Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh đầu đen do Histomonas meleagridis gây ra trên gà nuôi tại huy ện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên và sử dụng thuốc điều trị.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.95 MB, 79 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

  



HOÀNG THỊ BÍCH BIÊN






Tên đề tài:



NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH ĐẦU ĐEN DO
HISTOMONAS MELEAGRIDIS GÂY RA TRÊN GÀ NUÔI TẠI
HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ
SỬ DỤNG THUỐC ĐIỀU TRỊ









KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC







Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Thú y
Khoa : Chăn nuôi thú y
Khoá học : 2010 - 2014

Giảng viên hướng dẫn



Thái Nguyên, năm 2014

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

  



HOÀNG THỊ BÍCH BIÊN







Tên đề tài:



NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH ĐẦU ĐEN DO
HISTOMONAS MELEAGRIDIS GÂY RA TRÊN GÀ NUÔI TẠI
HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ
SỬ DỤNG THUỐC ĐIỀU TRỊ








KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC





Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Thú y
Khoa : Chăn nuôi thú y
Khoá học : 2010 - 2014
Giáo viên hướng dẫn: GS. TS. Nguyễn Thị Kim Lan

Khoa Chăn nuôi thú y - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên

Giảng


Thái Nguyên, năm 2014
LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian thực tập và thực hiện đề tài này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của
bản thân, em luôn nhận được sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, tạo điều kiện và đóng
góp những ý kiến quý báu của các thầy cô giáo trong suốt thời gian thực hiện đề tài
nghiên cứu.
Nhân dịp này, cho phép em được bày tỏ lòng biết ơn tới:
Ban giám hiệu, toàn thể các thầy cô giáo khoa Chăn nuôi Thú y Trường Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên, đặc biệt cô giáo GS. TS. Nguyễn Thị Kim Lan đã
luôn động viên giúp đỡ và chỉ bảo tận tình cho em trong suốt quá trình thực hiện và
hoàn thành khóa luận, và ThS. NCS Trương Thị Tính: đã luôn quan tâm theo sát
tiến độ đề tài.
Em xin trân trọng cảm ơn: Toàn thể cán bộ công nhân viên Trạm thú y
huyện Phú Bình đã tiếp nhận và tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình thực
tập tốt nghiệp.
Để góp phần cho việc hoàn thành khóa luận đạt kết quả tốt, tôi luôn nhận
được sự động viên, giúp đỡ của gia đình và bạn bè.
Em xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày… tháng… năm2014
Sinh viên


Hoàng Thị Bích Biên


LỜI NÓI ĐẦU

Để trở thành một kỹ sư, bác sĩ thú y giỏi được xã hội chấp nhận, mỗi sinh
viên khi ra trường cần trang bị cho mình một vốn kiến thức khoa học, chuyên môn
vững vàng và sự hiểu biết xã hội. Do vậy, thực tập tốt nghiệp là việc hết sức quan
trọng giúp sinh viên củng cố lại kiến thức đã học, vận dụng lý thuyết vào thực tiễn
sản xuất, tiếp cận và làm quen với công việc. Qua đó sinh viên sẽ nâng cao trình độ,
khả năng áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Đồng thời tạo cho
mình tác phong và làm việc khoa học, có tính sáng tạo để ra trường phải là một cán
bộ vững vàng về lý thuyết, giỏi về tay nghề, có trình độ chuyên môn cao đáp ứng
yêu cầu của sản xuất góp phần vào sự phát triển của đất nước.
Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân, được sự nhất trí của nhà trường, Ban
chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên cùng
với sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của cô giáo GS. TS. Nguyễn Thị Kim Lan,
ThS. NCS Trương Thị Tính và sự tiếp nhận của Trạm thú y huyện Phú Bình, tôi
đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh đầu đen do Histomonas
meleagridis gây ra trên gà nuôi tại huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên và sử
dụng thuốc điều trị”
Sau thời gian thục tập tốt nghiệp với tinh thần khẩn trương nghiêm túc nên
tôi đã hoàn thành khóa luận. Tuy nhiên, do trình độ có hạn, bước đầu còn bỡ ngỡ
trong công tác nghiên cứu. Nên khóa luận của tôi không tránh khỏi những sai sót và
hạn chế, tôi rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô giáo để khóa luận được
hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!






DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 4.1. Thực trạng phòng chống dịch bệnh cho gà tại huyện Phú Bình,
tỉnh Thái Nguyên 36
Bảng 4.2. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà tại một số địa phương của
huyện Phú Bình 37
Bảng 4.3. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo lứa tuổi 39
Bảng 4.4. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo phương thức chăn nuôi 42
Bảng 4.5. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo kiểu nền chuồng nuôi gà 43
Bảng 4.6. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo tình trạng vệ sinh thú y 44
Bảng 4.7. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun kim ở gà mổ khám 46
Bảng 4.8. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis trong số gà nhiễm giun kim 49
Bảng 4.9. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis trong số gà không nhiễm giun kim 50
Bảng 4.10. Sự ô nhiễm trứng giun kim ở nền chuồng, xung quanh chuồng và vườn
chăn thả gà 51
Bảng 4.11. Hiệu lực của phác đồ điều trị bệnh đầu đen cho gà trên thực địa 53
DANH MỤC CÁC HÌNH

Trang
Hình 4.1. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà tại một số địa phương của
huyện Phú Bình 38
Hình 4.2. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo tuổi 40
Hình 4.3. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo phương thức chăn nuôi 42
Hình 4.4. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo tình trạng vệ sinh thú y 45
Hình 4.5. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun kim ở gà mổ khám tại 4 xã của
huyện Phú Bình 46
Hình 4.6. Biểu đồ tỷ lệ các mức cường độ nhiễm giun kim ở gà mổ khám tại 4 xã
của huyện Phú Bình 48
Hình 4.7: Biểu đồ tỷ lệ nhiễm H. meleagridis trong số gà nhiễm giun kim 49


LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian thực tập và thực hiện đề tài này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của
bản thân, em luôn nhận được sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, tạo điều kiện và đóng
góp những ý kiến quý báu của các thầy cô giáo trong suốt thời gian thực hiện đề tài
nghiên cứu.
Nhân dịp này, cho phép em được bày tỏ lòng biết ơn tới:
Ban giám hiệu, toàn thể các thầy cô giáo khoa Chăn nuôi Thú y Trường Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên, đặc biệt cô giáo GS. TS. Nguyễn Thị Kim Lan đã
luôn động viên giúp đỡ và chỉ bảo tận tình cho em trong suốt quá trình thực hiện và
hoàn thành khóa luận, và ThS. NCS Trương Thị Tính: đã luôn quan tâm theo sát
tiến độ đề tài.
Em xin trân trọng cảm ơn: Toàn thể cán bộ công nhân viên Trạm thú y
huyện Phú Bình đã tiếp nhận và tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình thực
tập tốt nghiệp.
Để góp phần cho việc hoàn thành khóa luận đạt kết quả tốt, tôi luôn nhận
được sự động viên, giúp đỡ của gia đình và bạn bè.
Em xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày… tháng… năm2014
Sinh viên


Hoàng Thị Bích Biên

MỤC LỤC

Trang
Phần 1

:
MỞ ĐẦU
1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu của đề tài 1
1.3. Mục đích nghiên cứu 2
1.4. Ý nghĩa khoa học của đề tài 2
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 2
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn 2
Phần 2
:
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
3
2.1. Cơ sở khoa học 3
2.1.1. Đặc điểm của đơn bào H. meleagridis 3
2.1.1.1. Vị trí của đơn bào H. meleagridis trong hệ thống phân loại động vật
nguyên sinh 3
2.1.1.2. Hình thái học loài H. meleagridis 3
2.1.1.3. Phương thức truyền lây của Histomonas meleagridis 5
2.1.1.4. Vòng đời của Histomonas meleagridis 12
2.1.1.5. Nuôi cấy đơn bào H. meleagridis 12
2.1.2. Bệnh đầu đen (Histomonosis) ở gà 13
2.1.2.1. Lịch sử bệnh 13
2.1.2.2. Những thiệt hại kinh tế do Histomonosis gây ra 14
2.1.2.3. Dịch tễ học bệnh đầu đen (Histomonosis) ở gia cầm 16
2.1.2.4. Cơ chế sinh bệnh 18
2.1.2.5. Triệu chứng và bệnh tích bệnh đầu đen 19
2.1.2.6. Chẩn đoán 21
2.1.2.7. Phòng trị bệnh đầu đen cho gà 24
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 25

2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 25
2.2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 26
Phần 3
:
ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
28
3.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu 28
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 28
3.1.2. Vật liệu nghiên cứu 28
3.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu 28
3.3. Nội dung nghiên cứu 29
3.3.1. Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh đầu đen ở gà tại huyện Phú Bình,
tỉnh Thái Nguyên 29
3.3.1.1. Thực trạng công tác phòng chống dịch bệnh cho gà ở huyện Phú Bình, tỉnh
Thái Nguyên 29
3.3.1.2. Nghiên cứu tình hình nhiễm H. meleagridis ở gà qua mổ khám 29
3.3.1.3. Nghiên cứu sự liên quan giữa bệnh đầu đen và bệnh giun kim ở gà 29
3.3.2. Sử dụng thuốc điều trị bệnh đầu đen cho gà 29
3.4. Phương pháp nghiên cứu 29
3.4.1. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh đầu đen do H. meleagridis
gây nên ở gà nuôi tại huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên 30
3.4.1.1. Phương pháp điều tra công tác phòng chống dịch bệnh cho gà tại huyện Phú
Bình, tỉnh Thái Nguyên 30
3.4.1.2. Bố trí thu thập gà để mổ khám và phương pháp xác định tỷ lệ nhiễm
H. meleagridis ở gà nuôi tại huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên 30
3.4.1.3. Phương pháp nghiên cứu sự liên quan giữa bệnh đầu đen và bệnh giun kim
ở gà 33
3.4.2. Phương pháp sử dụng thuốc điều trị bệnh đầu đen cho gà ở Phú Bình, tỉnh
Thái Nguyên 35

3.4.2.1. Sử dụng phác đồ điều trị bệnh đầu đen cho gà 35
3.5. Phương pháp xử lý số liệu 35

Phần 4
:
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
36
4.1. Đặc điểm dịch tễ bệnh đơn bào H. meleagridis ở gà tại huyện Phú Bình, tỉnh
Thái Nguyên 36
4.1.1. Kết quả điều tra thực trạng phòng chống dịch bệnh cho gà tại huyện Phú
Bình, tỉnh Thái Nguyên 36
4.1.2. Tình hình nhiễm H. meleagridis ở gà tại huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên 37
4.1.2.1. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà tại một số địa phương của
huyện Phú Bình 37
4.1.2.2. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis theo tuổi gà 39
4.1.2.3. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis theo phương thức chăn nuôi gà 41
4.1.2.4. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis theo kiểu nền chuồng nuôi gà 43
4.1.2.5. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo tình trạng vệ sinh thú y 44
4.1.3. Nghiên cứu sự liên quan giữa bệnh đầu đen và bệnh giun kim ở gà 45
4.1.3.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun kim ở gà mổ khám 45
4.1.3.2. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis trong số gà nhiễm giun kim 48
4.1.3.3. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis trong số gà không nhiễm giun kim 50
4.1.3.4. Sự ô nhiễm trứng giun kim ở nền chuồng, xung quanh chuồng và vườn chăn
thả gà 51
4.2. Sử dụng thuốc điều trị bệnh đầu đen cho gà ở huyện Phú Bình,
tỉnh Thái Nguyên 52
Phần 5
:
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
55

5.1. Kết luận 55
5.2. Tồn tại 55
5.3. Đề nghị 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO 57
I. Tài liệu tiếng Việt 57
II. Tài liệu tiếng Anh 57
III. Tài liệu mạng 60

1
Phần 1
MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi ở Việt Nam đã và đang phát
triển mạnh, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương.
Trong đó chăn nuôi gia đã cung cấp một lượng lớn thực phẩm (thịt, trứng) cho
người tiêu dùng.
Là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên, Phú Bình rất thích hợp phát
triển mô hình chăn nuôi gà thả vườn với quy mô lớn tại các vườn cây ăn quả, đồi
cây lâm nghiệp, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi Phú Bình
gặp không ít khó khăn, đặc biệt là vấn đề dịch bệnh địa hình, thời tiết, khí hậu và
nóng ẩm tạo điều kiện cho các bệnh kí sinh trùng nói chung và bệnh giun kim ở gà
nói riêng phát triển, kéo theo sự phát triển của bệnh do đơn bào Histomonas gây ra.
Bệnh đầu đen là một bệnh ký sinh trùng nguy hiểm ở gà và gà tây do đơn
bào Histomonas meleagridis gây ra. Bệnh gây ra những biểu hiện bất thường ở da
vùng đầu, ban đầu có màu xanh tím, sau đó nhanh chóng trở nên thâm đen, vì vậy
bệnh còn có tên là bệnh đầu đen. Bệnh có những bệnh tích đặc trưng như: viêm hoại
tử tạo mủ ở ruột thừa và gan, da vùng đầu và mào tích thâm đen, gà bệnh chết rải
rác và thường chết về ban đêm, mức độ chết không ồ ạt nhưng hiện tượng chết kéo
dài, gây cho người chăn nuôi cảm giác bệnh không nguy hiểm lắm. Thực chất cuối

cùng gà chết có thể đến 85 - 95 %.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế phòng chống dịch bệnh, nâng cao hiệu quả chăn
nuôi và phát triển kinh tế của hộ nông dân, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
đặc điểm dịch tễ bệnh đầu đen do Histomonas meleagridis gây ra trên gà nuôi tại
huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên và sử dụng thuốc điều trị”
1.2. Mục tiêu của đề tài
Nghiên cứu tình hình nhiễm đơn bào H. meleagridis ở gà nuôi tại 4 xã: Tân
Kim, Tân Khánh, Tân Hòa, Xuân Phương, tỉnh Thái Nguyên.
2
Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh đầu đen ở gà và dùng thuốc điều trị bệnh.
1.3. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ đặc điểm dịch tễ bệnh đầu đen ở gà và thử nghiệm phác đồ điều
trị bệnh đạt hiệu quả cao.
1.4. Ý nghĩa khoa học của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
Kết quả đề tài là những thông tin khoa học về đặc điểm dịch tễ bệnh đầu đen
ở gà và xác định được phác đồ điều trị bệnh đạt hiệu quả cao nhất.
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để người chăn nuôi hiểu rõ về căn bệnh,
khuyến cáo người chăn nuôi áp dụng biện pháp phòng, trị bệnh đầu đen cho gà
nhằm hạn chế tỷ lệ nhiễm và thiệt hại do bệnh đầu đen gây ra, góp phần nâng cao
năng suất chăn nuôi, thúc đẩy chăn nuôi gà phát triển.
3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học
Bệnh đầu đen (Histomonosis) là một bệnh ký sinh trùng nguy hiểm ở gà và gà
tây. Bệnh do một loại đơn bào có tên khoa học là Histomonas meleagridis gây ra. H.
meleagridis ký sinh chủ yếu trong lòng manh tràng và nhu mô gan, gây hoại tử, xuất

huyết niêm mạc manh tràng, rối loạn chức năng gan và gây chết gia cầm với tỷ lệ cao,
ảnh hưởng tới thu nhập của người chăn nuôi.
2.1.1. Đặc điểm của đơn bào H. meleagridis
2.1.1.1. Vị trí của đơn bào H. meleagridis trong hệ thống phân loại động vật
nguyên sinh
Trong mô tả đầu tiên của Smith T. (1895) [40], H. meleagridis được biết đến
là amip.
Căn cứ vào kết quả phân tích trình tự gen, Cepicka và cs. (2010) [13], đã cho
biết vị trí phân loại của H. meleagridis như sau:
Giới: Protozoen
Ngành: Parabasalia
Lớp: Tritrichomonadea
Bộ: Tritrichomonadida
Họ: Dientamoebidae
Giống: Histomonas
Loài: Histomonas meleagridis
2.1.1.2. Hình thái học loài H. meleagridis
Khi nghiên cứu về bệnh đầu đen, Smith T. (1895) [40] đã mổ khám 50 gà tây
mắc bệnh đầu đen. Tác giả thấy rằng: ở gà mắc bệnh thì gan và manh tràng là 2 cơ
quan bị tổn thương nặng nề nhất. Lấy chất chứa trong manh tràng gà bệnh soi tươi,
tác giả đã tìm thấy tác nhân gây bệnh là một sinh vật đơn bào (Amoeba meleagridis)
có hình tròn hoặc ovan, đường kính 8 - 14 µm. Trong mô gan được cố định và
4
nhuộm màu, đơn bào có dạng hình ovan, đường kính dao động từ 6 - 10 µm, ở giữa
có nhiều cấu trúc nhỏ tập trung lại thành thể nhân. Sau đó tác nhân gây bệnh được
đổi tên thành H. meleagridis.
Tyzzer và Fabyan (1922) [43] đã báo cáo: khi quan sát dưới kính hiển vi, tác
giả thấy H. meleagridis tồn tại lưỡng hình (dạng amip và có roi). Trong mô (giai
đoạn xâm lấn) nó có dạng amip, trong lòng manh tràng H. meleagridis ở dạng có
roi. H. meleagridis ở dạng amip thường có đường kính 8 - 15 µm, trong khi ở hình

dạng có roi đường kính có thể lên tới 30 µm.
Tyzzer (1934) [46] đã nghiên cứu sự chuyển động của H. meleagridis ở 42
o
C
và mô tả, roi của đơn bào này nhịp nhàng rung động giúp nó có thể xoay ngược
chiều kim đồng hồ.
Lê Văn Năm (2010) [8] khi đề cập đến bệnh đầu đen ở Việt Nam đã báo cáo
rằng, H. meleagridis là một loại đơn bào đa hình thái: hình trùng roi (4 roi), hình amip
và hình lưới hợp bào, tùy thuộc vào giai đoạn phát triển để có hình dạng tương ứng phù
hợp,… H. meleagridis với hình amip có kích thước 8 - 30 µm, với hình roi có kích
thước từ 20 - 30 µm, bé nhất khi H. meleagridis ở thể lưới: 5 - 10 µm, nhưng ở thể hợp
bào (bao gồm nhiều H. meleagridis thể hình lưới) thì chúng có kích thước cực đại đến
60 - 80 µm. Trong các dạng hình thái thì hình roi là phổ biến nhất và dễ nhận biết nhất
bởi chúng có 2 nhân (1 nhân to và 1 nhân nhỏ), từ nhân to mọc ra 4 roi, H. meleagridis
vận động theo hai phương thức: xoắn hoặc theo kiểu làn sóng (impuls).
Các nhà khoa học cho biết, theo thứ tự từ ngoài vào trong, đơn bào H.
meleagridis cấu tạo gồm 3 phần: màng, nguyên sinh chất và nhân.
Màng đơn bào H. meleagridis là một màng đơn.
Nguyên sinh chất của H. meleagridis chứa ß-glycogen, Ribosome và ARN
(Lee và cs. 1969), một số không bào và hạt nhân (Schuster, 1968).
Nhân hình trứng hoặc hình chữ U, bao gồm một Nucleotid. Màng nhân là
một màng kép (Schuster, 1968; Lee và cs. 1969). Trong vùng lân cận của nhân có
bộ máy Golgi (Schuster, 1968).
5
Theo Muller (1993), H. meleagridis là sinh vật kỵ khí vì thiếu ty thể. Lưới
nội chất đã bị thoái hóa
2.1.1.3. Phương thức truyền lây của Histomonas meleagridis
H. meleagridis sinh sản bằng hình thức phân đôi (trực phân), lây truyền bằng
2 con đường: truyền bệnh trực tiếp và truyền bệnh gián tiếp.
a) Truyền bệnh trực tiếp

Trong báo cáo ban đầu của Smith T. (1895) [40], sự lây truyền trực tiếp bệnh
đầu đen đã được chứng minh qua thí nghiệm cho gà khỏe nuốt H. meleagridis. Theo
đuổi quan điểm của Smith T., Moore (1986) cũng thí nghiệm cho gà tây khỏe ăn
phân và các cơ quan bị tổn thương của gà bệnh, sau đó theo dõi và nhận thấy gà tây
khỏe cũng bị nhiễm bệnh.Tuy nhiên, các tác giả đều kết luận, có thể gây nhiễm
bệnh đầu đen ở gà và gà tây qua đường ăn, uống nhưng tỷ lệ nhiễm không cao.
Năm 1922, Tyzzer và Fabyan [43], đã lấy gan của gà bị bệnh nặng nghiền
nhỏ cho gà và vịt 4, 6, 16, ngày tuổi ăn. Sau đó, Tyzzer và Collier (1925) [44] tiếp
tục gây nhiễm bệnh đầu đen trên một số gà 5 ngày tuổi bằng cách cho ăn gan nhiễm
bệnh. Sau hàng loạt thí nghiệm, Tyzzer (1926) [45], đã kết luận H. meleagridis có
thể được truyền đến một mức độ nào đó trong tự nhiên bằng cách ăn, uống các cơ
quan của gà bệnh có chứa mầm bệnh.
McDougald L. R. (2003) [34] đã làm thí nghiệm gây nhiễm bệnh cho gà 2
tuần tuổi. Tác giả tiến hành đưa vào lỗ huyệt mỗi gà đơn bào H. meleagridis nuôi
cấy với liều 200.000 H. meleagridis trên con. Kết quả, tất cả gà gây nhiễm đã chết ở
ngày 10 - 18, tiến hành mổ khám gà chết thấy gan và manh tràng xuất hiện tổn
thương điển hình của Histomonosis.
Hu J. và cs. (2004) [23] tiến hành gây nhiễm cho gà tây bằng hai đường, ăn
uống và qua lỗ huyệt, kết quả như sau: gà gây nhiễm qua đường miệng và tử vong
thấp hơn so với gà gây nhiễm qua lỗ huyệt. Cụ thể, gây nhiễm qua đường miệng tỷ
lệ mắc bệnh là 20 %, tỷ lệ chết 2 %, trong khi gây nhiễm qua lỗ huyệt tỷ lệ mắc
bệnh 65 %, tỷ lệ chết 45 %.
6
Gần đây, Armstrong P. L và McDougald L. R. (2011) [11] tiếp tục nghiên
cứu sự truyền bệnh trực tiếp cho gà tây mà không cần sự có mặt của các vật chủ
trung gian và điều tra khả năng lây nhiễm khi tiếp xúc. Ông đã tiến hành 3 lô thí
nghiệm như sau:
Lô 1: tiến hành nuôi nhốt chung với gia cầm đã mắc bệnh đầu đen.
Lô 2 và 3: gây nhiễm trực tiếp bằng 2 đường, thông qua đường miệng (lô 2)
và bơm trực tiếp vào lỗ huyệt (lô 3) (bằng cách tiêm hỗn hợp phân và manh tràng

của gà bệnh có H. meleagridis).
Theo dõi thí nghiệm: sau 14 ngày gây nhiễm, tác giả tiến hành mổ khám và
thấy 31 gà trong số 44 gà ở lô 2 được bơm trực tiếp vào lỗ huyệt có bệnh tích điển
hình ở cả gan và manh tràng, trong khi đó gà ở lô 3 không thấy có tổn thương khi
gây nhiễm qua đường miệng. Ở lô 1, khi cho nuôi nhốt chung với đàn gà mắc bệnh
đầu đen trước đó, mổ khám thấy có 11 gà mắc bệnh và có bệnh tích điển hình ở gan
và manh tràng trong số 36 gà thí nghiệm (chiếm 30,5 %).
Hauck. R, Hafe. H. M (2013) [21], cho biết trong 10 năm qua, phương pháp gây
nhiễm thông qua lỗ huyệt được tiến hành một cách phổ biến nhất và độ tin cậy cao.
Các kết quả trên cho thấy: có thể gây nhiễm bệnh đầu đen cho gà khỏe bằng
2 đường, qua đường miệng và qua lỗ huyệt. Do ảnh hưởng của axit đường tiêu hóa
nên tỷ lệ nhiễm bệnh không cao khi gây nhiễm qua đường miệng. Bệnh đầu đen có
thể xảy ra bất cứ khi nào lỗ huyệt của gà khỏe tiếp xúc với phân tươi bị nhiễm mầm
bệnh. Ngay sau khi lỗ huyệt gà khỏe tiếp xúc với phân tươi của gà bệnh, H.
meleagridis sẽ di chuyển ngược theo nhu động ruột vào ký sinh ở manh tràng.
b) Truyền bệnh gián tiếp qua giun kim
* Giun kim (Heterakis gallinarum)
+ Đặc điểm sinh học của Heterakis gallinarum
- Hình thái
Bùi Lập và cs (1969) [5] và J. Kaufmann (1996) [25] cho biết về hình thái H.
gallinarum:
H. gallinarum có màu vàng nhạt.
LỜI NÓI ĐẦU

Để trở thành một kỹ sư, bác sĩ thú y giỏi được xã hội chấp nhận, mỗi sinh
viên khi ra trường cần trang bị cho mình một vốn kiến thức khoa học, chuyên môn
vững vàng và sự hiểu biết xã hội. Do vậy, thực tập tốt nghiệp là việc hết sức quan
trọng giúp sinh viên củng cố lại kiến thức đã học, vận dụng lý thuyết vào thực tiễn
sản xuất, tiếp cận và làm quen với công việc. Qua đó sinh viên sẽ nâng cao trình độ,
khả năng áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Đồng thời tạo cho

mình tác phong và làm việc khoa học, có tính sáng tạo để ra trường phải là một cán
bộ vững vàng về lý thuyết, giỏi về tay nghề, có trình độ chuyên môn cao đáp ứng
yêu cầu của sản xuất góp phần vào sự phát triển của đất nước.
Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân, được sự nhất trí của nhà trường, Ban
chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên cùng
với sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của cô giáo GS. TS. Nguyễn Thị Kim Lan,
ThS. NCS Trương Thị Tính và sự tiếp nhận của Trạm thú y huyện Phú Bình, tôi
đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh đầu đen do Histomonas
meleagridis gây ra trên gà nuôi tại huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên và sử
dụng thuốc điều trị”
Sau thời gian thục tập tốt nghiệp với tinh thần khẩn trương nghiêm túc nên
tôi đã hoàn thành khóa luận. Tuy nhiên, do trình độ có hạn, bước đầu còn bỡ ngỡ
trong công tác nghiên cứu. Nên khóa luận của tôi không tránh khỏi những sai sót và
hạn chế, tôi rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô giáo để khóa luận được
hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!





8
chúng thoát vỏ đến manh tràng và ruột. Sau khi tới manh tràng chúng chui vào niêm
mạc, gây tụ huyết, xuất huyết. Ngoài ra giun còn cướp chất dinh dưỡng, tiết độc tố
đầu độc vật chủ làm cho vật chủ bị gầy yếu, còi cọc, chậm lớn và giảm sức đề
kháng. Để không bị đào thải theo phân ra ngoài giun phải bám vào thành niêm mạc
ruột và trong quá trình di chuyển giun đã tác động cơ học lên thành ruột làm cho
niêm mạc ruột bị tổn thương, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập như: Salmonella
gallisepticum, S. pullorum và các chủng E.coli. Dẫn đến gà dễ bị nhiễm trùng và
mắc một số bệnh kế phát. Ngoài ra, trứng giun chứa đơn bào Histomonas

meleagridis (gây bệnh Histomonosis) làm cho gan bị viêm và làm nặng thêm tổn
thương ở manh tràng. Khi bị ấu trùng xâm nhập từ bên ngoài vào thì gà sẽ mắc cả
hai bệnh này. Ở những gà bị chết, bệnh tích thường thấy là xác gà gầy, niêm mạc
dày và bị loét, đôi khi gan bị cứng do tác động bởi các độc tố và quá trình di chuyển
của ấu trùng.
* Truyền bệnh gián tiếp qua giun kim
Cushman và cs (1894) [15] nhận thấy, gà và gà tây bị nhiễm bệnh khi chúng
được nuôi trên khu vực mà trước đó gà và gà tây đã bị mắc bệnh.
Smith T. (1895) [40] đã tiến hành thí nghiệm với quy mô lớn và cho biết: H.
meleagridis không lây truyền theo chiều dọc từ gà mái đẻ sang trứng, mặc dù phát
hiện gà con mắc bệnh đầu đen rất sớm và chết ở 12 - 14 ngày tuổi. Tác giả cho rằng,
những gà con này bị nhiễm bệnh do được nuôi trong khu đất nơi mà đàn gà nuôi
trước đó đã mắc bệnh. Thí nghiệm được bố trí như sau:
Tiến hành lấy trứng ở những gà mẹ từ 3 trang trại khác nhau đang có bệnh
đầu đen phát triển, ấp trứng nhân tạo. Trước khi ấp, trứng được rửa sạch, lau nhẹ
nhàng bằng nước ấm, ngâm trong Clorua thủy ngân 0,5 % trong 30 giây, sau đó rửa
sạch và lau khô bằng khăn khử trùng.
Sau khi nở 1 tuần, 4 gà tây đã bị chết do quá yếu, những gà còn lại được nuôi
tại khu vực được bảo vệ an toàn và không có sự lây nhiễm của mầm bệnh. Sau 1
tháng theo dõi thấy gà khỏe bình thường.
9
Thí nghiệm tiếp tục được tiến hành sau hơn 6 tuần quan sát thấy không có gà
nào bị tử vong và xuất hiện dấu hiệu bệnh. Điều này khẳng định rằng Histomonas
meleagridis không lây truyền từ gà mẹ thông qua trứng.
Tác giả tiếp tục tiến hành thí nghiệm bằng cách chuyển những gà thí nghiệm
trên về các trang trại đang có gà bị nhiễm bệnh, sau 17 ngày thấy gà xuất hiện triệu
chứng bệnh, đến ngày thứ 26 tất cả gà đều tử vong, mổ khám thấy tổn thương rõ rệt
ở gan và đóng kén trắng ở manh tràng.
Graybill và cs (1920) [19] khi nghiên cứu dịch tễ học bệnh đầu đen, quan sát
bệnh ở gà tây khoẻ khi nhốt chung với gà bệnh. Kiểm tra chất chứa trong manh

tràng của gà bệnh chết, thấy có sự tồn tại của Herterakis gallinarum cùng với H.
meleagridis. Tác giả cho rằng tác nhân gây bệnh đầu đen có thể hấp thụ đồng thời
cùng với trứng Herterakis gallinarum.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, Histomonas có thể tồn tại trong trứng của H.
gallinarum từ 2 đến 3 năm, khi trứng nở vẫn có thể gây ra Histomonosis (Niimi, 1937 [37]).
Springer, Johnson và Reid (1970 [39]) đã phát hiện ra rằng, giun kim đực
được lấy ra từ manh tràng gà bệnh đều chứa Histomonas còn sống. Giun cái ít có
khả năng truyền Histomonas hơn cho tới khi trứng Heterakis trưởng thành thì mới
có khả năng truyền được. Giun cái có thể bị nhiễm Histomonas trong khi giao hợp
và làm cho đơn bào H. meleagridis vào trong trứng trước khi hình thành lớp vỏ.
Lund và Chute (1973) [31] đã tìm thấy mối tương quan giữa số lượng
Heterakis và tỷ lệ mắc Histomonas. Tác giả cho rằng H. meleagridis được giải
phóng khi Heterakis chết.
b) Truyền bệnh gián tiếp qua giun đất
* Giun đất
+ Đặc điểm chung về hình thái bên ngoài:
Giun đất hay trùn đất thuộc ngành hoàn tiết trùng (Annelida) lớp
lygochaetae, họ lumbricidae. Giun có phân đốt bên ngoài và bên trong cơ thể cũng
chia thành từng đốt tương ứng, ngăn cách gần như những phần độc lập. Số lượng
đốt biến thiên từ 110 - 180 đốt. Di chuyển nhờ các sợi tơ ngắn hai bên hông.
10
Giống giun quế (Perionyx excavatus) là một loại giun đất, có mùi gần giống
như mùi quế nên gọi là giun quế. Giun trưởng thành dài 10 - 15 cm, dường kính từ
0,1 - 0,2 cm, cân nặng xấp xỉ 1 gam. Giun có màu đỏ, sậm hơn ở mặt lưng và nhạt
dần về phía bụng.
+ Các cơ quan của giun đất:
Hệ thống tiêu hóa là một hệ thống bắt đầu từ lỗ miệng ở đỉnh đầu tiếp nhận
thức ăn và tận cùng là hậu môn ở đốt cuối. Tham gia tiêu hóa thức ăn có mề, dạ
dày, và manh tràng. Thức ăn từ dạ dày vào ruột có dạng hồ nhuyễn thuận lợi cho
việc hấp thụ các dưỡng chất ở ruột. Các chất không tiêu hóa được tích tụ ở trực

tràng và được đẩy ra ngoài dưới dạng các viên tròn rất nhỏ (phân giun).
Hệ thống sinh dục: Giun đất là động vật lưỡng tính, trên một cơ thể có đủ cả
cơ quan sinh dục đực và cái. Tuy nhiên để sinh sản được, giun phải tiến hành thụ tinh
chéo nhau. Giun đất từ 60 - 90 ngày tuổi, xuất hiện đai sinh dục, đó là lúc giun bắt
đầu sinh sản. Đai sinh dục chiếm khoảng 3 đốt thân về phía đầu (khoảng từ đốt 13 -
15), có màu đỏ nhạt. Phần cuối sát sau đai ở đốt 15 có các lỗ sinh dục đực để chuyển
tinh qua cá thể khác khi giao hợp. Ở đốt 14 có các lỗ sinh dục cái, nằm bên trong
màng đai sinh dục. Khi trứng rụng qua lỗ sinh dục cái ra ngoài, sau đó màng đai tróc,
tuột ra về phía đầu có mang theo trứng vừa rụng. Khi qua đốt 9 - 10, nơi có các lỗ của
túi dựng tinh (tinh do con khác chuyển sang), tinh từ các túi đựng tinh tiết ra phủ lên
trứng, sự thụ tinh diễn ra. Màng đai sinh dục tiếp tục tuột ra khỏi đầu của giun, 2 đầu
màng đai thắt lại tạo thành kén, nằm lẫn trong môi trường và 21 ngày sau, giun con
nở và chui ra khỏi kén. Vị trí đai sinh dục trên cơ thể giun thay đổi tùy theo loài.
Hệ thống tuần hoàn là 1 hệ thống khép kín, có các đôi tim ở phía trước đầu.
Máu không có hồng cầu, huyết sắc tố tan trong huyết tương, các mao quản huyết lan
tỏa vách cơ thể, lấy Oxy và nhả khí Carbonic trực tiếp qua màng cutin ẩm ướt bao
bọc bên ngoài cơ thể giun. Vì vậy nếu màng này bị khô sẽ hạn chế sự hô hấp của
giun, có thể làm cho giun chết. Ngoài ra trong máu giun còn có bạch cầu, giúp giun
chống đỡ bệnh tật.
11
Hệ thần kinh của giun gồm có 2 hạch thần kinh ở đầu (hạch não) và các hạch
thần kinh bụng, chúng được nối với nhau bởi các dây thần kinh. Ngoài ra giun còn
có một số tế bào cảm nhận được ánh sáng nằm phân tán dưới da, chủ yếu ở lần đầu.
* Truyền bệnh gián tiếp qua giun đất
Khi nghiên cứu về vai trò của giun đất trong việc truyền tải bệnh đầu đen,
Curtice (1907) [14] đã tiến hành thí nghiệm cho gà khỏe ăn giun đất thu thập từ
vùng có gà bị nhiễm bệnh. Theo dõi một thời gian thấy gà xuất hiện triệu chứng, mổ
khám kiểm tra gan và manh tràng có bệnh tích điển hình của bệnh đầu đen. Kết quả
trên đã chứng minh rằng sự lan truyền bệnh đầu đen từ gia cầm này sang gia cầm
khác còn do gia cầm ăn phải giun đất mang ấu trùng giun kim (H. gallinarum) chứa

H. meleagridis. Theo tác giả, giun đất chính là tác nhân làm dịch bệnh đầu đen phát
triển. Đây là một phát hiện quan trọng vì đã xác định được vật chủ trung gian truyền
bệnh, từ đó có những khuyến cáo để ngăn ngừa bệnh đầu đen.
Lund và cs (1956) [30] báo cáo: sau khi cho gà và gà tây ăn giun đất chứa ấu
trùng H. gallinarum mang mầm bệnh, thấy gà mắc bệnh đầu đen, mổ khám gà có
bệnh tích điển hình ở gan và manh tràng. Sau đó, các tác giả tiến hành đun nóng
giun đất trong phòng thí nghiệm, quan sát thấy rất nhiều ấu trùng giun kim (H.
gallinarum) nổi lên trên bề mặt cơ thể. Một lần nữa các nhà nghiên cứu kết luận
giun đất chính là vật chủ trung gian chứa ấu trùng giun kim mang mầm bệnh
Histomonosis gây bùng phát bệnh đầu đen.
Kemp và cs (1975) [26] cho biết: gà trống và gà tây bị nhiễm cả Histomonas
meleagridis và Heterakis gallinarum khi cho ăn giun đất từ nơi trước đây mầm
bệnh đã xảy ra.
Gà có thể mắc bệnh đầu đen khi vô tình ăn phải giun đất có chứa trứng giun
kim nhiễm H. meleagridis. Khi ký sinh trong giun đất cùng ấu trùng giun kim, H.
meleagridis có thể tồn tại hơn 1 năm. Sau khi gà và gà tây nuốt phải giun đất nhiễm
bệnh, ấu trùng giun kim sẽ di hành xuống manh tràng đồng thời các đơn bào H.
meleagridis cũng được giải phóng và gây bệnh.
DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 4.1. Thực trạng phòng chống dịch bệnh cho gà tại huyện Phú Bình,
tỉnh Thái Nguyên 36
Bảng 4.2. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà tại một số địa phương của
huyện Phú Bình 37
Bảng 4.3. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo lứa tuổi 39
Bảng 4.4. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo phương thức chăn nuôi 42
Bảng 4.5. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo kiểu nền chuồng nuôi gà 43
Bảng 4.6. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo tình trạng vệ sinh thú y 44
Bảng 4.7. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun kim ở gà mổ khám 46

Bảng 4.8. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis trong số gà nhiễm giun kim 49
Bảng 4.9. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis trong số gà không nhiễm giun kim 50
Bảng 4.10. Sự ô nhiễm trứng giun kim ở nền chuồng, xung quanh chuồng và vườn
chăn thả gà 51
Bảng 4.11. Hiệu lực của phác đồ điều trị bệnh đầu đen cho gà trên thực địa 53
13
Sau đó, các nhà nghiên cứu khác đã thay đổi môi trường của DeVolt và tiến
hành nuôi cấy H. meleagridis ở các môi trường khác nhau. Lesser (1960b) [28] thử
nghiệm thay thế huyết thanh ngựa bằng sữa tươi và sữa bò. Ông nhận thấy chỉ có
sữa tươi đã được tiệt trùng hoặc chưa tiệt trùng và được lọc qua màng lọc Selas (0,6
micron) là có kết quả tương tự với huyết thanh ngựa. Việc thay thế sữa tươi bằng
sữa bò tươi cũng không đạt kết quả.
Sau này Lesser (1960b) [28] đã nuôi cấy H. meleagridis trong môi trường
M199 pha loãng 10 lần bằng nước cất và bổ sung 10 % kem tươi đã được lọc hoặc
huyết thanh gà tây và 0,05 % NaHCO
3
. Nhận thấy H. meleagridis sinh trưởng tốt.
McDougald và Galloway (1970) [32] khẳng định rằng: Môi trường nuôi cấy
đơn bào H. meleagridis tốt nhất là môi trường Dwyers (1970). Môi trường này bao
gồm 85 % M199; 5 % chiết xuất phôi thai gà và 10 % huyết thanh cừu hoặc huyết
thanh ngựa, điều chỉnh pH 7,8. H. meleagridis phát triển nhanh trong môi trường
này và được sử dụng để chẩn đoán, xét nghiệm Histomonosis từ 28 - 48 giờ sau khi
nuôi cấy.
2.1.2. Bệnh đầu đen (Histomonosis) ở gà
2.1.2.1. Lịch sử bệnh
Bệnh đầu đen được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1893 ở Rhode Island
(Cushman, 1894) [15]. Tuy nhiên, các báo cáo của Trạm thực nghiệm nông nghiệp
tại địa phương về tình hình dịch bệnh từ năm 1891 đã đề cập về một " bệnh khó
hiểu" xuất hiện trên đàn gà tây, với triệu chứng chung là da vùng đầu bị biến đổi
màu, gà mắc bệnh tỷ lệ chết cao, gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi gà tây.

Những người nông dân địa phương căn cứ vào triệu chứng đặc biệt đã quan sát
được ở vùng đầu của gà tây mắc bệnh: mào thâm tím, da mép và da vùng đầu xanh
xám, thậm chí xanh đen nên gọi tên bệnh là bệnh “đầu đen” Cushman (1894) [15]).
Kể từ khi bệnh “đầu đen” xuất hiện phổ biến, các nhà khoa học đã tập trung
nghiên cứu về bệnh. Sau một thời gian nghiên cứu, người ta nhận thấy dấu hiệu biến
đổi da vùng đầu không phải là dấu hiệu đặc trưng cho bệnh, vì nó còn có thể quan sát
thấy trong một số bệnh khác của gà tây. Theo Smith T. (1895) [40], khi gà tây mắc
14
bệnh thì gan và manh tràng là 2 cơ quan bị tổn thương nặng nề nhất. Tác giả đã lấy
bệnh phẩm là gan và manh tràng của gà để nghiên cứu và xác định được nguyên nhân
gây bệnh là một sinh vật đơn bào (Amoeba meleagridis). Từ đó, bệnh đã được đặt tên
là bệnh truyền nhiễm Enterohepatitis. Nghiên cứu kỹ hơn, Tyzzer (1920a) [42] đã xác
định được nguyên nhân gây bệnh và gọi tên sinh vật đơn bào gây bệnh đó là H.
meleagridis. Từ đó, bệnh cũng được gọi bằng tên khoa học là Histomoniasis. Tuy
nhiên, vì lý do tiêu chuẩn hóa đã được đề xuất (năm 1990) về việc sử dụng hậu tố osis
cho các bệnh ký sinh trùng, do đó bệnh có tên khoa học là Histomonosis.
Sau sự bùng nổ đầu tiên ở Rhode Island, Histomonosis đã nhanh chóng lây lan
trên đàn gà tây khắp nước Mỹ và gây thiệt hại nhiều nhất trong số các bệnh gặp trên gà
tây. Tiếp sau Hoa Kỳ, bệnh xảy ra tại Nhật Bản vào năm 1905 (Watanabe, 1910).
Ở Đông Âu, Mincheva đã thông báo bệnh có mặt ở Bungari vào 1950. Ngày
nay, bệnh có mặt trên khắp năm châu, nhất là ở các nước có ngành chăn nuôi gà tây
và gà theo lối tập trung chăn thả.
Một số nước khác ở châu Âu, dịch Histomonosis cũng xuất hiện và đã được báo
cáo ở Áo (2006), Bỉ (2007), Anh (2007) và Hà Lan (2009). Ngày nay, Histomonosis là
bệnh phổ biến trên toàn thế giới (McDougald, 2005) [35].
Ở Việt Nam, bệnh được phát hiện vào tháng 3 năm 2010 (Lê Văn Năm và
cs) [8] đã quan sát thấy hàng loạt đàn gà nuôi tập trung thả vườn tại một số tỉnh phía
bắc bị mắc bệnh. Bệnh gây thiệt hại về kinh tế cho người chăn nuôi, làm ảnh hưởng
sâu sắc đến đời sống xã hội của một bộ phận không nhỏ người dân ở nước ta.
2.1.2.2. Những thiệt hại kinh tế do Histomonosis gây ra

Trong những thập kỷ gần đây, Histomonosis đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng
cho ngành chăn nuôi gia cầm, đặc biệt là gà và gà tây. Những năm 1930, dịch bệnh
đầu đen đã phá hủy hầu như hoàn toàn ngành chăn nuôi gà tây ở khu vực Đông và
Trung Tây của Hoa Kỳ. Trong năm 1945, bệnh đầu đen chiếm 32,2 % tỉ lệ chết của
gà tây ở Bắc Carolina.
Những năm tiếp theo dịch bệnh đầu đen ở gia cầm vẫn thường xuyên phát
triển, tiếp tục gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế cho người chăn nuôi.
15
Ổ dịch Histomonosis trên đàn gà tây, tỷ lệ chết 25 - 75 % đã được báo cáo ở
California vào năm 2001 (Jinghui hu, 2002) [24].
Từ tháng 4 năm 2003 đến tháng 3 năm 2005, ở Pháp xuất hiện 113 ổ dịch
Histomonosis trên gà tây, trong đó có 15 ổ dịch ở các trang trại gà giống. Năm 2009 có
sự bùng nổ của dịch Histomonosis ở gà tây 9 đến 11 tuần tuổi với tỷ lệ chết 24 - 68 %.
McDougald (2008) [36] khi nghiên cứu bệnh đầu đen ở khu vực Bắc Mỹ đã
báo cáo: Bệnh gây thiệt hại nghiêm trọng đến đàn gà tây nuôi tập trung, tỷ lệ tử
vong lên đến 80 - 100 %. Mặt khác, bệnh cũng được tìm thấy ở gà nhưng tỷ lệ chết
chỉ đạt 10 %.
Theo Saif Y. M. (2008) [38] gia cầm mắc bệnh tử vong cao chủ yếu do
tổn thương gan. Tỷ lệ tử vong cao từ ngày thứ 14 sau khi thể hiện triệu chứng
lâm sàng.
Van der Heijden H (2009) [47] tiếp tục báo cáo rằng: Ở California một đợt
bùng phát Histomonosis tiếp tục gây tỷ lệ tử vong cao cho gà tây từ 9 - 11 tuần tuổi.
Dấu hiệu lâm sàng bao gồm: ăn ít hoặc bỏ ăn, ủ rũ, tiêu chảy, giảm cân và tỷ lệ tử
vong tăng khi gà ở 3 - 13 tuần tuổi. Gà tây mắc bệnh ở 7 tuần tuổi, tỷ lệ tử vong từ
24 - 68 %. Mổ khám thấy gan phì đại, trên bề mặt gan xuất hiện các nốt trắng nhạt
khác nhau, kích thước 0,3 - 1,5 cm. Thành manh tràng dày lên, niêm mạc bị lở loét,
túi Fabricius sưng to và có tiết dịch màu vàng nhạt. Thận, tuyến tụy, lá lách sưng.
Quan sát dưới kình hiển vi thấy có nhiều ổ hoại tử trong gan, manh tràng, phúc mạc,
túi Fabricius, thận, phổi, tuyến tụy,…
Hauck và cs (2010) [20] báo cáo: Histomoniasis là một căn bệnh nghiêm

trọng gây ra bởi kí trùng đơn bào H. meleagridis. Tại Đức trong khoảng thời gian từ
2004 đến 2008, có ít nhất 35 vụ dịch xảy ra ở gà tây, gây thiệt hại lớn về kinh tế cho
người chăn nuôi. Trong báo cáo ông đã mô tả sự tiếp diễn liên tục qua các năm của
bệnh đầu đen tại một trang trại chăn nuôi gà tây ở Đức. Ổ dịch xảy ra lần đầu tiên
vào năm 2005 khi gà đạt 17 tuần tuổi. Ổ dịch thứ 2 xảy ra vào năm 2009 khi gà 8
tuần tuổi. Tỷ lệ tử vong tăng đến 26 - 65 % trong vài ngày mặc dù điều trị với các

×