Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh đầu đen do đơn bào Histomonas meleagridis gây ra trên gà nuôi tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang và sử dụng thuốc điều trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.86 KB, 61 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM


HỒ THỊ AN

TÊN ĐỀ TÀI
:
“NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH ĐẦU ĐEN DO
ĐƠN BÀO HISTOMONAS MELEAGRIDIS GÂY RA TRÊN
GÀ NUÔI TẠI HUYỆN LỤC NGẠN, TỈNH BẮC GIANG VÀ
SỬ DỤNG THUỐC ĐIỀU TRỊ”


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Thú y
Khoa : Chăn nuôi thú y
Khóa học : 2009 - 2014
Giảng viên hướng dẫn : ThS. Phạm Diệu Thùy




Thái Nguyên, tháng 11 năm 2013

54

LỜI CẢM ƠN



Được sự đồng ý của Ban giám hiệu Nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa
Chăn nuôi thú y, Cô giáo hướng dẫn và sự nhất trí của Trạm thú y huyện Lục
Ngạn tỉnh Bắc Giang, em thực hiện nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc
điểm dịch tễ bệnh đầu đen do đơn bào Histomonas meleagridis gây ra
trên gà nuôi tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang và sử dụng thuốc
điều trị”
Trong thời gian thực tập và thực hiện đề tài này, nhờ sự nỗ lực của bản
thân và được sự quan tâm, chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các quí
thầy cô giáo, bạn bè; sự động viên khích lệ của gia đình để em hoàn thành luận
văn này.
Nhân dịp này em xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu Nhà trường,
khoa Chăn nuôi thú y trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, Trạm thú y
huyện Lục Ngạn đã tạo điều kiện thuận lợi giúp em hoàn thành khóa luận tốt
nghiệp này. Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn
Th.S Phạm Diệu Thùy đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo giúp đỡ em trong suốt
quá trình thực hiện đề tài.
Đồng thời em cũng xin trân trọng cảm ơn GS.TS. Nguyễn Thị Kim
Lan, Th.S Trương Thị Tính đã đóng góp ý kiến quí báu và giúp đỡ nhiệt
tình để em hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của mình.
Một lần nữa, em xin kính chúc toàn thể thầy, cô giáo trong khoa Chăn
nuôi thú y sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc cán bộ, nhân viên Trạm
thú y huyện Lục Ngạn công tác tốt, chúc các bạn sinh viên mạnh khỏe, học
tập tốt, thành công trong cuộc sống.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2013
Sinh viên


Hồ Thị An


55
LỜI NÓI ĐẦU

Thực tập tốt nghiệp là một phần quan trọng trong chương trình đào tạo
của Nhà trường, là thời gian giúp sinh viên tiếp cận trực tiếp với thực tiễn
sản xuất, hệ thống lại kiến thức, củng cố tay nghề, học hỏi kinh nghiệm, nắm
vững phương pháp nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản
xuất. Đồng thời, tạo cho mình sự tự lập, tự tin vào bản thân, lòng yêu nghề,
có phong cách làm việc đúng đắn, có lối sống lành mạnh để trở thành người
cán bộ có chuyên môn và năng lực làm việc để đáp ứng nhu cầu của thực
tiễn sản xuất.
Được sự đông ý của Trạm thú y huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang và
Cô giáo hướng dẫn, em được về thực tập tại trạm thú y từ ngày 03/06/2013
đến ngày 18/11/2013 thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh
đầu đen do đơn bào Histomonas meleagridis gây ra trên gà nuôi tại huyện
Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang và sử dụng thuốc điều trị”.
Trong thời gian thực tập, được sự giúp đỡ tận tình của ban lãnh đạo
Trạm thú y huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang cùng tập thể cán bộ công nhân
viên, sự hướng dẫn tận tình của thầy, cô giáo cùng với sự cố gắng nỗ lực của
bản thân, em đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Nhưng do thời gian có hạn, kinh nghiệm trong thực tiễn sản xuất còn
thiếu, kiến thức còn hạn hẹp nên khóa luận của em không tránh khỏi những
thiếu sót. Em rất mong được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến quý báu của thầy cô
giáo và các bạn để khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2013
Sinh viên



Hồ Thị An


56
DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 4.1: Thực trạng phòng chống dịch bệnh cho gà tại huyện Lục Ngạn 31
Bảng 4.2: Tỷ lệ nhiễm đơn bào H. meleagridis ở gà theo địa phương 33
Bảng 4.3: Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo tuổi 34
Bảng 4.4: Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo phương thức chăn nuôi 36
Bảng 4.5: Tỷ lệ nhiễm đơn bào H. meleagridis ở gà theo kiểu nền chuồng
nuôi gà 37
Bảng 4.6: Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo tình trạng vệ sinh thú y 38
Bảng 4.7: Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun kim ở gà mổ khám 39
Bảng 4.8: Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis trong số gà nhiễm giun kim 41
Bảng 4.9: Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis trong số gà không nhiễm giun kim 41
Bảng 4.10: Sự ô nhiễm trứng giun kim ở nền chuồng, xung quanh chuồng và
vườn chăn thả gà 43
Bảng 4.11: Thử nghiệm 3 phác đồ điều trị bệnh đầu đen 45



57
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT

cs : cộng sự
HE : Hematoxilin - Eosin
H. meleagridis : Histomonas meleagridis
H. gallinarum : Heterakis gallinarum

H. venrichi : Histomonas venrichi
KCTG : ký chủ trung gian
VSTY : vệ sinh thú y


58
MỤC LỤC

Trang
Phần 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu của đề tài 2
1.3. Mục đích nghiên cứu 2
1.4. Ý nghĩa của đề tài 3
Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 4
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4
2.1.1. Đặc điểm của đơn bào Histomonas meleagridis ký sinh ở gia cầm 4
2.1.1.1. Vị trí của đơn bào Histomonas meleagridis trong hệ thống động vật
nguyên sinh 4
2.1.1.2. Hình thái học loài Histomonas meleagridis 4
2.1.1.3. Vòng đời Histomonas meleagridis 6
2.1.2. Đặc điểm sinh học của giun tròn Heterakis gallinarum - Ký chủ trung gian
(KCTG) của H. meleagridis 9
2.1.2.1. Hình thái 9
2.1.2.2. Vòng đời 9
2.1.3. Vài nét về bệnh đầu đen (Histomonosis) ở gà 10
2.1.3.1. Lịch sử bệnh 10
2.1.3.2. Dịch tễ học bệnh đầu đen (Histomonosis) ở gia cầm 11
2.1.2.3. Cơ chế sinh bệnh 13
2.1.3.4. Triệu chứng và bệnh tích bệnh đầu đen trên gà 14

2.1.3.5. Chẩn đoán bệnh 15
2.1.4. Biện pháp phòng và điều trị bệnh 18
2.1.4.1. Phòng bệnh 18
2.1.4.2. Trị bệnh 20
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 20
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 21
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 21

59
Phần 3: ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 23
3.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu 23
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 23
3.1.2. Vật liệu nghiên cứu 23
3.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu 23
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu 23
3.2.2. Thời gian nghiên cứu 24
3.3. Nội dung nghiên cứu 24
3.3.1. Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh đầu đen ở gà tại huyện Lục Ngạn, tỉnh
Bắc Giang 24
3.3.1.1. Thực trạng công tác phòng chống dịch bệnh cho gà ở huyện Lục Ngạn,
tỉnh Bắc Giang 24
3.3.1.2. Nghiên cứu tình hình nhiễm H. meleagridis ở gà qua mổ khám 24
3.3.1.3. Nghiên cứu sự liên quan giữa bệnh đầu đen và bệnh giun kim
ở gà 24
3.3.2. Nghiên cứu phác đồ điều trị bệnh đầu đen cho gà 24
3.4. Phương pháp nghiên cứu 24
3.4.1. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh đầu đen do H. meleagridis
gây nên ở gà nuôi tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang 24
3.4.1.1. Phương pháp điều tra công tác phòng chống dịch bệnh cho gà nuôi tại

huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang 24
3.4.1.2. Bố trí thu thập gà để mổ khám và phương pháp xác định tỷ lệ nhiễm
H. meleagridis ở gà nuôi tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang 25
3.4.1.3. Phương pháp nghiên cứu sự liên quan giữa bệnh đầu đen và bệnh giun
kim ở gà 28
3.4.2. Phương pháp nghiên cứu biện pháp phòng trị bệnh đầu đen cho gà tại huyện
Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang 29
3.4.2.1. Xác định hiệu lực và độ an toàn của thuốc điều trị bệnh đầu đen
cho gà 29
3.4.2.2. Đề xuất biện pháp phòng bệnh đầu đen cho gà 30
3.5. Phương pháp xử lý số liệu 30

60
Phần 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 31
4.1. Đặc điểm dịch tễ bệnh đầu đen do đơn bào Histomonas meleagridis gây
ra ở gà tại huyện Lục Ngạn, Bắc Giang 31
4.1.1. Kết quả điều tra thực trạng phòng chống dịch bệnh cho gà tại huyện Lục
Ngạn, tỉnh Bắc Giang 31
4.1.2. Tình hình nhiễm H. meleagridis gây ra ở gà tại huyện Lục Ngạn 33
4.1.2.1. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo địa phương 33
4.1.2.2. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis theo tuổi gà 34
4.1.2.3. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis theo phương thức chăn nuôi gà 36
4.1.2.4. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis theo kiểu nền chuồng nuôi gà 37
4.1.2.5. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo tình trạng vệ sinh thú y ……38
4.1.3. Nghiên cứu sự liên quan giữa bệnh đầu đen và bệnh giun kim ở gà 39
4.1.3.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun kim ở gà mổ khám 39
4.1.3.2. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis trong số gà nhiễm giun kim 40
4.1.3.3. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis trong số gà không nhiễm giun kim 41
4.1.3.4. Sự ô nhiễm trứng giun kim ở nền chuồng, xung quanh chuồng và
vườn chăn thả gà 42

4.2. Nghiên cứu hiệu quả của 3 phác đồ điều trị bệnh đầu đen cho gà trên
thực địa 44
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 49
5.1. Kết luận 49
5.2. Đề nghị 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO 51
I. Tài liệu tiếng Việt 51
II. Tài liệu tiếng Anh 51



1
Phần 1
MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh
tế ở nước ta, trong vòng 10 năm trở lại đây, ngành chăn nuôi nước ta đã
không ngừng phát triển với tốc độ cao, đạt 7 - 8 %/năm. Theo số liệu của
Tổng Cục thống kê, tổng đàn gia cầm tại thời điểm 01/4/2013 là 314,4 triệu
con, tăng 1,2% so với năm 2012. Ở Việt Nam thịt gà chiếm tỷ lệ 50% tổng số
thịt tiêu thụ bình quân đầu người trên năm, ngoài ra thịt gà còn là một trong
những thực phẩm xuất khẩu ra thế giới.
Với mục tiêu đến năm 2020, thu nhập bình quân đầu người đạt 36
triệu/năm, tỷ trọng ngành Nông - Lâm - Thuỷ sản chiếm 41,0%, huyện Lục
Ngạn đã coi chăn nuôi là một trong tám chương trình phát triển kinh tế - xã
hội. Trong đó chăn nuôi gia cầm trên địa bàn huyện ngày càng được chú trọng
với các giống gà địa phương là nguồn gen rất quý trong việc thực hiện các
công thức lai kinh tế có hiệu quả cao trong thời gian trước mắt, đồng thời
chuẩn bị nguyên liệu di truyền cho việc tạo ra các giống gia cầm mang thương

hiệu Việt Nam trong tương lai.
Cùng với việc tăng tổng số lượng đàn gia cầm, ngành chăn nuôi gia
cầm của huyện đang từng bước hiện đại hóa công nghệ chăn nuôi và chế biến
sản phẩm để sớm trở thành một trong những nghề có tốc độ phát triển nhanh
trong lĩnh vực nông nghiệp. Hiện nay với những tiến bộ khoa học kỹ thuật,
thức ăn gia súc, gia cầm, các nhà sản xuất đã tạo ra những loại thức ăn có chất
lượng ngày càng cao. Cùng với những thuận lợi có được hiện nay về các
giống gia cầm cao sản, tiêu tốn thức ăn thấp, đem lại hiệu quả kinh tế cao
trong ngành chăn nuôi. Tất cả những ưu thế trên sẽ là tiềm lực để ngành phát
triển mạnh mẽ trong tương lai, nhưng bên cạnh đó ngành chăn nuôi còn phải
đối mặt với rất nhiều khó khăn khác như: giá sản phẩm, đầu ra và đặc biệt là
dịch bệnh thường xuyên xảy ra. Trong đó dịch bệnh luôn là mối nguy hiểm
gây tổn thất lớn về kinh tế cho ngành chăn nuôi nói chung và ngành chăn nuôi
gà nói riêng.

2
Là một nước nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới, Việt Nam có thảm
thực vật và hệ động vật phong phú, đa dạng, thích hợp cho nhiều loài ký sinh
trùng phát triển, ký sinh và gây bệnh. Trong các bệnh ký sinh trùng ở gà, có
những bệnh do nhóm đơn bào ký sinh gây ra, chúng chiếm đoạt chất dinh
dưỡng, tiết độc tố, gây ra những biến đổi bệnh lý làm cho gà gầy yếu, chậm
lớn, giảm mạnh sức sản xuất thịt, trứng. Đặc biệt, một số bệnh đơn bào cũng
gây ra các “ổ dịch cấp tính”, làm cho gà chết nhanh với tỷ lệ cao không kém
các bệnh truyền nhiễm, trong đó có bệnh đầu đen do đơn bào Histomonas
meleagridis gây ra ở gà. Bệnh thường xuất hiện không chỉ ở các trang trại
chăn nuôi tập trung với quy mô lớn mà còn diễn ra trong các nông hộ chăn
nuôi gia cầm nhỏ lẻ với mức độ nghiêm trọng gây tổn thất về kinh tế, môi
trường và gây hoang mang cho người chăn nuôi.
Để góp phần làm rõ hơn về căn bệnh này cũng như xác định các đặc
điểm dịch tễ của bệnh và tìm ra phương pháp điều trị bệnh hiệu quả, tiến tới

phổ biến kiến thức tới người chăn nuôi giúp người chăn nuôi có thể chủ động
hơn trong việc phòng và điều trị bệnh. Hạn chế tối đa thiệt hại của bệnh gây
ra cho đàn gà nuôi tại huyện Lục Ngạn nói riêng và các khu vực chăn nuôi gà
trong nước nói chung, em tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm
dịch tễ bệnh đầu đen do đơn bào Histomonas meleagridis gây ra trên gà
nuôi tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang và sử dụng thuốc điều trị”.
1.2. Mục tiêu của đề tài
- Nghiên cứu để có những thông tin khoa học về đặc điểm dịch tễ
do Histomonas meleagridis gây ra trên đàn gà nuôi tại huyện Lục Ngạn,
tỉnh Bắc Giang.
- Xây dựng phác đồ điều trị bệnh hiệu quả nhất.
1.3. Mục đích nghiên cứu
Nắm bắt và làm sáng tỏ được đặc điểm dịch tễ bệnh đầu đen do đơn
bào Histomonas meleagridis gây ra trên đàn gà. Dùng một số phác đồ điều trị
bệnh để thử hiệu quả, độ an toàn của thuốc từ đó có cơ sở khoa học để đề xuất
biện pháp phòng bệnh hiệu quả và đưa ra phác đồ trị bệnh hiệu quả nhất.

3
1.4. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
Kết quả đề tài là những thông tin khoa học về đặc điểm dịch tễ và thuốc
điều trị bệnh đầu đen ở gà.
* Ý nghĩa thực tiễn.
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo người chăn nuôi áp
dụng quy trình phòng, trị bệnh đầu đen cho gà nhằm hạn chế tỷ lệ nhiễm và
thiệt hại do bệnh đầu đen gây ra; góp phần nâng cao năng suất chăn nuôi, thúc
đẩy ngành chăn nuôi gà phát triển.























4
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Bệnh đầu đen (Histomonosis) là một bệnh của các loài gia cầm, đặc biệt
là gà và gà tây. Bệnh do một loại ký sinh trùng đơn bào có tên khoa học là
Histomonas meleagridis gây ra.
Bệnh do Histomonas meleagridis ký sinh ở gan, dạ dày và ruột thừa
(manh tràng) của gà gây hoại tử, xuất huyết niêm mạc manh tràng, rối loạn
chức năng gan và chết với tỷ lệ cao.

2.1.1. Đặc điểm của đơn bào Histomonas meleagridis ký sinh ở gia cầm
2.1.1.1. Vị trí của đơn bào Histomonas meleagridis trong hệ thống động vật
nguyên sinh

Trong mô tả đầu tiên của Smith (1895) [31], H. meleagridis được biết
đến là amip.
Tuy nhiên, những năm sau đó việc phân loại Histomonas meleagridis
đã liên tục thay đổi.
Gần đây, căn cứ vào kết quả phân tích trình tự gen, Cepicka và cs
(2010) [14] đã cho biết vị trí phân loại của H. meleagridis như sau:
Bảng phân loại
Giới:
Protozoen
Ngành: Parabasalia
Lớp: Tritrichomonadea
Bộ: Tritrichomonadida
Họ: Dientamoebidae
Giống: Histomonas
Loài: Histomonas meleagridis
2.1.1.2. Hình thái học loài Histomonas meleagridis
Histomonas meleagridis là một loại đơn bào đa hình thái: Hình thái của
chúng biến đổi tùy thuộc vào các giai đoạn phát triển và chủ yếu chúng tồn tại
ở hai dạng chính là dạng hình cầu, hình trứng hay dạng gần tròn bên trong có
nhân dạng gần giống như những bọc nước, ở phần ngoài có từ 1 - 4 roi kích

5
thước biến đổi từ 5 - 20 µm, (Phạm Sĩ Lăng và cs 2006 [4]). Cụ thể hình dạng
của Histomonas meleagridis biến đổi theo các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Khi Histomonas meleagridis tồn tại ở dạng tiềm tàng, ít hoạt
động, trong trứng của giun kim (Heterakis) thì Histomonas meleagridis có hình

cầu hoặc hình trứng.


Giai đoạn 2: Khi Histomonas meleagridis xâm nhập vào cơ thể gà và
chuyển sang giai đoạn xâm lấn tới các khu vực ngoại vi thì cơ thể của chúng
bắt đầu chuyển dần từ dạng hình cầu sang dạng hình gần tròn có kích thước
8 - 17µm. Các đơn bào Histomonas meleagridis bắt đầu mọc thêm các roi hút
ở đầu khi đó cơ thể của H.meliagridis chia làm hai phần đó là phần roi dài 6 -
11µm và phần nhân tế bào là một nhân có đường kính 1,7 - 2,2µm. Nhờ có roi
hút và nguồn dinh dưỡng dồi dào là máu gà nên số lượng Histomonas
meleagridis được nhân lên nhanh chóng.
Giai đoạn 3: Khi gà mắc bệnh ở giai đoạn cuối mất nhiều máu số lượng
hồng cầu giảm dẫn tới dinh dưỡng của H.meliagridis bị thiếu nghiêm trọng
làm chúng phải tìm các vị trí ký sinh mới như khu vực phần đầu. Tại đây
chúng gây chết các tế bào xung quanh khu vực hay chúng sẽ tìm vật chủ ký
sinh mới phù hợp có sẵn trong cơ thể gà là Giun kim (Heterakis gallirum)
đồng thời một số Histomonas meleagridis bị cơ thể bài tiết ra ngoài theo
phân. Vì vậy, để có thể thích hợp với những điều kiện mới này thì bắt buộc
các đơn bào Histomonas meleagridis phải trải qua hình thức suy thái mới đó
là chuyển từ dạng hoạt động sang dạng tồn tại tiềm ẩn hay cụ thể là từ dạng
hình gần tròn có roi sang dạng hình cầu, hình trứng.
Histomonas meleagridis có thể nuôi cấy nhân tạo ở môi trường, yếm khí.
Nghiên cứu về cấu tạo của đơn bào H. meleagridis, các nhà khoa học
đã cho biết, theo thứ tự từ ngoài vào trong đơn bào H. meleagridis cấu tạo
gồm 3 phần: màng, tế bào chất và nhân.
Màng đơn bào H. meleagridis là một màng đơn.
Tế bào chất H. meleagridis chứa ß-glycogen, ribosome và RNA (Lee
và cs, 1969), một số không bào và hạt nhân (Schuster, 1968). Nhân hình trứng
hoặc hình chữ U, bao gồm một nucleolus. Màng nhân là một màng kép
(Schuster, 1968; Lee và cs, 1969). Trong vùng lân cận của nhân là bộ máy

Golgi hoặc một phần theo chiều dọc của microtubule (Schuster, 1968).

6
Một số tác giả cho rằng H. meleagridis là sinh vật kỵ khí vì thiếu ty thể.
Lưới nội chất đã bị thoái hóa.
2.1.1.3. Vòng đời Histomonas meleagridis
H. meleagridis sinh sản bằng hình thức phân đôi (trực phân).

H. meleagridis lây truyền bằng 2 con đường: lây nhiễm trực tiếp và lây
nhiễm gián tiếp qua giun kim.
* Truyền bệnh trực tiếp
Trong báo cáo ban đầu của Smith (1895) [31], sự lây truyền trực tiếp
bệnh đầu đen đã được chứng minh qua thí nghiệm cho gà khỏe uống
H. meleagridis. Theo quan điểm của Smith và Moore (1986) cũng thí nghiệm
cho gà tây khỏe ăn phân và các cơ quan bị tổn thương của gà bệnh, sau đó
theo dõi và nhận thấy gà tây khỏe cũng bị nhiễm bệnh. Curtice (1907) [16]
cũng làm các thí nghiệm gây nhiễm H. meleagridis cho gà khỏe theo cách
tương tự. Tuy nhiên, các tác giả đều kết luận có thể gây nhiễm bệnh đầu đen ở
gà và gà tây qua đường ăn, uống nhưng tỷ lệ nhiễm không cao.
Năm 1922, Tyzzer và Fabyan lấy gan của gà bị bệnh nặng nghiền nhỏ
cho gà và vịt được 4, 6, 16 ngày tuổi ăn. Sau đó, ông tiếp tục gây nhiễm bệnh
đầu đen trên một số gà 5 ngày tuổi bằng cách cho ăn gan nhiễm bệnh. Sau
hàng loạt thí nghiệm, Tyzzer (1926) [33] đã kết luận rằng H. meleagridis có
thể được truyền đến một mức độ nào đó trong tự nhiên bằng cách ăn, uống
các cơ quan của gà bệnh có chứa mầm bệnh.
Lund E. E. (1960) [26] đã gây bệnh bằng đường miệng cho 109 gà ở
6 - 9 tuần tuổi, mỗi gà nuốt 10.000 - 50.000 H. meleagridis. Kết quả chỉ có 1
gà tử vong trong số 2 gà bị mắc bệnh do gây nhiễm. Mổ khám thấy gan và
manh tràng bị tổn thương.
Horton - Smith và Long (1956) [22] cũng làm nhiều thí nghiệm gây

nhiễm bằng cách cho gà khỏe nuốt trực tiếp gan và huyễn dịch trong manh
tràng của gà bệnh nặng ở các thời gian đói khác nhau, phát hiện thấy những
gà khỏe nhiễm bệnh với tỷ lệ khác nhau. Tác giả đã giải thích sở dĩ gây
nhiễm bệnh cho gà khỏe qua đường tiêu hóa thu được tỷ lệ nhiễm thấp là do
H. meleagridis không phù hợp với môi trường pH thấp của đường tiêu hóa.

7
Mc Dougald L. R. (2003) [27] đã làm thí nghiệm gây nhiễm bệnh cho
gà 2 tuần tuổi. Ông tiến hành đưa vào lỗ huyệt mỗi gà đơn bào H. meleagridis
nuôi cấy với liều 200.000 H. meleagridis/con. Kết quả, tất cả gà gây nhiễm đã
chết ở ngày 10 - 18, tiến hành mổ khám gà chết thấy gan và manh tràng xuất
hiện tổn thương điển hình của histomonosis.

Một số tác giả cũng tiến hành gây nhiễm bệnh qua lỗ huyệt cho gà ở
các lứa tuổi khác nhau với các liều khác nhau, sau đó tiến hành theo dõi trong
10 - 15 ngày những gà gây nhiễm. Các tác giả cũng thu được những kết quả
nhất định.
Hu và cs (2004) [23] tiến hành gây nhiễm H. meleagridis qua lỗ huyệt
cho gà 2 tuần tuổi, liều 100 000 tế bào / con. Theo dõi trong 12 ngày thấy
không có gà nào bị chết, tiến hành mổ khám, thấy gan và manh tràng bị tổn
thương nặng.
Tỷ lệ tử vong bởi bệnh đầu đen ở gà lên đến 80% đã được báo cáo bởi
Landman và cs (2003) [24] sau khi tác giả gây nhiễm bệnh cho gà tây ở 15 ngày
tuổi với lượng 200.000 H. meleagridis / con.
Trong chăn nuôi bệnh lây lan chủ yếu do gà khỏe ăn phải thức ăn hoặc
nước uống phải nước có chứa Histomonas meleagridis. Đã có rất nhiều
nghiên cứu chứng minh được rằng người ta không thấy giun kim (Heterakis
gallinae), giun đất đóng vai trò như một vật trung gian môi giới truyền bệnh
trong một số trường hợp bệnh. Đặc biệt là trứng của giun này thải ra từ gà
bệnh có mang mầm bệnh nhưng trứng của gà bệnh lại không mang mầm

bệnh (Phạm Sĩ Lăng và cs 2006 [4]).
Các kết quả trên, cho thấy: có thể gây nhiễm bệnh đầu đen cho gà khỏe
bằng 2 đường, qua đường miệng và qua lỗ huyệt. Do ảnh hưởng của axit
đường tiêu hóa nên tỷ lệ nhiễm bệnh không cao khi gây nhiễm qua đường
miệng. Bệnh đầu đen có thể xảy ra bất cứ khi nào lỗ huyệt của gà khỏe tiếp
xúc với phân tươi bị nhiễm mầm bệnh. Ngay sau khi tiếp xúc với phân tươi
của gà bệnh, H. meleagridis sẽ di chuyển ngược theo nhu động ruột vào ký
sinh ở manh tràng.

8
* Truyền bệnh qua giun kim
Trong khi nghiên cứu về bệnh đầu đen, Cushman và cs (1894) [15] đã
nhận thấy, gà và gà tây bị nhiễm bệnh khi chúng được nuôi trên khu vực mà
trước đó gà và gà tây đã bị mắc bệnh.
Trong thí nghiệm đầu tiên, Curtice C. (1907) [16] đã chứng minh rằng
Histomonas không lây truyền theo chiều dọc từ gà mái đẻ, thông qua trứng,
mặc dù phát hiện gà con sớm bị mắc Histomonosis và chết ở 12 - 14 ngày
tuổi. Tác giả cho rằng, những gà con này đã bị nhiễm bệnh do được nuôi
trong khu đất, nơi mà đàn gà nuôi trước đó đã bị mắc bệnh.
Graybill (1920) là người đầu tiên nhận ra một mối quan hệ giữa
Heterakis và Histomonas, khi ông cho chim ăn trứng Heterakis mà phôi nghi
là có H. meleagridis.
Sau này, Tyzzer và cs (1926) [33] đã chứng minh rằng H. meleagridis có
thể được truyền từ gia cầm này sang gia cầm khác thông qua một loại giun tròn
ký sinh ở manh tràng (Heterakis gallinarum). Theo tác giả giun kim chính là
tác nhân làm dịch bệnh đầu đen phát triển. Đây là một phát hiện quan trọng vì
đã xác định được vật chủ trung gian truyền bệnh, từ đó có những khuyến cáo
để ngăn ngừa bệnh đầu đen.
Tyzzer E. E, (1926) [33] cho biết, gà tây có thể nhiễm bệnh khi nuôi
nhốt chung với gà bị bệnh hoặc nuôi trên khu đất đã có gà bị bệnh.

Sau đó, Tyzzer E. E. (1934) [34] đã xác định mối quan hệ giữa
Histomonas và Heterakis, chỉ trứng Heterakis có phôi mới có thể làm lây bệnh.
Gibbs B. J. (1962) đã tìm thấy H. meleagridis trong đường sinh dục và
trứng của Heterakis dưới kính hiển vi quang học. H. meleagridis đã được tìm
thấy trong tất cả các bộ phận ở sinh sản của Heterakid cái và giữa các tinh trùng
của giun đực.
Hàng loạt những nghiên cứu của Lund E. E. (1960) [26] đã chỉ ra rằng
trứng Heterakis có sức đề kháng tốt với môi trường, ở ngoài môi trường đất
có thể tồn tại nhiều năm, khi nở vẫn có thể gây ra Histomonosis. Đây là
nguyên nhân làm dịch bệnh đầu đen phát triển từ năm này sang năm khác.
Một số nhà nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng thuyết phục về hình
thái học của H. meleagridis trong đường sinh sản và trứng của Heterakis dưới

9
kính hiển vi quang học. Tác giả đã tìm thấy H. meleagridis ở cả giun Heterakis
đực và cái. Trong Heterakids đực, H. meleagridis ở trong lòng ruột, xâm nhập các
tế bào ruột, và trong ống sinh tinh của tinh hoàn, ống dẫn tinh và túi tinh, H.
meleagridis xác định trong tất cả các bộ phận ở đường sinh dục của Heterakis cái.
2.1.2. Đặc điểm sinh học của giun tròn Heterakis gallinarum - Ký chủ
trung gian (KCTG) của H. meleagridis
2.1.2.1. Hình thái
Phạm Văn Khuê - Phan Lục (1996) [2], hai loài Heterakids gallinae và
Heterakids beramporia thuộc họ Heterakiadae ký sinh ở manh tràng, có khi ở
ruột non ở gà, gà Tây, rất phổ biến ở loài chim và còn thấy ở các loài thủy cầm.
Giun màu vàng nhạt, đầu có 3 môi (1 môi ở lưng và 2 môi ở bụng), túi miệng
hình ống. Phần sau thực quản phình to thành hình cầu giống như củ hành, chiều
dài 0,27 - 0,33 mm, rộng 0,15 - 0,24 mm. Giun đực dài 5,841 - 11,145 mm, chỗ
rộng nhất 0,271 - 0,398 mm. Đuôi nhọn hình chiếc kim. Phía trước cách hậu
môn 0,148 - 0,156 mm có một giác hút hơi tròn, đường kính 0,07 - 0,082 mm.
Có gai chồi xếp thành từng đôi ở hai bên giác hút và ở vòng sau. Có hai gai

giao hợp, gai phải dài gấp 3 lần gai trái, phía cuối gai rất nhọn, dài khoảng 2
mm, gai trái thì to, dài 0,65 - 0,7 mm. Lỗ bài tiết ở gần đầu về mặt bụng, cách
đầu khoảng 0,245 mm.
Giun cái dài 7,982 - 11,439 mm, chỗ rộng nhất 0,27 - 0,453 mm, chiều
dài thực quản bằng 1/9 cơ thể. Chỗ phình to của thực quản hình củ hành dài
0,273 - 0,332 mm, rộng 0,187 - 0,234 mm. Hậu môn ở gần đuôi, cách đuôi
0,9 - 1,24 mm. Âm đạo uốn khúc cong, bắt đầu từ âm hộ rồi vòng về phía sau,
sau đó chuyển về phía trước, cuối cùng lại vòng về phía sau. Lỗ bài tiết cách
đầu 0,47 mm.
Trứng hình bầu dục, có 2 lớp vỏ, một đầu trong suốt, tế bào trứng có
hạt lấm tấm, màu xám, dài 0,05 - 0,07 mm, rộng 0,03 - 0,039 mm.
2.1.2.2. Vòng đời
Giun cái đẻ trứng theo phân ra ngoài, chưa có sức gây bệnh, gặp điều
kiện thích hợp: nhiệt độ 18 - 26
o
C, độ ẩm thích hợp, sau 7 - 12 ngày thì thành
trứng thành thục và có sức gây nhiễm. Gà nuốt phải trứng này sau 1 - 2h ấu
trùng nở ra khỏi vỏ trứng, sau 24h tới manh tràng và phát triển thành giun

10
trưởng thành. Có tác giả cho rằng, ở ruột non ấu trùng nở ra khỏi vỏ trứng,
trước hết chui vào thành manh tràng, ở đó khoảng 5 ngày rồi lại trở về xoang
manh tràng, tiếp tục phát triển thành giun trưởng thành mất 24 ngày. Tuổi thọ
của giun khoảng 1 năm.
Nguyễn Xuân Bình và cs (2002) [1], vòng đời của H. gallinarum diễn
ra như sau:
Trứng H. gallinarum bài xuất cùng phân ra ngoài, trứng phát triển đến
giai đoạn cảm nhiễm ở môi trường bên ngoài, từ 6 - 17 ngày, hoặc hơn nữa
tùy thuộc vào nhiệt độ và độ ẩm. Sự phát triển của trứng H. gallinarum đến
giai đoạn cảm nhiễm ở nhiệt 30 - 37

o
C trong vòng 6 - 7 ngày, ở nhiệt độ 20 -
27
o
C từ 10 - 15 ngày và 10 - 15
o
C là 72 ngày.
Ấu trùng lột xác trong trứng một lần, sau đó trứng chứa ấu trùng này
trở thành trứng có sức gây bệnh. Mùa đông trứng không phát triển, nhưng vẫn
duy trì khả năng sống. Đến mùa xuân, thời tiết ấm áp, trứng sống được qua
mùa đông lại phát triển thành trứng cảm nhiễm và có thể là nguồn lây bệnh.
Gà, gà tây mắc bệnh này là do ăn phải trứng giun kim có sức gây bệnh.
Sau 1 - 2 giờ xâm nhập vào đường tiêu hóa, ấu trùng chui ra khỏi trứng xuống
manh tràng. Ở manh tràng, ấu trùng vào thành ruột, sau 5 - 7 ngày sau chúng
lại trở lại xoang ruột. Thời gian phát triển của chúng đến giai đoạn trưởng
thành trong cơ thể từ 25 - 34 ngày, thời gian sống thì không quá 1 năm.
2.1.3. Vài nét về bệnh đầu đen (Histomonosis) ở gà
Bệnh đầu đen là một bệnh ký sinh trùng nguy hiểm ở gà và gà tây do
một loại đơn bào ký sinh trùng đường máu là Histomonas meliagridis gây ra.
Bệnh có những bệnh tích đặc trưng: Viêm hoại tử tạo mủ ở ruột thừa (manh
tràng) và gan, thể trạng gà bệnh rất xấu, mào thâm tím, da vùng đầu và da mép
xanh xám thậm chí xanh đen khi chết do Histomonas meliagridis ký sinh gây
hoại tử tổ chức tế bào tại khu vực trên nên từ đây bệnh có tên là bệnh đầu đen,
(Black head).
2.1.3.1. Lịch sử bệnh
Histomonosis được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1893 ở Rhode
Island (Cushman 1894 [15]). Tuy nhiên, các báo cáo của Trạm thực nghiệm
nông nghiệp tại địa phương về tình hình dịch bệnh từ năm 1891, báo cáo đã

11

đề cập về một "bệnh khó hiểu" xuất hiện trên đàn gà tây, với triệu chứng
chung là da vùng đầu bị biến đổi màu, gà mắc bệnh tỷ lệ chết cao, gây thiệt
hại lớn cho ngành chăn nuôi gà tây. Những người nông dân địa phương căn
cứ vào triệu chứng đặc biệt đã quan sát được ở vùng đầu của gà tây mắc bệnh:
mào thâm tím, da mép và da vùng đầu xanh xám, thậm chí xanh đen nên gọi
tên bệnh là bệnh “đầu đen” (Anonymous 1894 [11] ); (Cushman 1894 [15] ).
Kể từ khi bệnh “đầu đen” xuất hiện phổ biến, các nhà khoa học đã tập
trung nghiên cứu về bệnh. Sau một thời gian nghiên cứu, người ta nhận thấy
dấu hiệu biến đổi da vùng đầu không phải là dấu hiệu đặc trưng cho bệnh, vì nó
có thể quan sát thấy trong một số bệnh khác của gà tây. Theo Smith (1895) [31],
khi gà tây mắc bệnh thì gan và manh tràng là 2 cơ quan bị tổn thương nặng nề
nhất. Ông đã lấy bệnh phẩm là 2 cơ quan này để nghiên cứu và xác định được
nguyên nhân gây bệnh là một sinh vật đơn bào (Amoeba meleagridis), từ đó
bệnh đã được đặt tên là bệnh truyền nhiễm enterohepatitis. Nghiên cứu kỹ hơn,
Tyzzer (1920) [32], đã xác định được nguyên nhân gây bệnh và gọi tên sinh vật
đơn bào gây bệnh đó là Histomonas meleagridis. Từ đó, bệnh cũng được gọi
bằng tên khoa học là histomoniasis. Tuy nhiên, vì lý do tiêu chuẩn hóa đã được
đề xuất từ năm 1990 về việc sử dụng hậu tố osis cho các bệnh ký sinh trùng do
đó bệnh có tên khoa học là "histomonosis".
Sau sự bùng nổ đầu tiên ở Rhode Island, Histomonosis nhanh chóng lây
lan trên đàn gà tây khắp nước Mỹ và gây thiệt hại nhiều nhất trong số các
bệnh gặp trên gà tây. Tiếp sau Hoa Kỳ, bệnh xảy ra tại Nhật Bản vào năm
1905 (Watanabe, 1910). Ở Châu Âu, dịch Histomonosis cũng xuất hiện và đã
được báo cáo ở Áo (Hess và cs 2006 [20]), Bỉ (Bleyen và cs 2007 [12]),
Ireland (Anonymous 1894 [11]) và Anh. Ngày nay, Histomonosis là bệnh phổ
biến trên toàn thế giới (Mc Dougald 2005 [28]).
2.1.3.2. Dịch tễ học bệnh đầu đen (Histomonosis) ở gia cầm
* Động vật mắc bệnh
Theo Griffiths HJ (1987) [18], trên thế giới Histomonas meleagridis là loại
sinh vật đơn bào ký sinh trùng lây nhiễm vào một loạt các loại chim bao gồm gà,

gà tây, chim cút, ngỗng, trĩ và gây bệnh đầu đen. Nhưng khi các loài trên mắc
bệnh thì ở gà và gà tây có xuất hiện các triệu chứng bệnh tích điển hình nhất.

12
Theo Lê Văn Năm (2010) [7], ở Việt Nam bệnh đã xuất hiện trên
đàn gà ri, gà mía, gà lương phượng, gà hồ nuôi thả vườn và đàn gà tây nuôi
tập trung.
Theo Phạm Sĩ Lăng và cs (2006) [4], gà, gà tây và gà sao thường bị
bệnh ở trên dưới 12 tuần tuổi, gà trưởng thành bị bệnh nhẹ hơn, đôi khi bên
ngoài không thấy rõ các triệu chứng đặc trưng, chỉ gầy yếu dần, ở gà mái thì
lượng trứng giảm rõ rệt, đây chính là nguồn tàng trữ và gieo rắt mầm bệnh
trong đàn gà.
* Tuổi mắc bệnh
Tuổi đã từng được cho là một yếu tố ảnh hưởng đến sức đề kháng của
gia cầm với H. meleagridis. Có ý kiến cho rằng gia cầm ở mọi lứa tuổi đều
mắc bệnh. Tuy nhiên, gia cầm non dễ nhiễm histomonosis hơn cả. Gia cầm
tuổi càng cao tỷ lệ nhiễm histomonosis càng giảm.
Kết quả gây nhiễm Histomonosis qua trực tràng cho gà ở các lứa tuổi
khác nhau của Hu J. và cs (2004) [23] một lần nữa chỉ ra được mối quan hệ
giữa tuổi gia cầm với khả năng nhiễm Histomonosis. Theo tác giả, gà tuổi
càng cao sức đề kháng với Histomonosis càng lớn, trong đó gà ở 3 - 4 tuần
tuổi tỷ lệ mắc bệnh cao nhất.
* Mùa vụ
Gà mắc bệnh ở tất cả các tháng trong năm nhưng nhiều nhất từ tháng 4
đến tháng 9 hàng năm.
* Điều kiện vệ sinh thú y
Điều kiện vệ sinh thú y đối với chuồng trại và khu vực xung quanh
chuồng trại, dụng cụ và môi trường chăn nuôi là một trong những yếu tố có
ảnh hưởng lớn tới khả năng nhiễm Histomonosis của gà. Điều này có liên
quan mật thiết với sự tồn tại và phát triển của giun kim - môi giới trung gian

truyền bệnh. Bệnh đầu đen xảy ra chủ yếu trên những đàn gà nuôi thả vườn,
nơi mà gà thường xuyên tiếp xúc với môi trường đất.
* Những yếu tố chủ yếu liên quan tới khả năng lây nhiễm của bệnh.
Trong một số ổ dịch, bệnh phát gia tăng nếu như kèm những nguyên
nhân tiếp sau:
- Nhiệt độ và độ ẩm cao trong mùa mưa.

13
- Vệ sinh chuồng trại kém hoặc thiếu chất độn chuồng (như trấu lót
dưới), gà mổ đất ăn.
- Gà ăn chất lót chuồng do thiếu thức ăn, nên bị nhiễm trứng giun từ
chất lót chuồng.

- Có bệnh khác kết hợp như nhiễm một số vi khuẩn gây bệnh đường
tiêu hoá.

Việc truyền bệnh bên trong của Histomonas meleagridis ở gà tây đã
được nghiên cứu mà không có sự hiện diện của giun kim (Heterakis
gallinarum). Trong số 120 dãy chuồng nuôi gà được chuyển lên sàn bê tông lúc
2 tuần tuổi và bắt đầu thí nghiệm. Trong đó một nhóm không được gây nhiễm
H. Meleagridis, một nhóm khác được gây nhiễm H. meleagridis và được nhốt
ở khu vực riêng biệt. Ngày thứ 10 - 18 khi xét nghiệm những gà bị nhiễm có
xuất hiện tổn thương ở gan và manh tràng đều có H. meleagridis. Gia cầm ở
nhóm được gây nhiễm H. meleagridis vào ngày thứ 16 và tử vong 100% vào
ngày thứ 23. Tất cả những gà được gây nhiễm H. meleagridis thì gan và manh
tràng đều bị tổn thương nặng với H. meleagridis. Không tìm thấy giun kim (H.
gallinarum) khi xét nghiệm những đàn gà đã chết. Mặc dù giun kim được biết
đến như là nguồn cho H. meleagridis cư trú và tồn tại. Nhưng kết quả này cho
thấy rằng việc truyền bệnh của Histomonas meleagridis có thể do tiếp xúc một
đàn gia cầm nhiễm bệnh với một đàn gia cầm không nhiễm bệnh và phân của

chúng hoàn toàn không có trứng của giun kim (Jinghui Hu và L.R.McDougad).
2.1.2.3. Cơ chế sinh bệnh
Khi gà bị nhiễm bệnh qua miệng hoặc qua lỗ huyệt với, tác nhân gây
bệnh xâm nhập vào manh tràng và thâm nhập vào niêm mạc ruột. Tại đây,
bằng sinh sản trực phân, đơn bào H. meleagidis nhân lên rất nhanh. Số lượng
đơn bào lớn tác động vào niêm mạc manh tràng làm niêm mạc ruột dày dần
lên, sau đó dẫn đến hiện tượng viêm, loét, hoại tử. Màng nhày và dịch viêm
đọng lại trong lòng manh tràng hình thành những cục rắn màu trắng như
phomat (Dwyer D. M. và Honigsberg B. M. 1970 [17]). Từ manh tràng, H.
meleagidis xuyên qua niêm mạc, thâm nhập vào mạch máu dưới niêm mạc,
theo dòng máu xâm nhập vào gan. H. meleagridis ký sinh ở gan và gây hoại
tử gan. Những ổ hoại tử có màu vàng nhạt, ban đầu nhỏ, đường kính khoảng

14
0,5 cm, sau đó các ổ hoại tử mở rộng và sâu trên khắp gan (Dwyer D. M.
và Honigsberg B. M. 1970 [17]). Từ gan, ký sinh trùng đơn bào này sẽ lây
lan đi khắp cơ thể (Hess và cs 2006 [20]). Ngoài gan và manh tràng người
ta còn tìm thấy H. meleagridis trong dạ dày tuyến, tá tràng, ruột già, tuyến
tụy, túi Fabricius, thận, lá lách, tim, phổi, tuyến ức, não, tủy xương. Tuy
nhiên, H. meleagridis không gây tổn thương ở các cơ quan này.
2.1.3.4. Triệu chứng và bệnh tích bệnh đầu đen trên gà
* Triệu chứng
Thời kỳ ủ bệnh thường kéo dài từ 1 - 4 tuần và phụ thuộc rất nhiều vào
nhiễm trùng thứ phát.
Gia cầm khoảng 3 - 12 tuần tuổi tỷ lệ và cường độ nhiễm H. meleagridis
cao, có triệu chứng điển hình và tỷ lệ chết lên tới 70 - 90%. Biểu hiện lâm
sàng có thể quan sát thấy sau thời gian ủ bệnh từ 15 - 21 ngày. Gia cầm mắc
bệnh đột nhiên thấy sốt cao 43 - 44
o
C, đứng ủ rũ, hai mắt nhắm nghiền, ăn ít

hoặc bỏ ăn, uống nước nhiều (Mc Dougald và cs 2008 [29]). Lông xù, vùng
hậu môn lông bết và bẩn do bị tiêu chảy, phân màu lưu huỳnh (Burr 1987
[13]). Triệu chứng tiêu chảy phân màu lưu huỳnh xảy ra trong giai đoạn cuối
của bệnh, khi chức năng gan bị suy yếu. Gia cầm sã cánh, đứng run rẩy, dấu
đầu vào dưới cánh (Mc Dougald và cs 2008 [29]).
Gia cầm lớn triệu chứng không điển hình, bệnh thường kéo dài, gà
gầy dần rồi chết. Giai đoạn cuối quan sát thấy gia cầm mào thâm tím, da
mép và da vùng đầu xanh xám, thậm chí xanh đen. Bệnh thường kéo dài
khoảng 10 - 20 ngày nên gà rất gầy. Trước khi chết thân nhiệt gà giảm
xuống còn 39 - 38
o
C. Gà bệnh thường chết về ban đêm, mức độ chết không
ồ ạt nhưng hiện tượng gà chết kéo dài, gây cho người chăn nuôi cảm giác
bệnh không nguy hiểm lắm. Thực chất cuối cùng gà chết 85 - 95%.
* Bệnh tích
Bệnh tích tập trung chủ yếu ở gan và manh tràng.
- Bệnh tích ở manh tràng
Có thể chỉ 1 trong 2 bên hoặc cùng một lúc cả 2 ruột thừa xuất hiện các
biến đổi: Phồng to, dài hơn, thành ruột thừa dày lên và rắn chắc hơn. Màu sắc,
độ đàn hồi và độ trơn bóng của ruột thừa bị thay đổi.

15
Bề mặt ruột thừa trở nên sần sùi, có màu vàng xám, thành ruột thừa rắn
chắc. Khi bổ đôi ruột thừa ta thấy chất chứa có màu trắng vàng xanh hoặc trắng
nâu do thẩm xuất chứa Fibrin đóng quánh cùng các tế bào khác nhau bị chết.
Niêm mạc ruột thừa bị viêm loét nặng, thậm chí bị thủng và chảy chất
chứa vào xoang bụng gây viêm phúc mạc nặng. Rất nhiều trường hợp 2 ruột
thừa dính chặt với nhau hoặc 1 trong 2 ruột thừa dính vào các cơ quan nội
tạng hoặc phúc mạc bụng.
Vết loét nhỏ hoặc lớn và có thể vỡ ra tràn phân và dịch viêm và xoang

bụng gây viêm dính xoang bụng với ruột. Ở bên trong trong thành ruột thừa
của những gà bị bệnh với mức độ nặng thì khi cắt ngang có những đám bã
đậu trắng khô, xơ và thoái hóa dần giống như kén nên bệnh có tên gọi là bệnh
kén ruột.
- Bệnh tích ở gan
Tổn thương gan thường bắt đầu vào ngày thứ 10. Gan sưng to gấp 2 - 3
lần, viêm xuất huyết, hoại tử. Lúc đầu trên bề mặt gan có các đốm đỏ thẫm
làm cho gan lỗ chỗ như đá hoa cương, sau đó biến thành ổ hoại tử màu trắng
hình hoa cúc như ổ lao hoặc như khối u của bệnh marek.
Khi dùng dao cắt ngang một đường trên bề mặt gan bị hoại tử thì tại vị
trí vết cắt không mịn và khép kín được nữa
- Bệnh tích ở các cơ quan khác
Các tổn thương ở các cơ quan khác như túi fabricius, phổi, lá lách,
tuyến tụy, thận, dạ dày tuyến và màng treo ruột đôi khi có thể xảy ra dưới
dạng các ổ hoại tử tròn, màu trắng hoặc màu vàng (Shivaprasad H. L. và cs
2002 [30]).

2.1.3.5. Chẩn đoán bệnh
* Với gà còn sống
- Chẩn đoán lâm sàng: Hiện nay, ở các cơ sở chăn nuôi, việc chẩn đoán
đối với gà còn sống chủ yếu dựa vào các triệu chứng của bệnh (xù lông, đứng
nhắm mắt, ăn ít, lười vận động, thường đứng dấu đầu dưới cánh, da vùng đầu
xạm màu, đi ỉa phân màu vàng lưu huỳnh…). Trong đó, triệu chứng điển
hình nhất là gà đi ỉa phân màu vàng lưu huỳnh, da vùng đầu xanh xám, thậm
chí xanh đen.

16
- Chẩn đoán xét nghiệm: Lấy phân màu lưu huỳnh của gà ốm, làm xét
nghiệm, nếu quan sát dưới kính hiển vi tìm thấy trứng của giun kim sẽ giúp
cho việc chẩn đoán dễ dàng hơn.

* Với gà đã chết
Phương pháp chẩn đoán sau khi gia cầm chết là phương pháp chính xác
nhất. Việc chẩn đoán được tiến hành qua phương pháp mổ khám, kiểm tra
bệnh tích kết hợp với việc lấy các cơ quan nội tạng như gan, manh tràng để
tìm đơn bào H. meleagridis ký sinh.
Tiến hành mổ khám gà chết do Histomonosis, quan sát thấy ở gan và
manh tràng bị tổn thương nặng, bệnh tích điển hình của bệnh là: gan to gấp 2 - 3
lần, bề mặt gan có những ổ hoại tử lỗ chỗ như đá vân cương, hoặc ổ hoại tử
hình hoa cúc màu trắng hoặc vàng nhạt.
Lấy bệnh phẩm manh tràng và gan của gà vừa mới chết, kiểm tra dưới kính
hiển vi có thể quan sát thấy đơn bào H. meleagridis (Mc Dougald 2008 [29]).
Trong điều kiện nhiệt độ ấm, đơn bào vẫn hoạt động và điều này giúp việc
chẩn đoán dễ dàng hơn. Dưới kính hiển vi quan sát thấy H. meleagridis di
chuyển không theo một hướng cố định, roi chuyển động xoay ngược chiều
kim đồng hồ giúp việc xác định dễ dàng hơn (Mc Dougald 2008 [29]).
Kiểm tra mô bệnh học giúp cho việc chẩn đoán chính xác hơn (Burr
1987 [13]). Đặc biệt là phần mô của gan và manh tràng. Phương pháp nhuộm
tiêu bản mô bệnh phẩm thường được áp dụng là nhuộm Hematoxilin-eosin và
nhuộm PAS (Mc Dougald 2008 [29]).
Đơn bào từ nguyên liệu tươi (manh tràng gà bệnh) có thể được nuôi và
nhân lên trong môi trường Dwyer cổ điển giúp cho việc quan sát H.
meleagridis dễ dàng hơn dưới kính hiển vi.
Chẩn đoán bằng phản ứng PCR (phản ứng chuỗi polymerase) cho kết
quả nhanh chóng và chính xác (Bleyen N. và cs 2007 [12]). Với phản ứng
PCR, người ta có thể chứng minh DNA của H. meleagridis trong phân hoặc
ruột. PCR cũng giúp tìm ra DNA của ký sinh trùng H. meleagridis trong các
cơ quan khác như trong não, hoặc tuyến ức…, nơi mà các phương pháp thông
thường không thể chẩn đoán được sự có mặt ký sinh trùng này (Huber và cs
2005 [21]).


17
* Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh khác
Theo Lê Văn Năm (2006) [6] để chẩn đoán được chính xác bệnh đầu
đen thì cần phân biệt với các bệnh sau:
- Chẩn đoán phân biệt với gà bị Newcastle.
+ Triệu chứng: Gà ủ rũ, sã cánh, tiêu chảy phân loãng xanh trắng và gà
co giật.
+ Bệnh tích: Xuất huyết hình đinh ghim ở dạ dày tuyến.
- Chẩn đoán phân biệt với bệnh Gumboro:
+ Triệu chứng: Gà bị Gumboro luôn ở trong tình trạng sốt cao 43 - 44
0
C,
mất nước hay ngoẹo đầu, quay mỏ gãi hoặc mổ vào phao câu, hậu môn của
chính mình. Gà ỉa chảy nặng, phân trắng hoặc toàn nước. Nếu dùng kháng
sinh điều trị thì gà sẽ bị chết nhanh hơn.
+ Bệnh tích: Túi Fabricius biến đổi về màu sắc, kích thước, hình dạng
và độ dai bền. Xuất huyết cơ đùi, cơ ngực và dưới da, xuất huyết toàn bề mặt
khu vực tiếp giáp giữa dạ dày cơ và dạ dày tuyến.
- Chẩn đoán phân biệt với hội chứng hen khẹc ở gà (CCRD).
+ Triệu chứng: Gà bệnh ủ rũ, uống nhiều nước, đứng một mình rụt cổ
hay lắc đầu vảy mỏ, thở khò khè, nếu bệnh nặng gà phát ra tiếng kêu lạo sạo
khoẹt khoẹt.
+ Bệnh tích: Màng nhày bao phủ ở thanh khí quản, viêm túi khí xuất
hiện các thể Fibrin dạng hạt kích thước từ 0,5 - 2 cm màu vàng nằm xen lẫn
trong các túi khí.
- Chẩn đoán phân biệt với bệnh Marek.
+ Triệu chứng: Gà ủ rũ xù lông, giảm ăn, gầy và sút cân rất nhanh, xuất
hiện triệu chứng bại liệt.
+ Bệnh tích: Mắt gà bên trong có các hạt thừa nhỏ li ti, xuất hiện khối u
ở các cơ. Gan sưng to hoại tử, dạ dày tuyến sưng to gấp 2 -3 lần.

- Chẩn đoán phân biệt với bệnh Leucocytozoon (lơcô)
+ Triệu chứng: Gà gầy sút dần, nhợt nhạt thiếu máu, gà đẻ thì giảm đẻ
hoặc tịt đẻ hoàn toàn, gà suy nhược rồi chết dần.
+ Bệnh tích: Khối u tập trung ở gan, lách, buồng trứng, thận.

×