinh tế - xã hội, có khả năng chuyên
sâu vào lĩnh vực thanh tra hướng đến. Do nội dung hoạt động kiểm tra ít phức
tạp hơn thanh tra và chủ thể của kiểm tra bao gồm lực lượng rộng lớn có tính
quần chúng phổ biến nên nói chung, trình độ nghiệp vụ kiểm tra không nhất
thiết đòi hỏi như nghiệp vụ thanh tra.
- Năm là về phạm vi hoạt động: Phạm vi hoạt động kiểm tra thường
theo bề rộng, diễn ra liên tục, ở khắp nơi với nhiều hình thức phong phú,
mang tính quần chúng. Phạm vi hoạt động thanh tra thường hẹp hơn hoạt
động kiểm tra.
20
- Sáu là về thời gian tiến hành: Trong hoạt động thanh tra thường có
nhiều vấn đề phải xác minh, đối chiếu rất công phu, nhiều mối quan hệ cần
được làm rõ, cho nên phải sử dụng thời gian nhiều hơn so với kiểm tra.
Thanh tra và kiểm tra tuy có sự phân biệt nhưng chỉ là tương đối. Khi tiến
hành cuộc thanh tra, thường phải tiến hành nhiều thao tác nghiệp vụ đó thực
chất là kiểm tra. Ngược lại, đôi khi tiến hành kiểm tra để làm rõ vụ việc, lại
lựa chọn được nội dung thanh tra. Kiểm tra và thanh tra là hai khái niệm khác
nhau nhưng có liên hệ qua lại, gắn bó. Do vậy, khi nói đến một khái niệm
người ta thường nhắc đến cả cặp với tên gọi là thanh tra, kiểm tra hay kiểm
tra, thanh tra.
1.2.2. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra nội bộ
1.2.2.1. Chất lượng (Quality)
"Chất lượng" là một phạm trù phức tạp và có nhiều định nghĩa khác
nhau. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng. Hiện nay có một số
định nghĩa về chất lượng đã được các chuyên gia chất lượng đưa ra như sau:
- Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng, chất lượng là “cái làm nên
phẩm chất, giá trị của sự vật hoặc là cái tạo nên bản chất của sự vật, làm cho
sự vật này khác với sự vật kia”.
- Theo tiêu chuẩn Pháp -NFX 50-109, chất lượng là “tiềm năng của
một sản phẩm hay dịch vụ nhằm hỏa mản nhu cầu người sử dụng”.
- Theo Oxford Pocket Dictionary, chất lượng là “mức hoàn thiện, là
đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt đối, dấu hiệu đặc thù, các dữ kiện, các
thông số cơ bản”
- Theo Harvey và Green (1993), chất lượng được định nghĩa như tập
hợp các thuộc tính khác nhau:
+ Chất lượng là sự xuất sắc (quality as excellence)