Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Một số giải pháp quản lý nguồn lực trong công tác xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở ở thành phố vinh, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
–––––––––––––––––––––
ĐẶNG QUỐC LÀNH
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NGUỒN LỰC TRONG
CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC TRUNG HỌC
CƠ SỞ Ở THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
–––––––––––––––––––––
ĐẶNG QUỐC LÀNH
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NGUỒN LỰC TRONG
CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC TRUNG HỌC
CƠ SỞ Ở THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. MAI VĂN TƯ
NGHỆ AN – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết
quả nghiên cứu là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận văn
Đặng Quốc Lành
i
LỜI CẢM ƠN


Em xin bày tỏ tình cảm và lời biết ơn tới Lãnh đạo Trường Đại học Vinh,
các Thầy giáo Cô giáo đã tham gia giảng dạy và tạo điều kiện giúp đỡ em
trong quá trình học tập và nghiên cứu tại nhà trường. đặc biệt là Tiến sĩ Mai
Văn Tư, người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học và tận tình giúp đỡ em trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Chân thành cảm ơn Lãnh đạo Thành phố Vinh; Phòng GD&ĐT và các
phòng, ban liên quan; Cán bộ quản lý và giáo viên các trường THCS thành phố
Vinh đã tạo điều kiện, động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, mặc dù bản
thân đã luôn cố gắng nhưng chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết.
Kính mong được sự góp ý, chỉ dẫn của các Thầy, các Cô và các bạn
đồng nghiệp.
Nghệ An, tháng 8 năm 2014
Tác giả
Đặng Quốc Lành
ii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ii
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
5. Giả thuyết khoa học 4
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu 4
7. Các phương pháp nghiên cứu 4
8. Cấu trúc luận văn 5
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1 CBGV : Cán bộ, giáo viên
2 CBQL : Cán bộ quản lí

3 CNH-HĐH : Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
4 CSVC : Cơ sở vật chất
5 GV : Giáo viên
6 GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo
7 THCS : Trung học cơ sở
8 HS : Học sinh
9 HĐGD : Hội đồng giáo dục
10 HĐND : Hội đồng nhân dân
11 QLGD : Quản lí giáo dục
12 UBND : Ủy ban nhân dân
iii
13 THCS : Trung học cơ sở
14 THPT : Trung học phổ thông
15 TTGDTX : Trung tâm giáo dục thường xuyên
16 PP : Phương pháp
17 XHH : Xã hội hóa
DANH MỤC CÁC BẢNG
LỜI CẢM ƠN ii
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
3.1. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU: CÔNG TÁC QUẢN LÝ CÁC NGUỒN LỰC TRONG XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC THCS.

3
3.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: MỘT SỐ GIẢI PHÁPQUẢN LÝ CÁC NGUỒN LỰC TRONG XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC
THCS Ở THÀNH PHỐ VINH TỈNH NGHỆ AN.

3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
5. Giả thuyết khoa học 4
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu 4

7. Các phương pháp nghiên cứu 4
8. Cấu trúc luận văn 5
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
iv
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
LỜI CẢM ƠN ii
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
3.1. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU: CÔNG TÁC QUẢN LÝ CÁC NGUỒN LỰC TRONG XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC THCS.

3
3.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: MỘT SỐ GIẢI PHÁPQUẢN LÝ CÁC NGUỒN LỰC TRONG XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC
THCS Ở THÀNH PHỐ VINH TỈNH NGHỆ AN.

3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
5. Giả thuyết khoa học 4
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu 4
7. Các phương pháp nghiên cứu 4
8. Cấu trúc luận văn 5
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
v
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Huy động các nguồn lực xã hội để phát triển giáo dục - Xã hội hoá giáo dục
là một tư tưởng chiến lược lớn của Đảng ta. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII
đã chỉ rõ: “ Xuất phát từ nhận thức chăm lo cho con người, cho cộng đồng xã hội
là trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi đơn vị, của từng gia đình, là sự nghiệp
của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, chúng ta chủ trương giải quyết các vấn đề
xã hội theo tinh thần xã hội hoá”[19].

Điều 11 Luật Giáo dục đã ghi: “ Mọi tổ chức, gia đình và công dân đều
có trách nhiệm chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập
và môi trường giáo dục lành mạnh, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu
giáo dục. Như vậy Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp
giáo dục; thực hiện đa dạng hoá các loại hình nhà trường và các hình thức
giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân
tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục”[27].
Quán triệt tư tưởng chiến lược của Đảng, nhằm đẩy mạnh xã hội hoá
giáo dục, Chính phủ đã có Nghị quyết 05/2007/NQ-CP về đẩy mạnh xã hội hoá
giáo dục, văn hoá, thể thao, môi trường; Nghị quyết số 90/NQ-CP về phương
hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao;
Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với
các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, quy định cụ thể
chính sách khuyến khích các cơ sở ngoài công lập trên các mặt cơ sở vật chất,
đất đai, thuế, lệ phí, tín dụng bảo hiểm.
Nghị quyết đại hội X của Đảng đã khảng định tầm quan trọng của công
tác XHH giáo dục và xác định cần phải đẩy mạnh xã hội hóa GD hơn nữa. Tuy
nhiên, do nước ta vốn tồn tại rất lâu quan niệm và cách làm bao cấp đối với
giáo dục và đào tạo nên tư duy quản lý vẫn chưa đổi mới kịp. Vẫn còn phổ biến
1
tình trạng hiểu xã hội hoá giáo dục chỉ là huy động vốn trong nhân dân, chưa
hiểu đúng bản chất của xã hội hoá giáo dục là ngoài việc huy động vốn còn là
việc huy động tối đa nguồn lực, bao gồm cả vật lực (CSVC), tài lực ( tài chính)
và nhân lực, trong đó quan trọng là trí tuệ và tâm huyết của nhân dân vào sự
nghiệp giáo dục.
Thực tế triển khai công tác xã hội hoá giáo dục hơn 10 năm qua đã đem
lại những đóng góp đáng kể cho sự nghiệp giáo dục nước nhà, nhận thức xã
hội về giáo dục đã có chuyển biến cơ bản, mọi người ngày càng thấy rõ vai trò
quan trọng của giáo dục đối với phát triển kinh tế - xã hội và nhận thức rõ
muốn phát triển giáo dục phải huy động mọi nguồn lực của xã hội, huy động

được sự tham gia của cả hệ thống chính trị và đông đảo các lực lượng trong xã
hội cả về nhân lực, vật lực, tài lực cho phát triển giáo dục.
Trong thời gian qua, việc huy động và quản lý các nguồn lực xã hội để
phát triển giáo dục trung học cơ sở trên địa bàn Tỉnh Nghệ An nói chung và
Thành phố Vinh nói riêng đã đạt kết quả đáng ghi nhận song trên thực tế vẫn
còn một số bất cập, khó khăn và hạn chế do nhận thức của xã hội nói chung còn
chưa đầy đủ về nguồn lực trong XHH giáo dục, coi công tác này chỉ đơn thuần
là huy động sự đóng góp thêm về tài chính trong nhân dân hoặc coi việc xã hội
hoá giáo dục theo nghĩa tư nhân hoá, thương mại giáo dục, chưa nhận thức đầy
đủ về các nguồn lực trong xã hội cho giáo dục như nguồn nhân lực là công sức,
trí tuệ, sức mạnh của cộng đồng; nguồn tài lực là sự ủng hộ hỗ trợ tiền của vật
chất của các cấp, các ngành, tổ chức xã hội cho Giáo dục. Ở những vùng khó
khăn, nhiều người lại cho rằng không thể có điều kiện để huy động các nguồn
lực, còn trông chờ nhiều vào sự trợ giúp của Nhà nước. Việc phân cấp quản lí
giữa các tổ chức để thực hiện công tác huy động các nguồn lực phát triển giáo
dục chưa cụ thể, chưa phát huy quyền tự chủ cho địa phương, cho ngành giáo
dục cũng như cơ sở trường học thực hiện công tác này. Sự phối hợp giữa các
ngành có liên quan trong việc huy động các nguồn lực cho XHH giáo dục còn
2
chậm và chưa đồng bộ, công tác quản lý các nguồn lực trong XHH giáo dục
trung học cơ sở hiệu quả chưa cao.
Vì vậy, việc nghiên cứu các giải pháp thực hiện quản lí các nguồn lực
trong XHH giáo dục là nhiệm vụ cần thiết, phù hợp với nhiệm vụ phát triển sự
nghiệp giáo dục đào tạo cùa tỉnh, của địa phương và xu thế phát triển chung của
đất nước. Từ những lí do trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Một số giải
pháp quản lý nguồn lực trong công tác xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở
ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An”
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về công tác quản lý các nguồn lực trong
xã hội hóa giáo dục THCS ở Thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An, từ đó đề xuất

một số một số giải pháp quản lý nhằm góp phần làm cho công tác huy động các
nguồn lực trong xã hội hóa giáo dục THCS ở Thành phố Vinh tỉnh Nghệ An
đạt kết quả tốt hơn.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý các nguồn lực trong xã hội hóa
giáo dục THCS.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Một số giải phápquản lý các nguồn lực trong xã
hội hóa giáo dục THCS ở Thành phố Vinh tỉnh Nghệ An.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản lý các nguồn lực trong xã
hội hóa giáo dục THCS.
4.2. Khảo sát thực trạng về công tác quản lý các nguồn lực trong xã hội
hóa giáo dục THCS ở Thành phố Vinh tỉnh, Nghệ An.
4.3. Đề xuất một số một số giải pháp quản lý các nguồn lực trong xã hội
hóa giáo dục THCS ở Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
3
5. Giả thuyết khoa học
- Nếu đề xuất được một số giải pháp quản lý phù hợp với tình hình thực
tiễn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục THCS hiện nay thì công tác quản
lý các nguồn lực trong xã hội hóa giáo dục THCS ở thành phố Vinh tỉnh Nghệ
An sẽ có hiệu quả hơn.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu và đề xuất một số một số giải pháp quản
lý các nguồn lực trong xã hội hóa giáo dục THCS của Phòng giáo dục – đào tạo
Thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An.
- Các số liệu được sử dụng trong đề tài giới hạn từ năm 2012 đến 2014
tại 24 trường THCS thuộc Phòng Giáo dục - Đào tạo thành phố Vinh - tỉnh
Nghệ An.
- Đề tài tiến hành khảo sát trên 24 cán bộ quản lý, 100 giáo viên THCS,
200 phụ huynh học sinh và một số lực lượng giáo dục trên địa bàn thành phố

Vinh - tỉnh Nghệ An.
7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, khái quát hóa các tài liệu lý luận về công tác quản lý
các nguồn lực trong xã hội hóa giáo dục THCS để xây dựng cơ sở lý luận cho
đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: Quan sát các biểu hiện cụ thể của công tác
quản lý các nguồn lực trong xã hội hóa giáo dục THCS để thu thập số liệu,
phát hiện những vấn đề cần nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Xây dựng các phiếu hỏi dành
cho cán bộ quản lý, giáo viên, lãnh đạo địa phương, phụ huynh học sinh để
đánh giá thực trạng công tác quản lý các nguồn lực trong xã hội hóa giáo dục
THCS ở thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An
4
- Phương pháp trò chuyện: Trò chuyện,phỏng vấn trực tiếp các Hiệu
trưởng, cán bộ quản lý các trường THCS và một số lãnh đạo Phòng Giáo dục
để có thêm thông tin thực tiễn.
- Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến đánh giá của các chuyên gia về
các giải pháp phối hợp trong xã hội hoá giáo dục THCS thành phố Vinh - tỉnh
Nghệ An.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:Thông qua các hoạt động xã hội
hoá giáo dục đã thực hiện ở các trường THCS để thu thập số liệu thực tiễn, phát
hiện những vấn đề mới.
7.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học
Sử dụng các công thức toán thống kê để xử lý kết quả khảo sát.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
phần nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài.

Chương 2. Thực trạng công tác quản lý các nguồn lực trong xã hội hóa
giáo dục THCS ở Thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An.
Chương 3. Một số giải pháp quản lý các nguồn lực trong xã hội hóa giáo
dục THCS ở thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÁC NGUỒN LỰC
TRONG XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC THCS
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giáo dục là một hoạt động mang tính xã hội cao, là một hình thái ý thức
xã hội, đồng thời là một trong những nhân tố đánh dấu nấc thang trình độ văn
minh của các thời đại trong lịch sử. Giáo dục có liên quan trực tiếp đến mỗi
người và lợi ích của mọi người trong xã hội. Quan tâm, đầu tư, huy động mọi
nguồn lực cho phát triển giáo dục là sách lược lâu dài của nhiều quốc gia trên
thế giới. Mặc dù bản chất của giáo dục ở các nước có khác nhau nhưng đều cho
thấy xã hội hóa sự nghiệp giáo dục là cách làm phổ biến, kể cả ở những nước
có nền công nghiệp hiện đại - kinh tế phát triển cao.
Hoạt động xã hội hoá giáo dục đã xuất hiện và có bề dày lịch sử trong
các chế độ xã hội và thể chế chính trị. Lịch sử nghiên cứu vấn đề xã hội hoá
giáo dục đã có từ lâu, đó không phải là vấn đề hoàn toàn mới nếu xem xét nó
về bản chất. Không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nơi trên thế giới đều rất quan tâm
đến việc xây dựng và củng cố công tác giáo dục gắn liền với phát triển cộng
đồng với mục đích vì lợi ích cộng đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Trải qua các giai đoạn lịch sử, việc chăm lo vật chất, khích lệ cổ vũ
người học, tôn vinh người Thầy trong xã hội và những trò giỏi thành đạt đã trở
thành truyền thống, đạo lý tốt đẹp của Dân tộc Việt Nam ta. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng nói: Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, không phân biệt
già, trẻ, trai, gái, cứ là người Việt Nam thì phải tham gia học tập, tham gia xoá
nạn mù chữ [28].
Trong thời kỳ đổi mới, thực hiện sự nghiệp CNH-HĐH đất nước và hội

nhập quốc tế, sự nghiệp giáo dục được Đảng, nhà nước ta coi là quốc sách hàng
đầu, khẳng định giáo dục là động lực, là nguồn lực để thúc đẩy kinh tế văn hóa
xã hội phát triển với phương châm: “Giáo dục là sự nghiệp của toàn dân".
6
Nghị quyết Đại hội X của Đảng, vấn đề XHH giáo dục tiếp tục được
khẳng định cần phải đẩy mạnh hơn nữa. Phát triển kinh tế theo cơ chế thị
trường, trong điều kiện nước ta đã gia nhập tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) đã và đang đặt ra cho chúng ta những yêu cầu mới
Tuy nhiên do nước ta chịu ảnh hưởng bởi quan niệm và cách làm bao
cấp trước đây đối với giáo dục và đào tạo nên tư duy quản lý vẫn chưa kịp đổi
mới. Vẫn còn phổ biến tình trạng hiểu xã hội hoá giáo dục chỉ là huy động vốn
trong nhân dân. Để khắc phục quan niệm phiến diện này, cần phải hiểu xã hội
hoá giáo dục là ngoài việc huy động vốn còn huy động tối đa nguồn lực, bao
gồm nhân lực, vật lực và tài lực, trong đó quan trọng là trí tuệ và tâm huyết của
nhân dân vào sự nghiệp giáo dục.
1.1.1. Ở nước ngoài
Vấn đề XHH giáo dục nói chung, XHH giáo dục THCS nói riêng đã
được đề cập trong nhiều tài liệu, đặc biệt là ở một số nước:
* Kinh nghiệm về xã hội hóa giáo dục ở Trung Quốc
Quan điểm chỉ đạo của Trung Quốc về phát triển giáo dục là “làm cho
đất nước giàu mạnh thông qua khoa học và giáo dục”. Mục tiêu cơ bản là thực
hiện phổ cập Giáo dục nghĩa vụ (bắt buộc) lớp 9 trong toàn quốc; từng bước
phổ cập giáo dục trung học ở Thành thị và các khu vực Kinh tế phát triển. Với
phương châm: Giáo dục phải hướng tới hiện đại hóa, thế giới hóa và hướng tới
tương lai theo định hướng: Đầu tư cho giáo dục phải được xem là chính sách
quốc gia hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển cho sản xuất. Đảm
bảo sự tham gia rộng rãi của cộng đồng vào việc đầu tư cho giáo dục và quản lý
giáo dục [vietbao.vn/giaoduc].
* Kinh nghiệm xã hội hóa giáo dục ở Nhật Bản
Nhật bản luôn tích cực cải cách hệ thống giáo dục, coi trọng việc phát

triển tiềm năng của con người, xây dựng hệ thống các nguyên tắc phát triển
7
giáo dục với chính sách: Tăng cường và đa dạng hóa các nguồn đầu tư cho giáo
dục. Thượng Nghị viện Nhật đã thông qua 3 dự luật về cải cách giáo dục đó là:
Luật Giáo dục trường học; Luật quản lý giáo dục địa phương và Luật giáo dục
xã hội. Nhật bản là nước đã thành công trong việc thực hiện chính sách bình
đẳng và quyền được học cho mọi người, giáo dục không phân biệt giai cấp, địa
vị, tôn giáo, coi trọng việc phát hiện nhân tài và bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước, nhân văn hóa môi trường giáo dục, đưa giáo dục Nhật Bản tiến kịp thế
giới [nichibun.org/nền-giáo-dục-nhật-bản/]
* Kinh nghiệm xã hội hóa giáo dục ở Mỹ
Chính phủ Mỹ đã thực hiện một cuộc Cách mạng về chuẩn hóa giáo dục
(Standanrds revolution). Để làm được điều này, một trong những giải pháp mà
chính Phủ quan tâm là thực hiện chủ trương đa dạng hóa, phát triển hình thức
trường học công – tư. Giáo dục Mỹ đặc biệt quan tâm xây dựng nền giáo dục
dựa trên nền tảng của công nghệ thông tin, xã hội tri thức để đáp ứng và đón
đầu sự phát triển của kinh tế thị trường, hướng tới các mục tiêu: Mọi người đều
có cơ hội học tập suốt đời, thực hiện nền giáo dục đại chúng với chính sách trao
quyền cho địa phương quản lý giáo dục nhà trường và đa dạng hóa các loại
hình giáo dục: Giáo dục chính quy, giáo dục thường xuyên, giáo dục từ xã hội,
giáo dục trực tuyến [www.vnuitp.edu.vn].
Có thể khẳng định: Mặc dù bản chất của giáo dục ở các nước có khác
nhau nhưng đều có điểm chung là huy động mọi nguồn lực và mọi điều kiện
cho phát triển giáo dục.
Ở những nước tiên tiến, việc quan tâm đầu tư cho giáo dục qua quá trình
huy động sức mạnh của nhà nước và các tầng lớp xã hội, nâng cao mặt bằng tri
thức, đưa dân trí ngang tầm thời đại để con người làm chủ nền văn minh công
nghiệp và hậu công nghiệp.
Ở những nước đang phát triển, việc huy động các nguồn lực cho giáo dục
là phương thức tốt nhất nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, làm phong

8
phú tài năng, trí tuệ để phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Việc
đầu tư đúng mức cho con người sẽ tạo tiền đề cho sự ổn định và phát triển bền
vững ở các nước đang phát triển.
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt nam, tuy thuật ngữ XHH giáo dục mới xuất hiện nhưng tư tưởng
và nội dung của nó đã có từ rất sớm, ngay từ buồi đầu giành Độc lập dân tộc,
đó là công cuộc “Diệt giặc đói”, “Xóa mù chữ” do Chủ tịch Hồ Chí minh phát
động. Người xác định 3 nguyên tắc cơ bản của nền Giáo dục nước nhà là: “Đại
chúng hóa, Dân tộc hóa, khoa học hóa tôn chỉ phụng sự lý tưởng Quốc gia và
dân chủ” [28, tr.40].
Hiến pháp năm 1992 (Điều 36): Nhà nước phát triển các hình thức
trường Quốc lập, dân lập và các hình thức giáo dục khác; Nhà nước ưu tiên
đầu tư cho Giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác [24, tr.15].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) khẳng định: “Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của nhà nước và của
toàn dân Phát triển giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của nhà nước và
mỗi cộng đồng, của từng Gia đình và mỗi công dân [ 2, tr.35].
Nghị định số 69/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/5/2008 về chính
sách khuyến khích XHH đối với các hoạt động Xã hội hoá trong lĩnh vực Giáo
dục : “Xã hội hoá các hoạt động trong lĩnh vực Giáo dục, dạy nghề, Y tế, Văn
hóa, thể thao, môi trường là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của
nhân dân, của toàn xã hội [tr.2].
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, trong báo cáo Chính trị đã nhấn
mạnh: “Phát triển Giáo dục phải thực sự là Quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn
bản, toàn diện nền Giáo dục Việt nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã
hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập Quốc tế [20, tr.67]. “Hoàn thiện cơ chế,
chính sách XHH giáo dục, đào tạo trên cả 3 phương diện: Động viên các
nguồn lực xã hội, phát huy vai trò giám sát của cộng đồng; Khuyến khích các
9

hoạt động khuyến học khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện để
người dân học tập suốt đời”. [20, tr.127]
Bước vào thời kỳ đổi mới, trước yêu cầu phát triển Kinh tế xã hội trong
giai đoạn mới của cách mạng, đòi hỏi nền Giáo dục Việt nam phải đổi mới và
tiếp tục phát triển, Đảng ta đã xác định “ xã hội hóa” là một trong những quan
điểm để nghiên cứu, xem xét, hoạch định hệ thống các chính sách xã hội.
Hiện nay, xã hội hoá giáo dục nói chung và xã hội hoá giáo dục THCS
nói riêng đã có nhiều khởi sắc và thu được nhiều thành tựu đáng khích lệ; đã
huy động tốt hơn về nguồn lực, động viên nhiều tổ chức kinh tế, xã hội tập thể
và cá nhân tham gia đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập của thanh
thiếu niên trong độ tuổi, tạo ra môi trường cạnh tranh trong giáo dục, từng bước
thúc đẩy chất lượng giáo dục phổ thông nâng lên.
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.2.1. Xã hội hóa, Xã hội hóa giáo dục
1.2.1.1. Xã hội hoá
Thuật ngữ xã hội hoá (socialization) đã được các nhà xã hội học sử dụng
để mô tả những phương pháp, cách thức mà con người học hỏi các giá trị, các
chuẩn mực xã hội đề ra, tạo cơ sở cho việc hình thành và nhân cách con người.
Đồng thời con người có đủ điều kiện để hoà nhập với xã hội đó, đảm bảo sự
phổ quát, đại chúng và phù hợp.
Xã hội hoá là quá trình cá nhân chịu tác động của các yếu tố của môi
trường xã hội, hoà nhập vào cấu trúc nhân cách dưới ảnh hưởng của các tác
nhân xã hội và những kinh nghiệm cá nhân, làm cho cá nhân thích nghi với môi
trường xã hội. Trong kinh tế - chính trị học, thuật ngữ “xã hội hoá” đó là quá
trình phát triển của lực lượng sản xuất từ trình độ hợp tác giản đơn lên trình độ
hợp tác có phân công, chuyên môn hoá cao trên phạm vi toàn xã hội.
Từ đầu thế kỷ XX, Emile DurKheim (1858 - 1917) nhà xã hội học người
Pháp cho rằng “ Giáo dục vừa có chức năng phân hoá vừa có chức năng xã hội
10
hoá”[25, tr 300]. Trong ba thập niên gần đây, khái niệm xã hội hoá được quan

tâm thảo luận nhiều hơn, khái niệm “ xã hội hoá” chủ yếu được xem xét và hiểu
biết ở bình diện xã hội học. Đây là một lý thuyết khoa học về sự hình thành và
phát triển nhân cách.
Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hoá,
Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh
nghiệp, các tổ chức xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia
giải quyết vấn đề xã hội. Những quan điểm trên đây đã nêu lên nội dung cơ bản
thuộc phạm trù xã hội hoá. Cho dù các định nghĩa có khác nhau nhưng cốt lõi
của xã hội hoá là sự tương tác, mối liên hệ, thuộc tính vốn có của con người,
của cộng đồng diễn ra trong tất cả lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội, trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau; có thể hiểu xã hội hoá một cách
đầy đủ nhất theo định nghĩa sau:
Xã hội hoá là quá trình cá nhân nhờ hoạt động, tiếp thu giáo dục, giáo
lý mà học hỏi được cách sống trong cộng đồng, trong đời sống xã hội và phát
triển được khả năng đảm nhiệm các vai trò xã hội với tư cách vừa là cá thể vừa
là một thành viên của xã hội.
Khái niệm “xã hội hoá” nói trên không đồng nghĩa với khái niệm “xã hội
hoá” một hoạt động nào đó (như xã hội hoá giáo dục, văn hoá, y tế, thể dục thể
thao) mà chúng ta đặt ra.
Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn vận dụng và phát
triển chủ trương xã hội hoá, coi trọng việc phát huy lực lượng toàn xã hội vào
quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị như một đường lối vận động quần chúng
trong từng thời kỳ cách mạng, nó chứa đựng tư tưởng chiến lược, quan điểm
chỉ đạo của Đảng ta đối với công cuộc phát triển đất nước.
Vì vậy, xét về phương diện hoạt động chung, có thể hình dung: “Xã hội
hóa là cách làm, cách thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng bằng con đường
giác ngộ, huy động và tổ chức sự tham gia của mọi người dân, mọi lực lượng xã
hội; tạo ra sự phối hợp liên ngành một cách có kế hoạch dưới sự chỉ đạo và quản
11
lý thống nhất của Nhà nước, làm cho việc giải quyết các vấn đề xã hội thực sự là

của dân, do dân và vì dân" [4].
Xã hội hóa có những đặc điểm sau đây:
- XHH không phải là buông lỏng sự quản lý hoặc từ bỏ chức năng quản lý
thống nhất của Nhà nước mà thực chất là tăng cường sự quản lý Nhà nước bằng
pháp luật.
- XHH gắn liền với mở rộng dân chủ, khuyến khích, động viên tinh thần
tự quản, tự chịu trách nhiệm của mọi cá nhân và tổ chức đoàn thể xã hội. Khắc
phục dần tính thụ động, thờ ơ, phó mặc mọi công việc cho cơ quan chính quyền
nhà nước.
- XHH là thu hút mọi tổ chức xã hội, mọi thành phần kinh tế tham gia thực
hiện các dự án phát triển của Nhà nước.
1.2.1.2. Xã hội hóa giáo dục
Giáo dục là một hình thái ý thức xã hội, nó thực hiện các chức năng xã
hội như chức năng kinh tế - sản xuất, chức năng tư tưởng văn hóa, chức năng
chính trị xã hội, nhưng đồng thời lại chịu sự chế ước của xã hội, chịu sự quy
định của các quá trình xã hội. Mối quan hệ giữa giáo dục và xã hội là mối quan
hệ hai chiều, một mặt giáo dục có chức năng thúc đẩy các quá trình kinh tế, sản
xuất, văn hóa tư tưởng, chính trị xã hội phát triển, bằng tái sản xuất ra sức lao
động cho xã hội, xây dựng lối sống mới, hệ tư tưởng cho toàn xã hội hay nâng
cao trình độ dân trí cho mỗi người dân vv…
Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII, Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII,
Luật Giáo dục và nhiều văn bản pháp luật khác đã xác định nội hàm của khái
niệm XHH giáo dục. Ý nghĩa phổ biển nhất của XHH giáo dục là tổ chức cho
toàn xã hội làm công tác giáo dục, vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của
nhân dân, của toàn xã hội vào sự nghiệp giáo dục – đào tạo. Xây dựng cộng
đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo ra một môi trường
giáo dục lành mạnh. Đa dạng hóa các hình thức hoạt động giáo dục – đào tạo,
12
mở rộng cơ hội cho các tầng lớp nhân dân tham gia chủ động và bình đẳng vào
các hoạt động giáo dục. Mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về

nguồn nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội. Phát huy có hiệu quả các nguồn
lực, tạo điều kiện cho các hoạt động giáo dục – đào tạo phát triển nhanh và có
chất lượng hơn.
Bàn về xã hội hóa giáo dục có nhiều quan niệm khác nhau: Phạm Minh
Hạc với cách tiếp cận về giáo dục trong sự phát triển của xã hội trong cuốn
Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI đã khẳng định: "Sự nghiệp
giáo dục không phải chỉ là của Nhà nước mà của toàn xã hội, mọi người cùng
làm giáo dục, Nhà nước và xã hội, trung ương và địa phương cùng làm giáo
dục" [24]. Nguyễn Trần Bạt với cách tiếp cận về sự đổi mới của giáo dục nhằm
đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội: "Xã hội hóa giáo dục là Nhà nước tạo ra
không gian xã hội, pháp luật và chính trị cho việc hình thành một khu vực giáo
dục mà ở đấy ai cũng có quyền đóng góp cho sự nghiệp giáo dục, thực hiện sự
cạnh tranh về chất lượng giáo dục, tức giáo dục phải thuộc về xã hội”.
XHH giáo dục là quá trình huy động các lực lượng xã hội tham gia đầu
tư cho giáo dục bao gồm nhân lực, vật lực, tài lực; Huy động các lực lượng xã
hội tham gia xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và quản lý giáo dục một
cách hiệu quả. Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong quản
lý và giáo dục học sinh, làm cho mọi người đều nhận thức giáo dục thế hệ trẻ
là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân.
Vậy: Xã hội hoá giáo dục là sự tham gia của toàn dân trên 3 mặt: Nhân
lực, vật lực và tài lực đối với sự nghiệp giáo dục; là sức mạnh của cộng đồng;
những năng lực vốn có của từng thành viên trong cộng đồng, các đoàn thể xã
hội; lợi thế, chức năng của các tổ chức để tạo môi trường đồng thuận vào sự
nghiệp giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ.
1.2.2. Nguồn lực và nguồn lực xã hội hóa giáo dục
13
Nguồn lực được hiểu là tất cả những yếu tố và phương tiện mà hệ thống có
quyền chi phối, điều khiển, sử dụng để thực hiện mục tiêu của mình. Đối với hệ
thống kinh tế xã hội có thể chia các nguồn lực ra các bộ phận khác nhau như
nguồn nhân lực (con người), nguồn tài lực (nguồn tài chính), và nguồn vật lực

(nguồn cơ sở vật chất), thông tin vv
Trong Giáo dục, nguồn lực bao gồm: Nhân lực (cán bộ quản lý giáo dục,
giáo viên, các lực lượng xã hội tham gia công tác giáo dục); vật lực (cơ sở vật
chất, trang thiết bị kĩ thuật cho trường học …) và tài lực (nguồn ngân sách,
nguồn hỗ trợ ngoài ngân sách trong nhà trường …). Ngoài ra còn có các
nguồn lực khác không kém phần quan trọng như thông tin, văn hóa nhà
trường Theo đó, đề cập đến vấn đề quản lý các nguồn lực trong xã hội hóa
giáo dục là đề cập đến các khía cạnh: Quản lý nguồn nhân lực; quản lý cơ
sở vật chất; quản lý tài chính
Nguồn lực trong xã hội hóa giáo dục gồm: nhân lực; vật lực và tài lực. Các
nguồn lực giáo dục trên có mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau trong quá
trình tổ chức hoạt động giáo dục và phát triển của mỗi cơ sở giáo dục, trong đó,
nguồn nhân lực có vai trò quyết định đến việc nâng cao chất lượng giáo dục -
đào tạo của mỗi nhà trường, nhất là sự nghiệp phát triển giáo dục hiện nay.
1.2.3. Quản lý và quản ly các nguồn lực xã hội hóa giáo dục
1.2.3.1. Quản lý
a. Bản chất của quản lý
Quản lý là một hiện tượng có thuộc tính lịch sử, đây cũng là hiện tượng xã
hội có từ rất sớm. Quản lý ra đời chính là để tạo ra hiệu quả lao động cao hơn
so với việc làm của từng cá nhân riêng lẻ, của một nhóm người khi họ tiến hành
các công việc có mục tiêu chung với nhau.
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý:
Theo C.Marx: “Quản lý là lao động điều khiển lao động” [23, tr.326]
C.Marx đã coi việc xuất hiện quản lý như là một kết quả tất nhiên của sự
14
chuyển nhiều quá trình lao động cá biệt, tản mạn, độc lập với nhau thành một
quá trình xã hội được phối hợp lại. C.Marx đã nhấn mạnh vai trò của quản lý :
“ Một nhạc sỹ độc tấu thì điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì phải có
nhạc trưởng” [23, tr.326 ].
* Các đặc trưng của quản lý:

- Quản lý là hoạt động có mục đích, có định hướng và có kế hoạch.
- Quản lý là sự lựa chọn khả năng tối ưu. Ỏ đâu không cần sự lựa chọn thì
ở đó không cần quản lý
- Quản lý là sự sắp xếp và thể hiện hợp lý các tác động đã lựa chọn.
- Quản lý làm giảm tính bất định và tăng tính ổn định của hệ thống.
Vậy có thể hiểu: Quản lý là một hoạt động có chủ đích, có định hướng
được tiến hành bởi một chủ thể quản lý nhằm tác động lên khách thể quản lý
để thực hiện các mục tiêu xác định của công tác quản lý.
Mục tiêu của quản lý có vai trò định hướng toàn bộ hoạt động quản lý,
đồng thời là căn cứ để đánh giá kết quả quản lý. Để thực hiện mục tiêu thì quản
lý phải thực hiện các chức năng.
b. Chức năng của quản lý
Chức năng quản lý gắn liền với sự xuất hiện và sự tiến bộ của phân công
hợp tác lao động trong quá trình sản xuất của xã hội. Chức năng quản lý có thể
hiểu là một dạng lao động chỉ huy, điều khiển, kết hợp của chủ thể quản lý tác
động lên khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định. Nhiều nhà
nghiên cứu về quản lý đã xây dựng nội dung của các chức năng quản lý.
Một trong những người đầu tiên nghiên cứu lĩnh vực này là F.W.Taylor
(1856-1915) và Henri Fayol (1841-1925) đã đưa ra 5 chức năng của quản lý,
đó là các chức năng: Kế hoạch hoá - Tổ chức- Ra lệnh (Chỉ huy) - Phối hợp-
Kiểm tra [23, tr. 327]
Như vậy, quản lý có 4 chức năng là Kế hoạch, Tổ chức, Chỉ đạo, Kiểm tra.
Các chức năng này còn được liên hệ bằng thông tin theo sơ đồ sau:
15
Sơ đồ 1.1. Sơ đồ về các chức năng quản lý
Chú thích:
Biểu hiện mối liện hệ và tác động trực tiếp.
Biểu hiện mối liện hệ ngược hoặc thông tin phản hồi trong quá trình
quản lý
Kế hoạch hoá là quá trình xác định mục tiêu và quyết định những một số

giải pháptốt nhất để thực hiện mục tiêu. Thực chất của kế hoạch hoá là đưa toàn
bộ những hoạt động vào công tác kế hoạch với mục tiêu, giải pháp, bước đi cụ
thể và ấn định tường minh các nguồn lực, điều kiện để thực hiện mục tiêu.
Tổ chức là sắp xếp, sắp đặt một cách khoa học những yếu tố, những con
người, những hoạt động thành một hệ thống toàn vẹn nhằm đảm bảo cho chúng
tương tác với nhau một cách hợp lý. Tổ chức được coi là điều kiện của quản lý.
Chỉ đạo là chỉ dẫn, động viên, điều chỉnh và phối hợp các lực lượng để
thực hiện kế hoạch đã đề ra
Kiểm tra là chức năng dùng để kiểm tra trạng thái của hệ thống, kiểm tra
kết quả thực hiện kế hoạch so với mục tiêu đề ra, kiểm tra còn nhằm phát hiện
sai sót để kịp thời uốn nắn, sửa chữa trong quá trình thực hiện kế hoạch.
Thông tin được coi là sợi dây, là huyết mạch liên kết với cả 4 chức năng
của quản lý. Dựa vào thông tin mà 4 chức năng của quản lý gắn kết chặt chẽ,
tạo nên chất lượng của toàn bộ hoạt động quản lý.
1.2.3.2 Quản lý nguồn lực trong xã hội hóa giáo dục
Quản lý nguồn lực trong xã hội hóa giáo dục gồm 3 nội dung cơ bản sau:
Kế hoạch
Tổ chức
Chỉ đạo
Kiểm tra TT
16
Quản lý nhân lực; quản lý CSVC (vật lực) và quản lý tài chính (tài lực). Các
nguồn lực giáo dục trên có mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau trong quá
trình tổ chức hoạt động giáo dục và phát triển của mỗi cơ sở giáo dục, trong đó,
nguồn nhân lực có vai trò quyết định đến việc nâng cao chất lượng giáo dục -
đào tạo của mỗi nhà trường, nhất là sự nghiệp phát triển giáo dục hiện nay.
a. Quản lý nguồn nhân lực
Nhân lực trong XHH giáo dục bao gồm Cán bộ quản lý, giáo viên, nhân
viên trong ngành giáo dục ; sự tham gia của toàn dân đối với sự nghiệp giáo
dục; sức mạnh của cộng đồng, những năng lực vốn có của từng thành viên

trong cộng đồng; lợi thế, chức năng của các tổ chức xã hội để tạo môi trường
đồng thuận vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Quản lý nguồn nhân lực trong giáo dục thực chất là quản lý con người,
quản lý nhân tố đóng vai trò quyết định cho sự phát triển giáo dục nói chung và
chất lượng đào tạo nhân cách nói riêng theo yêu cầu của xã hội.
Quản lý nguồn nhân lực trong XHH giáo dục chính là quá trình huy động
các lực lượng xã hội gồm các cấp bộ Đảng, chính quyền, các đoàn thể chính trị
-xã hội, xã hội, nghề nghiệp, tôn giáo, dân tộc, các cộng đồng địa phương, dòng
họ, gia đình tích cực tham gia vào các hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp hỗ
trợ cho phát triển giáo dục bằng các nguồn lực: vật lực, tài lực và nhân lực.
Để quản lý tốt nguồn nhân lực trong XHH giáo dục, Nhà nước cần có
chính sách sử dụng, đãi ngộ, đảm bảo các điều kiện về vật chất và tinh thần để
nhà giáo, các lực lượng xã hội và nhân dân thể hiện vai trò, trách nhiệm của
mình đối với giáo dục. Ngành giáo dục phải làm tốt công tác tham mưu; phối
hợp tuyên truyền vận động, huy động sức mạnh tổng hợp của mọi nhân tố, mọi
lực lượng xã hội cho giáo dục.
b. Quản lý cơ sở vật chất
17
Cơ sở vật chất là một nguồn lực rất quan trọng trong giáo dục - đào tạo, góp
phần cùng các nguồn nhân lực, tài lực để các đơn vị thực hiện có hiệu quả công
tác giáo dục - đào tạo. Không thể có hoạt động giáo dục nếu không có các
phương tiện, điều kiện vật chất nhất định. Nguồn vật lực này nằm trong tiềm
lực của xã hội, của nhân dân. Đó là việc dành quỹ đất cho giáo dục (xây dựng
trường học, sân chơi, bãi tập, phòng học ngoại khoá, thư viện; thực hành nhà
ở cho giáo viên ); đó cũng là sự đầu tư, hỗ trợ về thiết bị dạy học (máy tính,
phương tiện nghe nhìn, nhạc cụ, phương tiện phục vụ cho ngoại khoá và giáo
dục ngoài nhà trường ).
Quản lý cơ sở vật chất XHH giáo dục là quản lý cơ sở vật chất, trang thiết
bị kĩ thuật cho trường học …
Để quản lý tốt nguồn lực CSVC giáo dục, đòi hỏi chủ thể quản lý phải có

năng lực về pháp luật, năng lực về quản lý hành chính, năng lực về quản lý
kinh tế, năng lực về quản lý thông tin và môi trường.
c. Quản lý tài chính
Quản lý tài chính trong XHH giáo dục là quản lý lượng tiền - ngân sách
đảm bảo cho giáo dục bao gồm: Nguồn do ngân sách nhà nước cấp; nguồn tài
chính do các nhà trường tự khai thác qua nhiều kênh khác nhau; nguồn thu
khác trên cơ sở đúng nguyên tắc tài chính, đúng pháp luật và huy động được
của các tổ chức, cá nhân và từ địa phương. Theo Luật Giáo dục, thì ngoài
khoản học phí, lệ phí thi và tiền đóng góp xây dựng trường, nhà trường không
được đặt ra một khoản thu bắt buộc nào khác. Những khoản thu có tính tự
nguyện nên để các tổ chức ngoài nhà trường vận động, thu chi và quản lý trực
tiếp, dưới dạng quỹ bảo trợ giáo dục. Nhà trường có thể tham gia với tư cách tư
vấn hoặc giám sát.
Việc huy động tài chính qua các cuộc vận động xã hội hoá giáo dục phải
đảm bảo nguyên tắc công khai, dân chủ, tự nguyện và đúng pháp luật.
1.3. Một số vấn đề cơ bản về quản lý các nguồn lực trong
18

×