Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Một số giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên trung tâm giới thiệu việc làm tỉnh vĩnh long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.99 KB, 114 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
___________________
NGUYỄN DIỆU HIỀN
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN TRUNG TÂM GIỚI THIỆU
VIỆC LÀM TỈNH VĨNH LONG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Nghệ An - 2014
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
___________________
NGUYỄN DIỆU HIỀN
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN TRUNG TÂM GIỚI THIỆU
VIỆC LÀM TỈNH VĨNH LONG
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Minh Hùng
Nghệ An - 2014
LỜI CẢM ƠN
Sau hai năm học tập và nghiên cứu đến nay Luận văn tốt nghiệp đã hoàn
thành. Với tình cảm kính trọng, chân thành và lòng biết ơn sâu sắc nhất, tác giả
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
- Ban giám hiệu, các phòng chuyên môn trường Đại Học Vinh;
- Phòng Đào tạo Đại học trường Đại Học Vinh đã tạo điều kiện cho tác giả
được học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn;


- Quý thầy, cô giáo, cán bộ giảng dạy trường Đại Học Vinh đã trực tiếp
giảng dạy và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn này;
- Ban giám hiệu trường Đại học Đồng Tháp đã tạo điều kiện, cơ sở vật chất
phục vụ lớp học;
Luận văn được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan ban
ngành, bạn bè, đồng nghiệp.
Tác giả bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Phòng dạy nghề trực thuộc Sở
Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Vĩnh Long; Ban Lãnh đạo và tập thể cán
bộ, viên chức, giáo viên Trung tâm Giới thiệu việc làm tỉnh Vĩnh Long đã tận
tình cung cấp nhiều thông tin và tư liệu quý giá cho luận văn.
Đặc biệt tác giả bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc tới
PGS.TS. Phạm Minh Hùng đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tác giả
trong suốt quá trình nghiên cứu và sớm hoàn thành luận văn này đúng thời gian
và tiến độ.
Xin cảm ơn các đồng nghiệp, bạn bè và gia đình những người luôn bên
cạnh động viên, khuyến khích tinh thần và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,
nghiên cứu thực hiện đề tài.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn, bản thân tác giả
đã có nhiều cố gắng, song luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính
mong quý thầy, cô giáo góp ý để luận văn được hoàn thiện hơn.
Trân trọng!
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Diệu Hiền
1
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ

GIÁO VIÊN CỦA TRUNG TÂM GIỚI THIỆU VIỆC LÀM 6
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề 6
1.2 Các khái niệm cơ bản của đề tài 14
1.2.1 Giáo viên và đội ngũ giáo viên của Trung tâm Giới thiệu việc làm 14
1.2.2 Phát triển và phát triển đội ngũ giáo viên của Trung tâm Giới thiệu
việc làm 18
1.2.3 Giải pháp và giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên của Trung tâm
Giới thiệu việc làm 20
1.3 Người giáo viên ở Trung tâm Giới thiệu việc làm trong bối cảnh
hiện nay 20
1.3.1 Vị trí, vai trò của người giáo viên ở Trung tâm Giới thiệu việc làm
trong bối cảnh hiện nay 20
1.3.2 Yêu cầu về phẩm chất, năng lực đối với người giáo viên ở Trung
tâm Giới thiệu việc làm trong bối cảnh hiện nay 23
1.3.3 Những thách thức đối với người giáo viên ở Trung tâm Giới thiệu
việc làm trong bối cảnh hiện nay 29
1.4 Một số vấn đề về phát triển đội ngũ giáo viên ở Trung tâm Giới
thiệu việc làm 30
1.4.1 Sự cần thiết phải phát triển đội ngũ giáo viên ở Trung tâm Giới
thiệu việc làm 30
1.4.2 Nội dung, phương pháp phát triển đội ngũ giáo viên ở Trung tâm
Giới thiệu việc làm 33
1.4.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển đội ngũ giáo viên ở
Trung tâm Giới thiệu việc làm 37
2
Chương 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI
NGŨ GIÁO VIÊN TRUNG TÂM GIỚI THIỆU VIỆC LÀM TỈNH
VĨNH LONG 43
2.1 Khái quát về Trung tâm Giới thiệu việc làm tỉnh Vĩnh Long 43
2.2 Thực trạng đội ngũ giáo viên của Trung tâm Giới thiệu việc làm

tỉnh Vĩnh Long 52
2.2.1 Về số lượng 52
2.2.2 Về cơ cấu 53
2.2.3 Về chất lượng 56
2.3 Thực trạng phát triển đội ngũ giáo viên của Trung tâm Giới thiệu
việc làm tỉnh Vĩnh Long 57
2.3.1 Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên 57
2.3.2 Công tác quy hoạch 62
2.3.3 Công tác thực hiện chế độ đối với giáo viên 63
2.4 Nguyên nhân của thực trạng 63
2.4.1 Nguyên nhân thành công 63
2.4.2 Nguyên nhân hạn chế, thiếu sót 65
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO
VIÊN TRUNG TÂM GIỚI THIỆU VIỆC LÀM TỈNH VĨNH LONG 70
3.1 Nguyên tắc đề xuất giải pháp 70
3.2 Các giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên của Trung tâm Giới
thiệu việc làm tỉnh Vĩnh Long
71
3.2.1 Nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý giáo dục các cấp về sự
cần thiết phải phát triển đội ngũ giáo viên của Trung tâm Giới thiệu
việc làm tỉnh Vĩnh Long
71
3.2.2 Xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ giáo viên của Trung tâm
Giới thiệu việc làm tỉnh Vĩnh Long một cách khoa học 74
3
3.2.3 Tổ chức tốt công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên của Trung tâm Giới thiệu việc làm
tỉnh Vĩnh Long 80
3.2.4 Thường xuyên đánh giá, xếp loại đội ngũ giáo viên của Trung
tâm Giới thiệu việc làm tỉnh Vĩnh Long 84

3.2.5 Đảm bảo các điều kiện để phát triển đội ngũ giáo viên của Trung
tâm Giới thiệu việc làm tỉnh Vĩnh Long 87
3.3 Thăm dò sự cần thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất 90
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
PHỤ LỤC NGHIÊN CỨU
4
DANH MỤC VIẾT TẮT
CNH - HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DVVL : Dịch vụ việc làm
GTVL : Giới thiệu việc làm
LĐ - TBXH : Lao động, Thương binh và Xã hội
5
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1: Cơ cấu chi phí đào tạo nghề - Phòng Đào tạo 40
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của Trung tâm Giới thiệu việc làm tỉnh Vĩnh
Long
46
Sơ đồ 2.2: Cán bộ lãnh đạo của Trung tâm Giới thiệu việc làm tỉnh
Vĩnh Long
47
Bảng 2.1: Số lượng học viên học nghề tại Trung tâm Giới thiệu việc
làm tỉnh Vĩnh Long 50
Bảng 2.2: Số lượng học viên học ngoại ngữ theo chương trình xuất
khẩu lao động tại Trung tâm Giới thiệu việc làm tỉnh Vĩnh Long 51
Bảng 2.3: Cơ cấu độ tuổi của giáo viên 54
Bảng 2.4: Thực trạng giáo viên tại Trung tâm Giới thiệu việc làm Vĩnh
Long
55

Bảng 2.5: Đánh giá giáo viên về kỹ năng sư phạm (qua cán bộ quản lý) 61
Bảng 3.1: Dự báo nhu cầu giáo viên đối với từng nghề tại Trung tâm
Giới thiệu việc làm tỉnh Vĩnh Long 77
Bảng 3.2: Cơ cấu ngành nghề tại Trung tâm Giới thiệu việc làm tỉnh
Vĩnh Long
77
Bảng 3.3: Cơ cấu ngành nghề dự kiến mở rộng tại Trung tâm Giới
thiệu việc làm tỉnh Vĩnh Long 78
Sơ đồ 3.1: Mối quan hệ giữa các giải pháp đề xuất 91
Bảng 3.4: Thăm dò mức độ cần thiết và khả thi của các giải pháp 92
6
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học ngày càng cao đã gây tình
trạng “thừa thầy thiếu thợ” đồng thời với tâm lý lo sợ thất nghiệp nên có rất
nhiều người đã không chọn con đường vào đại học mà theo cuộc sống mưu sinh.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, máy móc có thể dần dần thay thế
con người thì nỗi lo về thất nghiệp, thiếu việc làm ngày càng trở nên gay gắt.
Tình trạng thất nghiệp đã và đang diễn biến phức tạp kìm hãm quá trình phát
triển nền kinh tế của nước ta. Đó cũng là lý do làm cho học sinh, sinh viên có xu
hướng trở thành những người lao động phổ thông.
Do vậy, việc đào tạo nghề là nhu cầu cần thiết và là yếu tố quyết định cho
việc phát triển nền công nghiệp của nước ta trong giai đoạn công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước hiện nay. Và khi đó đội ngũ giáo viên cũng góp phần đặc
biệt quan trọng mang tính quyết định tới chất lượng, hiệu quả và tạo nên sự
thành công cho sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo.
Cũng như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định “Phát triển
giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; là điều kiện để phát huy nguồn lực con người,
yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng nhanh và bền vững”. Sang Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định “Phát triển, nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công
nghệ và kinh tế tri thức. Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho
người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. Sức ép
về lao động và việc làm càng lớn, người lao động mất hoặc thiếu việc làm càng
1
nhiều phần lớn ở khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, chủ yếu là lao động phổ
thông, tay nghề kém.
Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo đến năm 2020 bao
gồm nhiều dự án trong đó có dự án “Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý cơ sở giáo dục” và “Tăng cường năng lực giáo dục nghề nghiệp”. Tuy
nhiên công tác đào tạo nghề cũng đang đứng trước những thách thức và khó
khăn do Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập quốc tế và đã là thành viên chính
thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Vì thế nhu cầu lao động đã qua
đào tạo trở thành một nhu cầu thiết yếu mà hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu
cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Trung tâm Giới thiệu việc làm (GTVL) tỉnh Vĩnh Long được thành lập từ
năm 1989 và đi vào hoạt động từ năm 1991, trực thuộc Sở LĐ - TBXH tỉnh Vĩnh
Long. Trung tâm GTVL được đổi tên và thành lập lại theo Quyết định số
364/QĐ-UBT ngày 01/03/2006 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long bổ sung
thêm chức năng Bảo hiểm thất nghiệp và tích hợp cơ sở dữ liệu của Sàn giao
dịch việc làm. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động là chính sách của Đảng và Nhà
nước ta góp phần giải quyết việc làm và cải thiện đời sống cho nhiều người dân,
tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước và nhiều lợi ích kinh tế khác. Do vậy việc đào
tạo nghề và ngoại ngữ cho người lao động là công việc hàng đầu mà trung tâm
luôn đặt ra nhằm giúp cho người lao động có được những nền tảng đầu tiên khi
tham gia xuất khẩu lao động. Theo nhận xét của các quốc gia như Nhật bản, Hàn
quốc thì lao động Việt Nam đa phần là những lao động không có tay nghề, chỉ
tập trung chủ yếu vào lao động phổ thông đồng thời trình độ ngoại ngữ còn kém
vì thế mức lương mà các doanh nghiệp ở các quốc gia trên cũng trả cho người

lao động Việt Nam thấp hơn lao động đến từ những quốc gia khác là 30-40%.
2
Thêm vào đó, tỷ lệ lao động thất nghiệp ngày càng cao, chủ yếu là công nhân tại
các khu công nghiệp, khu chế xuất và đa phần họ là những người lao động không
có tay nghề.
Xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn trên, Trung tâm GTVL tỉnh Vĩnh
Long là đơn vị chủ lực trong công tác đào tạo nghề trình độ sơ cấp, ngắn hạn và
đào tạo ngoại ngữ cho người lao động thuộc đối tượng tham gia xuất khẩu lao
động; đào tạo nghề sơ cấp, ngắn hạn cho người lao động thuộc diện hưởng chế
độ chính sách bảo hiểm thất nghiệp, lao động nông thôn theo Đề án 1956 của
Thủ tướng Chính phủ, đối tượng là lao động có nhu cầu tìm việc làm trong và
ngoài tỉnh. Do vậy cần phải có đội ngũ giáo viên mạnh về số lượng và cả chất
lượng. Đội ngũ giáo viên là điều kiện quan trọng nhất quyết định chất lượng của
hoạt động đào tạo, yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển vững mạnh của
Trung tâm GTVL tỉnh Vĩnh Long. Mỗi giáo viên trong trung tâm phải là những
người vững về chuyên môn, giỏi về nghiệp vụ sư phạm, có đạo đức nhằm giúp
đào tạo ra một đội ngũ lực lượng lao động có tay nghề phù hợp với nhu cầu của
thực tiễn. Đó là lý do chúng tôi chọn đề tài “Một số giải pháp phát triển đội ngũ
giáo viên Trung tâm GTVL tỉnh Vĩnh Long” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp có cơ
sở khoa học, có tính khả thi cao để phát triển đội ngũ giáo viên Trung tâm GTVL
tỉnh Vĩnh Long, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
3. Khách thể và Đối tượng nghiên cứu.
3.1 Khách thể nghiên cứu
Vấn đề phát triển đội ngũ giáo viên ở các Trung tâm GTVL.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
3
Một số giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên của Trung tâm GTVL tỉnh
Vĩnh Long.

4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất và thực hiện được các giải pháp có cơ sở khoa học và có tính
khả thi thì có thể phát triển được đội ngũ giáo viên của Trung tâm GTVL tỉnh
Vĩnh Long đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và đảm bảo chất lượng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề phát triển đội ngũ giáo viên của
Trung tâm GTVL.
5.2 Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề phát triển đội ngũ giáo viên của
Trung tâm GTVL tỉnh Vĩnh Long.
5.3 Đề xuất một số giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên của Trung tâm
GTVL tỉnh Vĩnh Long.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Nhm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin lý luận để xây dựng cơ
sở lý luận của đề tài. Thuộc nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận có các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu.
- Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập.
6.2 Nhm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây dựng
cơ sở thực tiễn của đề tài. Thuộc nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn có các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp điều tra.
4
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
- Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
6.3 Phương pháp thống kê toán học
Để xử lý các số liệu các kết quả nghiên cứu, trên cơ sở đó có nhận định,
đánh giá đúng đắn, chính xác các kết quả nghiên cứu.

7. Đóng góp của luận văn
- Về mặt lí luận: Luận văn đã khái quát cơ sở lý luận của công tác phát
triển đội ngũ giáo viên của Trung tâm GTVL và sự cần thiết của việc đưa ra giải
pháp phát triển đội ngũ giáo viên của Trung tâm GTVL.
- Về mặt thực tiễn: Khảo sát thực trạng và đề xuất những giải pháp có tính
khoa học và khả thi cao nhằm phát triển đội ngũ giáo viên của Trung tâm GTVL.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
chia thành 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề phát triển đội ngũ giáo viên của Trung
tâm GTVL.
- Chương 2: Cơ sở thực tiễn của vấn đề phát triển đội ngũ giáo viên của Trung
tâm GTVL tỉnh Vĩnh Long.
- Chương 3: Một số giải pháp để phát triển đội ngũ giáo viên của Trung tâm
GTVL tỉnh Vĩnh Long.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
CỦA TRUNG TÂM GIỚI THIỆU VIỆC LÀM
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Những nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới, các nước như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Singapore… luôn xem
giáo viên là điều kiện tiên quyết của sự nghiệp và phát triển giáo dục.
Ở Trung Quốc, việc phát triển đội ngũ giáo viên từ cuộc cải cách năm 1985 do
đây là vấn đề gây áp lực nhất mà các nhà cải cách giáo dục phải đối mặt. Sự thiếu hụt
giáo viên có chất lượng dẫn đến sự trì trệ nghiêm trọng trong phát triển giáo dục.
Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, chính phủ đã khởi động “chương trình quốc gia
về mạng lưới đào tạo giáo viên” nhằm đạt mục đích là hiện đại hóa giáo viên, cải tiến
mạnh mẽ chất lượng giảng dạy thông qua chương trình đào tạo “quy mô lớn, chất
lượng cao, hiệu quả cao”. Để thu hút được nhiều giáo viên hơn, Trung Quốc đã nỗ lực

đưa nghề dạy học trở thành nghề hấp dẫn và được tôn trọng hơn. Để giảm tình trạng
thiếu hụt, năm 1986, chính phủ đã cử giảng viên đến các vùng chưa phát triển để đào
tạo giáo viên cho các trường địa phương. Trải qua nhiều năm, Trung Quốc đã thực
hiện nhiều Chương trình cải cách mang tính đột phá. Trong giai đoạn này, Trung
Quốc xem nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất thúc đẩy sự phát triển bền vững
của xã hội, phát triển đất nước giàu mạnh hơn [18; tr.73].
Ở Nhật Bản, ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai, trở thành một nước bại
trận nhưng đã nhận thức rõ ràng điều kiện phát triển của nước mình chính là con
người. Họ đã nhận thức rất tốt vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của đất
nước. Hệ thống giáo dục được sửa đổi liên tục nhằm thực hiện hai ưu tiên là cưỡng
bách giáo dục nhằm phổ cập hóa hệ thống giáo dục tiểu học và lập các loại trường
6
dạy nghề cho thanh niên đồng thời tổ chức đào tạo qua các khóa chuyên tu (nông,
công, lâm, ngư nghiệp, thủy sản, dệt,…). Nhật Bản đã thực hiện nhiều công cuộc cải
cách giáo dục. Nâng cao đào tạo nghề kỹ thuật và điển hình là cải cách giáo dục cuối
thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Trong đó, việc xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên
cũng là một trong những yếu tố quan trọng mà Nhật Bản đã tập trung cải cách trong
hệ thống giáo dục của mình nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo cho lực lượng lao
động kỹ thuật, có tay nghề nhằm định hướng phát triển Nhật Bản cho phù hợp với
thời đại “vi tính hóa” và “robot hóa”. Điều này đã đem lại những thành tựu rực rỡ
trong khoa học kỹ thuật và đưa Nhật Bản đạt được những bước tiến đột phá trong
công nghệ về mọi mặt trên thế giới [18; tr.115].
Ngay từ đầu những năm 60 của thế kỷ thứ XX, ở các nước tư bản phát triển
Đức, Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản đã quan tâm đến vấn đề đào tạo nghề và quản lý quá
trình đào tạo nghề nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội công nghiệp. Do đặc điểm, yêu
cầu về nguồn nhân lực, đội ngũ công nhân kỹ thuật ở mỗi nước có khác nhau nên
không chỉ có lĩnh vực đào tạo nghề mà cả phương pháp, hình thức, qui mô đào tạo
nghề cũng có sự khác nhau song có đặc điểm chung là đều chú trọng đến phát triển
kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp.
Ở Anh, Luật Giáo dục 1944 có giá trị ảnh hưởng quan trọng đến hệ thống giáo

dục, tập trung vào phát triển những giá trị đạo đức, tinh thần, văn hóa cho trẻ nhưng
vẫn tạo ra nhiều sự bất cập đòi hỏi Anh phải thực hiện cuộc cải cách mới. Những năm
1945, Anh đặt mục tiêu cải cách giáo dục theo hướng đào tạo ra những công dân,
những nhà lãnh đạo để có thể đóng góp tốt nhất cho sự phát triển xã hội. Đến năm
1965, Đảng Lao động đã quyết tâm cải tổ hệ thống giáo dục của Anh tạo nền tảng cho
công cuộc cải cách giai đoạn 1997 - 2007. Trong giai đoạn này, Anh tiến hành cải
cách trên diện rộng để đảm bảo rằng việc áp dụng những hoạt động đổi mới có hiệu
7
quả hơn. Chính phủ đã xây dựng chương trình đào tạo, phát triển đội ngũ giáo viên và
tổ chức một chương trình quan hệ công chúng toàn quốc để đánh giá cao sự nghiệp
giảng dạy và triển vọng giáo viên. Bằng cách đó, Anh đã thu hút nhiều giáo viên trẻ
tài năng vào hệ thống giáo dục [18; tr.133].
Nền giáo dục hiện đại của Phần Lan được xếp vào nhóm hàng đầu trên thế
giới. Hệ thống giáo dục hiện nay chủ yếu dựa trên những cải cách từ những năm
1970. Chương trình bổ túc và bồi dưỡng giáo viên nhằm phát triển lực lượng giáo
viên giỏi được tổ chức rất công phu. Nhiều nghiên cứu đã xuất hiện quan tâm đến
việc giáo viên dạy nghề nên được đào tạo như thế nào, những yêu cầu đòi hỏi về trình
độ. Sau khi sang Đức học tập kinh nghiệm, ông Jalmari Kekkonen, một nhà nghiên
cứu về giáo dục nghề nghiệp đã bắt đầu tổ chức nhiều khóa nghiệp vụ sư phạm cho
giáo viên tại các trường dạy nghề, tập trung vào các khía cạnh: nhân cách, kỹ năng
thực hành, kiến thức và kỹ năng sư phạm. Giáo sư Oiva Kyostio là một trong những
nhà tiên phong thực hiện các công trình nghiên cứu nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên
dạy nghề và đến năm 1986, Phần Lan đã đưa ra những chương trình mới cho việc đào
tạo và phát triển đội ngũ giáo viên. Ngày nay, trình độ giáo viên dạy nghề Phần Lan
đã và đang đáp ứng được yêu cầu của xã hội về giáo dục nghề nghiệp tại Phần Lan
[18; tr.160].
Nền giáo dục Hoa Kỳ đã phát triển ngay từ khi những nhóm người di cư Châu
Âu đầu tiên đặt chân đến Bắc Mỹ và hiện nay đã trở thành nền giáo dục tiên tiến nhất
trên thế giới. Vào năm 1996, Hội nghị thượng đỉnh quốc gia về giáo dục tại New
York đã đánh dấu bước ngoặt cho công cuộc cải cách giáo dục đồng thời khẳng định

vai trò của giáo viên với thành tích của học sinh. Chính sách xây dựng, bồi dưỡng và
phát triển giáo viên được đặt ra nhằm tất cả các cộng đồng đều có giáo viên với kiến
thức và kỹ năng cần thiết để giảng dạy. Khi quyết định đưa giáo dục Hoa kỳ lên
8
hàng đầu thế giới trong thế kỷ XXI, chính phủ Hoa Kỳ đã lấy giải pháp giáo viên
làm then chốt. Khi Barack Obama lên nắm quyền, ông vẫn ưu tiên cho giáo dục và
dành một nguồn ngân sách lớn để thực hiện các cải cách giáo dục. Trong đó, một
trong năm vấn đề cốt lõi trong cải cách giáo dục đó là “Đào tạo, tuyển dụng và có chế
độ đãi ngộ đối với giáo viên giỏi” bằng cách đưa ra các chương trình khuyến khích
cho giáo viên mới cũng như tất cả giáo viên cũ nâng cao trình độ giảng dạy [18;
tr.176].
Cho đến nay hầu hết các nước trên thế giới đều bố trí hệ thống giáo dục kỹ
thuật và dạy nghề bên cạnh bậc phổ thông và đào tạo bậc cao đẳng, đại học. Do sớm
có hệ thống đào tạo nghề nên các nước tư bản phát triển đã tích lũy được nhiều kinh
nghiệm trong quá trình đào tạo một cách liên tục nhằm đổi mới để đảm bảo chất
lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của cuộc sống. Bước sang thế kỷ XXI, vấn
đề nguồn nhân lực ngày càng trở thành yếu tố quyết định đối với sự phát triển và
thịnh vượng của mỗi quốc gia.
1.1.2 Những nghiên cứu ở trong nước
Ngày nay, giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu. Theo tác giả Vũ Ngọc
Hải trong nghiên cứu “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” đã đưa ra giải
pháp cần phải xây dựng, phát triển nhanh đội ngũ nhà giáo vì đội ngũ nhà giáo là vốn
quý nhất, là nhân tố đảm bảo cho giáo dục nước ta phát triển và cạnh tranh được với
nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Chất lượng nền giáo dục nước ta
cao hay thấp phần lớn phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ nhà giáo. Xây dựng, đào tạo,
bồi dưỡng nhà giáo là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi
ngày càng cao về trình độ, chất lượng chuyên môn nghiệp vụ [24; tr.81].
9
Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt

đề án “Xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục giai
đoạn 2005 - 2010” nhằm mục tiêu xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục theo hướng chuẩn hóa, nâng cao chất lượng, bảo đảm đủ về số lượng,
đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn của nhà giáo, đáp
ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong công cuộc đẩy mạnh
CNH - HĐH đất nước.
Chỉ thị số 40-CT/TW về việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục nhằm thực hiện thành công Chiến lược phát triển giáo
dục giai đoạn 2001 - 2010 và chấn hưng đất nước đã đưa ra mục tiêu xây dựng đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về
số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm
chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo; thông qua việc quản lý, phát triển
đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực; đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Theo tác giả Cao Văn Sâm, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dạy nghề với bài
“Giải pháp xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề đến năm 2015” cho rằng
giáo viên dạy các nghề trọng điểm ở các cấp độ khác nhau, cần có định hướng xây
dựng và phát triển phù hợp. Đối với giáo viên dạy các nghề trọng điểm khu vực, quốc
tế cần đào tạo, bồi dưỡng đạt chuẩn về kỹ năng nghề, năng lực sư phạm, ngoại ngữ
theo chuẩn, chương trình của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới; giáo
viên dạy các nghề trọng điểm quốc gia cần đào tạo, bồi dưỡng đạt chuẩn quốc gia về
trình độ, kỹ năng nghề và nghiệp vụ sư phạm; đối với những người có chuyên môn
10
tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn cần tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng công nghệ
mới, kỹ năng dạy học và các năng lực khác [24; tr.120].
Theo tác giả Ngô Minh Oanh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu giáo dục, Trường
Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh với nghiên cứu “Đổi mới căn bản, toàn
diện việc tuyển sinh, đào tạo và sử dụng người thầy trong hệ thống giáo dục Việt

Nam” đã nêu ra một số thực trạng cần phải đổi mới căn bản, toàn diện việc đào tạo và
sử dụng đội ngũ giáo viên. Bên cạnh đó cũng nêu ra một số kiến nghị về đổi mới công
tác đào tạo và sử dụng giáo viên hiện nay [24; tr.145].
Theo tác giả Nghiêm Đình Vỳ , Nguyên Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung
ương với nghiên cứu “Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo là
yếu tố quyết định bảo đảm chất lượng giáo dục” khẳng định phát triển giáo dục là
trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và của toàn xã hội, trong đó, đội ngũ nhà giáo có
một vị trí vô cùng quan trọng trong xã hội, đó là người truyền đạt kiến thức, là nhà
giáo dục trong việc hình thành và phát triển kỹ năng sống, đạo đức cho học sinh, là
tấm gương sáng cho học sinh noi theo [24; tr.151].
Giáo dục nghề nghiệp được hình thành trong bối cảnh đất nước vừa mới giành
được độc lập, trong bao nhiêu bề bộn cần giải quyết đã phải chuẩn bị ngay vào cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp cực kỳ gian khổ. Nhưng đây cũng là điều kiện tiền
đề cho sự phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp của nước ta trong giai đoạn về
sau. Từ những năm 1962, Tiểu ban Giáo dục miền Nam ra đời, chỉ tập trung vào 2
loại hình đào tạo là đào tạo giáo viên và đào tạo cán bộ quản lý.
Những vấn đề về đào tạo nghề và quản lý quá trình đào tạo nghề cũng được
quan tâm ngay từ cuối những năm 70, khi đó còn là Tổng cục dạy nghề. Lúc đó một
số nhà nghiên cứu trong lĩnh vực nghề nghiệp, tâm lý học lao động (như Đặng Danh
Ánh, Nguyễn Ngọc Đường, Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Bá Dương,…) đã chủ động
11
nghiên cứu những khía cạnh khác nhau về sự hình thành nghề và công tác đào tạo
nghề. Đặc biệt một số nhà nghiên cứu khác như Đặng Quốc Bảo, Trần Kiểm đã đi sâu
vào nghiên cứu quản lý giáo dục, quản lý nhà trường.
Năm 1971, nước ta đã thành lập 2 trường đào tạo giáo viên dạy nghề trực thuộc
Tổng cục Đào tạo công nhân kỹ thuật nhằm phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề. Đó
là trường Giáo viên dạy nghề Hải Hưng theo Quyết định 242/TTg ngày 03 tháng 12
năm 1970 và trường Giáo viên dạy nghề Nam Định [18; tr.77]. Sau khi hòa bình lập
lại hệ thống các Trung tâm dạy nghề cũng tăng lên đáng kể cùng với sự gia tăng về số
lượng giáo viên dạy nghề đáp ứng nhu cầu học nghề ngày càng cao của người lao

động.
Trung tâm dạy nghề là mô hình chủ yếu và là lực lượng nòng cốt giữ vai trò
quan trọng trong công tác dạy nghề ngắn hạn. Bên cạnh đó, các Trung tâm Dịch vụ
việc làm (DVVL) được hình thành từ năm 1989. Là cầu nối giữa đơn vị sử dụng lao
động với cơ sở dạy nghề. Tính đến năm 2013 có hơn 147 trung tâm DVVL được
phân bổ hầu hết ở các tỉnh, thành phố trong cả nước, bao gồm các trung tâm DVVL
của các Sở Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐ - TBXH), các tổ chức đoàn thể và
lực lượng vũ trang. Các trung tâm DVVL đã tham gia tích cực vào việc dạy nghề cho
người lao động ở các vùng đô thị, thành phố và nông thôn, đáng kể là lao động nữ và
bộ đội xuất ngũ. Góp phần không nhỏ vào việc đào tạo và phổ cập nghề cho người lao
động.
Ngày 10/03/1997, Bộ LĐ - TBXH ban hành Thông tư số 08-TT/LĐTBXH
thống nhất đặt tên các tổ chức DVVL là Trung tâm DVVL, kèm theo tên địa
phương hoặc tên Bộ, tổ chức Đoàn thể, quần chúng.
Đến ngày 28/02/2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số
19/2005/NĐ-CP đổi tên các Trung tâm DVVL thành Trung tâm Giới thiệu việc làm
12
(GTVL), kèm theo tên địa phương, tên cơ quan Bộ, ngành, tên tổ chức chính trị - xã
hội hoặc tên đối tượng phục vụ, với các chức năng: Tư vấn về việc làm, học nghề,
chính sách có liên quan đến quan hệ lao động theo quy định của pháp luật lao động;
GTVL cho người lao động; cung ứng và tuyển lao động theo yêu cầu của người sử
dụng lao động; Thu thập, phân tích và cung ứng thông tin về thị trường lao động;
Được tổ chức dạy nghề theo quy định của pháp luật.
Tính đến năm 2013, cả nước có hơn 147 Trung tâm GTVL được thành lập và
hoạt động trên cả nước. Hệ thống Trung tâm GTVL không chỉ hình thành và phát
triển ở ngành LĐ - TBXH, mà còn phát triển cả ở những tổ chức chính trị - xã hội và
các Bộ, ngành khác. Các Trung tâm GTVL cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của thị
trường lao động, phù hợp với các quy định quốc tế về hoạt động của tổ chức việc làm,
hòa nhập với hệ thống DVVL khu vực và thế giới.
Sự kết nối trong hoạt động của các Trung tâm GTVL đã có nhiều tiến bộ đáng

kể bằng cách phối hợp trong hoạt động GTVL và cung ứng lao động, dạy nghề theo
quy định của pháp luật, thông tin cho nhau về nhu cầu tuyển dụng và nguồn lao động.
Trong xu thế mở cửa, hòa nhập với hoạt động kinh tế thị trường, ngành giáo
dục nghề nghiệp bắt đầu chú trọng đến mục tiêu đáp ứng nhu cầu thị trường: đa dạng
hóa các mục tiêu, chương trình và hình thức tổ chức đào tạo. Hiện tỉnh Vĩnh Long có
07 trung tâm dạy nghề và GTVL công lập thuộc các huyện và hơn 10 trung tâm dạy
nghề tư thục. Bên cạnh đó, còn có 03 trung tâm GTVL ở tỉnh Vĩnh Long là Trung
tâm GTVL trực thuộc Sở LĐ - TBXH, Trung tâm GTVL trực thuộc Liên đoàn lao
động, Trung tâm GTVL thuộc quân khu 9 có chức năng đào tạo nghề ngắn hạn cho
mọi đối tượng.
Được sự quan tâm sâu sắc đến công tác giáo dục, đào tạo của các ngành, các
cấp, đặc biệt là công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ giáo viên, ngày
13
04/07/2013 Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã ban hành Quyết định số
1160/QĐ-UBND về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình
độ đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng,
phương pháp thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và quản lý ngành; bồi dưỡng cập
nhật thường xuyên, kịp thời kiến thức phục vụ hội nhập; Đào tạo, bồi dưỡng
trình độ các mặt theo quy định để chuẩn hoá theo tiêu chuẩn, chức danh; Góp
phần xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý chuyên nghiệp, vững vàng
về chính trị, tinh thông nghiệp vụ có đủ năng lực xây dựng hệ thống chính trị,
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiên tiến, hiện đại góp phần nâng cao ý
thức trách nhiệm của giáo viên đối với sự nghiệp giáo dục, tận tụy với nghề, tự
bồi dưỡng để nâng cao năng lực, đạo đức.
Tuy có nhiều đề tài, bài viết nghiên cứu về quản lý và phát triển đội ngũ
giáo viên ở các trường, các địa phương nhưng ở tỉnh Vĩnh Long vẫn chưa có đề
tài nào nghiên cứu về phát triển đội ngũ giáo viên cho Trung tâm GTVL tỉnh
Vĩnh Long và đây là đề tài mới cần được nghiên cứu.
1.2 Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1 Giáo viên và đội ngũ giáo viên của Trung tâm GTVL

1.2.1.1 Giáo viên
Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý, thế nên nhân dân
ta từ bao đời nay có truyền thống tôn sư trọng đạo. Với tầm cao của nền kinh tế tri thức
hiện nay, truyền thống ấy vẫn không hề thay đổi, yêu cầu về phẩm chất và năng lực
của người thầy ngày một nâng lên. Với vai trò làm nghề “ươm mầm” cho sự nghiệp
“trồng người” phải không ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ.
14
Levtolstôi đã khẳng định: “Nhà giáo cũng như nhà văn đều có một mục đích
giáo dục thế hệ trẻ, chỉ có khác là nhà văn dùng tác phẩm tác động đến thanh niên, nhà
giáo thì lấy phẩm chất của mình thuyết phục con người” [17; tr.49].
Theo khoản 1 và khoản 3, điều 70 Luật Giáo dục 2005, sửa đổi bổ sung 2009
qui định “Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ
sở giáo dục khác. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông,
giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên; ở cơ sở giáo dục đại học gọi là giảng viên”.
- Điều 77 Luật Giáo dục 2005 còn quy định trình độ chuẩn được đào tạo
của giáo viên đối với các cơ sở dạy nghề quy định: Có bằng tốt nghiệp trung cấp
nghề, cao đẳng nghề hoặc là nghệ nhân, công nhân kỹ thuật có tay nghề cao đối
với giáo viên hướng dẫn thực hành ở cơ sở dạy nghề.
- Giáo viên được Nhà nước bảo đảm các quyền được qui định trong Điều
73, Luật Giáo dục 2005 như sau: Được giảng dạy theo chuyên ngành đào tạo;
Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; Được hợp
đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học tại các trường, cơ sở giáo dục khác và
cơ sở nghiên cứu khoa học với điều kiện bảo đảm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ nơi
mình công tác; Được bảo vệ nhân phẩm, danh dự của nhà giáo.
- Nhiệm vụ của giáo viên được qui định trong Điều 72, Luật Giáo dục
2005: Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy đủ
và có chất lượng chương trình giáo dục; Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công
dân, các quy định của pháp luật và điều lệ nhà trường; Giữ gìn phẩm chất, uy tín,
danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách của người học, đối xử công bằng với

người học, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người học; Không ngừng
học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị, chuyên
môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu gương tốt cho người học;
15
Theo Điều 58 Luật Dạy nghề 2006 quy định giáo viên dạy nghề là người
dạy lý thuyết, dạy thực hành hoặc vừa dạy lý thuyết vừa dạy thực hành trong các
cơ sở dạy nghề phải có những tiêu chuẩn quy định tại khoản 2 Điều 70 của Luật
giáo dục 2005: phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt; đạt trình độ chuẩn được đào tạo
về chuyên môn, nghiệp vụ; đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; lý lịch bản
thân rõ ràng.
- Trình độ chuẩn của giáo viên dạy nghề trình độ sơ cấp nghề được quy
định tại Điều 58 Luật Dạy nghề 2006 như sau: Giáo viên dạy lý thuyết phải có
bằng tốt nghiệp trung cấp nghề trở lên; giáo viên dạy thực hành phải là người có
bằng tốt nghiệp trung cấp nghề trở lên hoặc là nghệ nhân, người có tay nghề cao;
Trường hợp giáo viên không có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm kỹ thuật hoặc
đại học sư phạm kỹ thuật thì phải có chứng chỉ đào tạo sư phạm.
- Quyền của giáo viên dạy nghề được quy định tại Điều 73 của Luật Giáo
dục 2005 và Điều 59 của Luật Dạy nghề 2006: Được giảng dạy theo chuyên
ngành đào tạo; Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp
vụ; Được hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học tại các trường, cơ sở
giáo dục khác và cơ sở nghiên cứu khoa học với điều kiện bảo đảm thực hiện
đầy đủ nhiệm vụ nơi mình công tác; Được bảo vệ nhân phẩm, danh dự; Được đi
thực tế sản xuất, tiếp cận với công nghệ mới; Được sử dụng các tài liệu, phương
tiện, đồ dùng dạy học, thiết bị và cơ sở vật chất của cơ sở dạy nghề để thực hiện
nhiệm vụ được giao; Được tham gia đóng góp ý kiến về chủ trương, kế hoạch
của cơ sở dạy nghề, xây dựng chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy
và các vấn đề có liên quan đến quyền lợi của giáo viên.
- Nhiệm vụ của giáo viên dạy nghề: được quy định tại Điều 72 của Luật
Giáo dục 2005: Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện
16

đầy đủ và có chất lượng chương trình giáo dục; Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ
công dân, các quy định của pháp luật và điều lệ nhà trường; Giữ gìn phẩm chất,
uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách của người học, đối xử công
bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người học; Không
ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị,
chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu gương tốt cho
người học
1.2.1.2 Đội ngũ giáo viên
Theo từ điển tiếng Việt, “Đội ngũ là khối đông người được tập hợp và tổ
chức thành một lực lượng có quy cũ hoặc là tập hợp một số đông người có cùng
chức năng hoặc nghề nghiệp” [20; tr.256].
Đội ngũ là tập hợp một số đông người, hợp thành một lực lượng để thực
hiện một hay nhiều chức năng nhưng có chung mục đích xác định; Họ làm việc
theo kế hoạch và gắn bó với nhau về lợi ích vật chất và tinh thần cụ thể.
Đội ngũ giáo viên là tập hợp những nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục, mầm
non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp có chung nhiệm vụ, vai trò và trách
nhiệm nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục được quy định tại Luật Giáo dục 2005. Đội
ngũ giáo viên dạy nghề bao gồm các nhà giáo hoạt động và giảng dạy trong các
trường, các cơ sở dạy nghề.
Nếu xét về phương diện nguồn nhân lực thì đội ngũ giáo viên chính là nguồn
nhân lực chủ yếu trong đào tạo đội ngũ kế thừa có tay nghề đáp ứng nhu cầu của xã
hội và đội ngũ giáo viên có những đặc điểm sau:
- Mỗi giáo viên được tuyển chọn đạt được những tiêu chuẩn đã đặt ra, tương
ứng về tư tưởng, phẩm chất, đạo đức, năng lực chuyên môn và năng lực nghề nghiệp.
17

×