Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường đại học thủ dầu một tỉnh bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604.91 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ VĂN HẢI
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
TỈNH BÌNH DƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ VĂN HẢI
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. NGUYỄN THỊ MỸ TRINH
NGHỆ AN - 2014
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu và làm việc nghiêm túc, đến nay luận văn
với đề tài: “Quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học Thủ
Dầu Một, tỉnh Bình Dương” đã cơ bản hoàn thành và đạt được những kết
quả theo mục tiêu nghiên cứu đã đề ra. Trong quá trình thực hiện, người thực
hiện đề tài đã gặp không ít những khó khăn và vướng mắc, nhưng cũng đồng
thời học hỏi được nhiều kinh nghiệm quý báu. Bên cạnh đó, cũng nhận được
sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của Quý Thầy Cô và các bạn, tạo mọi điều kiện
thuận lợi để người thực hiện hoàn thành luận văn một cách tốt nhất.
Người thực hiện đề tài xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS.


Nguyễn Thị Mỹ Trinh đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và hiệu quả để
tôi hoàn thành luận văn này; Quý Thầy Cô Trường Đại học Vinh, Trường Đại
học Sài Gòn, Trường Đại học Thủ Dầu Một và các bạn sinh viên đã hỗ trợ,
góp ý, chia sẻ những kinh nghiệm để luận văn được hoàn thành đúng tiến độ
được giao.
Do thời gian nghiên cứu có hạn nên người thực hiện đề tài không tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong Quý Thầy Cô, các bạn thông cảm và cùng
đóng góp ý kiến để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Lê Văn Hải
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 11
1. Lý do chọn đề tài 11
2. Mục đích nghiên cứu 13
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 13
4. Giả thuyết khoa học 13
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 13
6. Phương pháp nghiên cứu 14
7. Những đóng góp mới của đề tài 14
8. Cấu trúc của luận văn 14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC 15
1.1. Tổng quan về nghiên cứu vấn đề 15
1.2. Các khái niệm cơ bản 20
1.2.1. Tự học 20
1.2.2. Hoạt động tự học 22
1.2.3. Quản lý và quản lý hoạt động tự học 24
1.2.4. Sinh viên 29

1.2.5. Biện pháp 30
Theo từ điển tiếng việt năm 1992 của viện khoa học xã hội Việt Nam thì biện pháp có nghĩ là cách
làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể 30
1.3. Một số vấn đề về hoạt động tự học của sinh viên trường đại học 30
1.3.1. Mục đích, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động tự học của sinh viên 30
1.3.2. Đánh giá kết quả tự học của sinh viên 31
1.4. Một số vấn đề về quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường đại học 31
1.4.1. Mục đích quản lý 31
1.4.2. Nội dung quản lý 31
1.4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường đại học
34
Kết luận chương 1 36
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT 38
2.1. Giới thiệu về Trường Đại học Thủ Dầu Một 38
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 38
2.1.2. Sứ mạng 39
2.1.3. Mục tiêu 39
2.1.4. Một số thành tựu 40
2.1.5. Phương hướng phát triển đến năm 2020 41
2.2. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một 42
2.2.1. Nhận thức của sinh viên về vai trò và tầm quan trọng của hoạt động tự học 42
2.2.2. Thực trạng thực hiện các nội dung tự học của sinh viên 45
2.2.3. Thực trạng sử dụng phương pháp và hình thức tự học của sinh viên 47
2.2.4. Thực trạng kết quả tự học của sinh viên 49
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một 50
2.3.1. Thực trạng phân cấp quản lý hoạt động tự học của SV 52
2.3.2. Thực trạng quản lý việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch hoạt động tự học của sinh viên
56
2.3.3. Thực trạng quản lý các điều kiện phục vụ hoạt động tự học của sinh viên 56

2.4. Đánh giá chung về thực trạng 57
2.4.1. Thành công 57
2.4.2. Những mặt hạn chế 58
Kết luận chương 2 59
Chương 3
MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT,
TỈNH BÌNH DƯƠNG 61
3.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp 61
3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục tiêu 61
3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn 61
3.1.3. Nguyên tắc hệ thống 61
3.1.4. Nguyên tắc khả thi 62
3.1.5. Nguyên tắc hiệu quả 63
3.2. Một số biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một, tỉnh
Bình Dương 64
3.2.1. Nâng cao nhận thức về hoạt động tự học của sinh viên cho đội ngũ cán bộ, giảng viên và
sinh viên 64
3.2.2. Bồi dưỡng kỹ năng tự học cho sinh viên 72
3.2.3. Quản lý việc xây dựng kế hoạch tự học của sinh viên 73
3.2.4. Quản lý sát sao việc tổ chức thực hiện kế hoạch tự học của sinh viên 74
3.2.5. Chỉ đạo sát sao việc thực hiện các nội dung, phương pháp và hình thức tự học của sinh viên
78
3.2.6. Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của sinh viên 79
3.3. Thăm dò tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lý được đề xuất 83
Kết luận chương 3 86
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 87
1. Kết luận 87
2. Kiến nghị 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO 91

PHỤ LỤC 95
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
GD - ĐT : Giáo dục - đào tạo
GD : Giáo dục
GV : Giáo viên
HĐTH : Hoạt động tự học
HS-SV : Học sinh - sinh viên
QĐ : Quyết định
SV : Sinh viên
TT : Thứ tự
TW : Trung ương
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Sự cần thiết của hoạt động tự học 44
Bảng 2.2. Vai trò của hoạt động tự học 44
Bảng 2.3. SV xác định các nội dung tự học 45
Bảng 2.4. Phương pháp sinh viên tự học 47
Bảng 2.5. Hình thức tự học của sinh viên 48
Bảng 2.6. Ý kiến của sinh viên về hiệu quả trong công tác
quản lý hoạt động tự học 51
Bảng 2.7. Ý kiến của cán bộ quản lý và giảng viên về hiệu quả
trong công tác quản lý hoạt động tự học 51
Bảng 3.1. Tổng hợp các kết quả thăm dò về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp được đề
xuất 84
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, xu hướng chủ đạo trong sự đổi mới quá
trình dạy học, nâng cao chất lượng GD - ĐT, là thực tiễn quan điểm dạy học
tích cực (hay còn gọi là dạy học lấy người học làm trung tâm) mà ý tưởng cốt
lõi là người học phải tích cực, chủ động, tự chủ trong quá trình học tập. Hội

nghị lần thứ 2 của Ban Chấp Hành TW Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa VIII
cũng đã xác định: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc
phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học.
Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào
quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho
học sinh, nhất là SV cao đẳng và đại học” [3].
Trong quá trình dạy học, người học vừa là đối tượng tác động của dạy
học, lại vừa là chủ thể của quá trình đó. Trong khi các hoạt động khác của con
người hướng vào việc làm thay đổi đối tượng khách thể thì hoạt động học tập
làm cho chính hoạt động chủ thể thay đổi. Bằng hoạt động học tập, người học
tự hình thành và phát triển nhân cách của mình không ai có thể làm thay, mặc
dù trong dạy học có sự chỉ đạo, hướng dẫn trợ giúp của người dạy. Tác động
của người dạy chỉ có thể được phát huy khi thông qua hoạt động tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học. Chính vì vậy, mục tiêu của quá trình dạy học
cũng chính là mục tiêu của quá trình tự học. Ngoài ra, tự học còn là con
đường thử thách, rèn luyện và hình thành ý chí cao đẹp của mỗi SV trên con
đường lập nghiệp, là con đường tạo ra tri thức bền vững cho người học. Do
đó, quản lý hoạt động dạy học nói chung, quản lý HĐTH nói riêng có vai trò
quan trọng, nó góp phần khắc phục nghịch lý: học vấn thì vô hạn mà thời gian
học ở trường thì có hạn, đảm bảo tự học - một chìa khóa vàng của GD.
Chất lượng giáo dục và đào tạo vừa phụ thuộc vào hoạt động dạy của
thầy nhưng cũng vừa phụ thuộc vào hoạt động học của trò, trong đó hoạt động
tự học của trò đóng vai trò rất quan trọng, vì chỉ khi các em tích cực chủ động
tiến hành các hoạt động nhận thức dưới sự tổ chức, điều khiển của thầy thì
hoạt động dạy học mới hoàn thành được mục đích của mình.
Quy chế Công tác học sinh, sinh viên [3,tr.2] được ban hành theo Quyết
định số 42/2007/QĐ - BGD & ĐT ngày 13 tháng 08 năm 2007 đã xác định
công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên là một trong những công tác
trọng tâm ở trường Đại học. Đây là công tác hướng vào thực hiện mục tiêu
giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có năng lực cao

về chuyên môn, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ, bản lĩnh chính trị
vững vàng, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đáp
ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Quản lý hoạt động tự học của SV không chỉ giới hạn trong quản lý giờ
học ở trên lớp mà còn gồm cả quản lý việc SV tự tổ chức quá trình học tập
của mình thông qua các hoạt động tự nghiên cứu, học nhóm, tham quan, thực
hành, thực tập, làm bài tập, học ở thư viện Quản lý hoạt động tự học bao
hàm quản lý thời gian học tập, chất lượng học tập, tinh thần, thái độ và
phương pháp học tập của SV.
Trường Đại học Thủ Dầu Một được thành lập và đi vào hoạt động gần
được 5 năm. Nhà trường đang trong quá trình củng cố, phát triển và mở rộng
quy mô, từng bước khẳng định vị trí, uy tín trong xã hội và trong hệ thống các
trường đại học Việt Nam. Trong thời gian qua, các hoạt động tự học của SV
luôn được Ban Giám hiệu nhà trường ưu tiên thực hiện. Trường đã có nhiều
cố gắng để đưa công tác quản lý hoạt động tự học của SV đi vào nề nếp như
sắp xếp thời khóa biểu học tập, lịch thi, kiểm tra phù hợp với điều kiện của
nhà trường và thuận lợi cho hoạt động tự học của SV.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tình hình HĐTH của SV Trường Đại học
Thủ Dầu Một còn tồn tại một số hạn chế dẫn tới chất lượng học tập của sinh
viên còn chưa cao. “Hiện nay HĐTH của sinh viên chưa đáp ứng với yêu cầu
đổi mới phương pháp dạy học, một số khâu của HĐTH vẫn chưa được đổi
mới rõ nét” [2].
Điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết phải chú trọng việc xây dựng và áp
dụng các biện pháp quản lý hoạt động tự học của SV nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường. Chính vì vậy chúng tôi lựa chọn
nghiên cứu vấn đề “Quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học
Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt động

tự học của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Vấn đề quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường đại học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Thủ
Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
4. Giả thuyết khoa học
Chất lượng hoạt động tự học của SV trường Đại học Thủ Dầu Một sẽ
được nâng lên nếu xác định và thực hiện được một số biện pháp quản lý có cơ
sở khoa học, có tính khả thi.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề quản lý hoạt động tự học của
sinh viên trường đại học.
5.2. Nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên
trường Đại học Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên
trường Đại học Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: nhằm xây dựng cơ sở lý
luận của đề tài. Bao gồm: Phương pháp phân tích - tổng hợp, phân loại và hệ
thống hóa lý thuyết; phương pháp cụ thể hóa lý thuyết.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn nhằm xây dựng cơ sở
thực tiễn của đề tài và thăm dò tính cần thiết, khả thi của các biện pháp quản
lý được đề xuất. Bao gồm: Phương pháp điều tra; Phương pháp quan sát;
Phương pháp phỏng vấn; Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
6.3. Phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu thu được.
7. Những đóng góp mới của đề tài
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về hoạt động tự học và quản lý
hoạt động tự học của SV đại học.

- Làm rõ thực trạng hoạt động tự học và quản lý hoạt động tự học của
SV trường Đại học Thủ Dầu Một, từ đó đề xuất được các biện pháp quản lý
hoạt động tự học của SV có tính khả thi cao.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề quản lý hoạt động tự học của sinh
viên trường đại học.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường
Đại học Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Chương 3: Một số biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên
trường Đại học Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Tổng quan về nghiên cứu vấn đề
Học chính là nền móng cho sự phát triển của bất kỳ lĩnh vực nào, một
tổ chức nào hay quốc gia nào. Học trong đó có tự học là vấn đề muôn thuở và
rất được quan tâm trong các thời kỳ của lịch sử loài người. Vì vậy, từ cổ xưa,
vấn đề tự học đã có rất nhiều tác giả đề cập, từ thời Trung Hoa cổ, Khổng Tử
(551-479 TrCN) đã nói: "Học tư kết hợp", "Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất
học tắc đãi" (Luận ngữ - vi chính) [30], nghĩa là học phải kết hợp với suy
nghĩ, học mà không suy nghĩ thì dễ mắc lầm, chỉ nghĩ mà không học thì chỉ
thêm ngu tối, đã chỉ rõ phương pháp tự học. Chính nhờ học hỏi đã trang bị
cho con người tri thức để từ đó chinh phục thế giới xung quanh mình.
Tương tự, Socrates (469 - 339 TrCN) cũng đưa ra quan điểm về giáo
dục, đó là “Giáo dục phải giúp con người tự khẳng định chính mình” [16,
tr.5]. Ông cho rằng giáo dục là giúp người học tiếp thu kiến thức do thầy
truyền đạt, nhưng người học không phụ thuộc vào người thầy mà phải tự
mình tiếp thu, suy nghĩ, tìm tòi để biến kiến thức đó trở thành của mình. Hay

nói cách khác, người học phải tự mình làm chủ kiến thức và bắt nó phục vụ
cho các nhu cầu của bản thân.
Nghiên cứu hoạt động tự học của SV đại học các tác giả A.A.Goroxepxki
và M.I.Lubixơna đã khái quát công việc học tập của SV đại học gồm: nghe và
ghi bài, đọc và ghi tài liệu, chuẩn bị Xêmina, thi, kiểm tra, tổ chức lao động trí
óc và kế hoạch làm việc để chỉ dẫn cho SV được trình bày trong sách "Tổ
chức công việc tự học của SV đại học" [1]. Đó cũng là những cách thức tự
học cụ thể mà đến nay SV đại học vẫn đang thực hiện.
Một nghiên cứu khác về hoạt động học tập, sách "Học tập hợp lý"
R.Retzke chủ biên [3]. Ông coi việc học tập ở đại học là một quá trình phát
triển con người, không ai làm thay được người học trong các hoạt động của bản
thân họ và nhấn mạnh: "Tiếp thu và tích lũy hiểu biết - một nhiệm vụ của tự
học".
Khi xuất hiện lý thuyết lấy người học làm trung tâm vào cuối thế kỷ
XIX, đầu thế XX ở các nước phương tây đã làm nảy sinh những quan niệm
mới về cách dạy, cách học,. Tiêu biểu có các tác giả: J.Điuây (Mỹ), Xarut
(Pháp) [23] Những ý tưởng và chủ trương của lý thuyết này là đề cao,
khuyến khích, tạo điều kiện cho người học thực hiện việc học thông qua cách
thức và kinh nghiệm học, tự thể hiện và chịu trách nhiệm về hành động cũng
như kết quả học tập của chính mình.
Ở nước Nga có N.A.RuBaKin với tác phẩm "Tự học như thế nào " [3]
tác phẩm chủ yếu hướng dẫn phương pháp đọc sách.
Nhà sư phạm nổi tiếng người Nhật - T.Makiguchi cho rằng "Mục đích
của GD là hướng dẫn quá trình học tập và đặt trách nhiệm học tập vào tay mỗi
học sinh. GD như là một quá trình hướng dẫn học sinh tự học mà động lực
của nó là kích thích người học sáng tạo ra giá trị để đạt tới hạnh phúc của bản
thân và cộng đồng" [3].
Tác phẩm "Học tập - một kho báo tìm ẩn" [22] của UNESSCO đã đề
cập nhiều khía cạnh học tập trong xã hội tương lai, trong đó đặc biệt nhấn
mạnh đến vai trò của người học, cách học cần phải được dạy cho thế hệ trẻ.

Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học, tự học, đã để lại cho
chúng ta nhiều tư tưởng GD có giá trị: Hồ Chí Minh - một tấm gương sáng,
điển hình về việc tự học. Khi nói về công tác huấn luyện cán bộ, người chỉ ra
"Lấy tự học làm cốt" [11]. Lời dạy này của Bác có hàm ý phải kết hợp chặt
chẽ nội lực - môi trường và sự quản lý. Người đề cao tinh thần học tập chủ
động, là nhu cầu nội lực của người học "phải biết tự động học tập".
Ở Việt Nam, vấn đề tự học đã có từ xa xưa. Thời phong kiến, thầy đồ
dạy học thường kèm một nhóm học sinh gồm nhiều đối tượng có trình độ
khác nhau. Các thầy đã chú ý trình độ, đặc điểm lứa tuổi, hoàn cảnh sống, môi
trường giáo dục, tính cách từng đối tượng để giảng dạy phù hợp, dưới sự
hướng dẫn của thầy người học tự chiếm lĩnh kiến thức. Trong thời đại ngày
nay vấn đề tự học càng được quan tâm và không thể thiếu được trong dạy học
hiện đại, người dạy không chỉ cung cấp thông tin đơn thuần mà chủ yếu giúp
người học ý thức được quá trình nhận thức của mình và điều khiển quá trình
đó, làm cho họ biết tự quản lý hoạt động học tập của mình. Dạy là giúp cho
người học tự chiếm lĩnh kiến thức, kỷ năng và hình thành tình cảm thái độ
đúng đắn, thực hiện mục tiêu của công cuộc đổi mới nền giáo dục nước ta là
để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Từ những năm 70 trở lại đây, trong các tài liệu về lý luận dạy học đại
học, nhiều giáo trình đã viết về tự học với tư cách là một hình thức tổ chức
dạy học ở đại học, nhằm bồi dưỡng lý luận cơ bản về tự học cho người học,
giúp SV vận dụng có hiệu quả vào hoạt động học tập của mình. Ngoài ra, có
nhiều bài báo của các nhà giáo, nhà quản lý GD, nhà khoa học viết về vấn đề
tự học của người học được đăng tải chủ yếu ở các tạp chí GD. Tháng 5/1997,
Trung tâm nghiên cứu phát triển tự học ra đời và cho ra mắt tạp chí "Tự học"
từ năm 1999. Tạp chí "Tự học" là nơi công bố các kết quả nghiên cứu, là diễn
đàn trao đổi, phổ biến kinh nghiệm tự học và phương pháp tự học.
Trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học đã có nhiều công trình
nghiên cứu về tự học, như:

- Sách "Tự học, tự đào tạo - tư tưởng chiến lược của phát triển GD Việt
Nam" [20], do tác giả Nguyễn Cảnh Toàn chủ biên. Các tác giả đã quan niệm
tự học gần với quan niệm tự đào tạo, tự học thường xuyên suốt đời của mỗi
con người với những nội dung cơ bản: sự học là gì, phương châm học, các
yếu tố, mâu thuẩn trở lực, điều kiện, phương tiện của việc tự học như thế nào.
Các tác giả hy vọng góp phần phổ biến, bồi dưỡng kinh nghiệm tự học cho
những ai quan tâm đến sự học như lời của tác giả Nguyễn Cảnh Toàn bộc
bạch: "Tôi muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc khơi ra và nhân lên kinh
nghiệm tự học của nhân dân ta, một tài nguyên quý giá mà theo tôi chưa được
khai thác mấy" [19]
- Sách "Quá trình dạy - tự học" [37] do tác giả Nguyễn Cảnh Toàn (chủ
biên) - Nguyễn Kỳ - Vũ Văn Tảo - Bùi Tường đã luận giải vấn đề "thầy dạy,
trò tự học" với các nội dung: mô hình, chu trình, quy trình, quy trình dạy - tự
học, hệ phương pháp dạy - học tích cực lấy người học làm trung tâm, cần phải
hướng dẫn cho người khác tự học thông qua tài liệu hướng dẫn tự học
- Sách "Phương pháp học tập, nghiên cứu của SV Cao Đẳng, đại học"
của tác giả Phạm Trung Thanh [39], đã xác lập mô hình về phương pháp học
tập - nghiên cứu của SV gồm các thành phần: xác định mục đích, động cơ,
thái độ, việc học ở trên lớp, việc học tập nghiên cứu ở nhà, việc học tập,
nghiên cứu ở tập hể, việc học tập nghiên cứu qua kiểm tra - thi
Theo tài liệu hiện có, trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có hơn 140 lần nói và viết về các vấn đề giáo dục.
Người quan tâm một cách sâu sắc về vấn đề học tập và tự học của cán bộ cách
mạng và học sinh. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người học phải nêu cao tác
phong độc lập, suy nghĩ, Có vấn đề nào chưa thông suốt thì phải đưa ra thảo
luận cho vỡ lẽ. Phải đặt câu hỏi vì sao và tìm cách trả lời cho câu hỏi đó. Chủ
tịch Hồ Chí Minh còn nêu ra nhiều luận điểm khác phù hợp với phương pháp
học tập hiện đại (dựa trên tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học tự tìm
ra tri thức, cách thức hành động nhận thức của mình đặt trên sự hướng dẫn
của giáo viên). Người đề cao vấn đề tự học, yêu cầu người học phải biết tự

động học tập, phải lấy tự học làm cốt. Chính cuộc đời và sự nghiệp của người
là tấm gương sáng ngời của ý chí quyết tâm trong học tập. Tư tưởng giáo dục
Hồ Chí Minh rất đơn giản, dễ hiểu, gắn với cuộc sống đời thường, nhưng lại
rất súc tích, phong phú nhất quán có một ý nghĩa sâu xa và bao gồm nhiều vấn
đề rộng lớn. Giáo dục không chỉ bó hẹp trong nhà trường, mà hướng tới giáo
dục toàn dân, làm cho toàn xã hội đều tham gia công tác giáo dục và tự giáo
dục, rèn luyện mình để trở thành những công dân tốt, cán bộ tốt, chiến sĩ tốt.
Tư tưởng giáo dục của Chủ Tịch Hồ Chí Minh được Đảng, nhà nước
vận dụng đưa vào đường lối giáo dục. Nghị quyết lần 2 BCH Trung Ương
Đảng khóa VIII nhấn mạnh: Đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao khả
năng tự học, tự nghiên cứu của người học. Quan điểm này tiếp tục phát triển
và được khẳng định ở các văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ
IX, lần thứ X: Đổi mới phương pháp dạy và học, theo hướng dạy cách tư duy,
cách học. Chuyển nền giáo dục đào tạo thi cử sang nền giáo dục đào tạo chất
lượng, tạo khả năng trao đồi trí tuệ của từng người, khả năng tự học, tự
nghiên cứu, làm giàu tri thức cho mình trong giáo dục đào tạo. Các hoạt động
giáo dục đào tạo được tổ chức theo quy trình và học chế mềm dẻo phát huy
tính tích cực của người học, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo
toàn diện.
Gần đây, một số nhà nghiên cứu cũng đã tiếp thu, mở rộng và làm rõ
thêm vấn đề tự học trong giáo dục như Lê Khánh Bằng: “Tự học là tự mình
suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một
số lĩnh vực khoa học nhất định” [1, tr.3]. hay Cảnh Toàn với “Quá trình dạy -
tự học - biển học vô bờ” [36]. Từ những góc độ khác nhau, các tác giả đã
nhấn mạnh vai trò to lớn của việc tự học, nghiên cứu một số giải pháp quản lý
hoạt động tự học của sinh viên.
Như vậy, tự học đã được nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau. Bởi vì, tự học trong nền giáo dục
hiện đại nắm vai trò quan trọng, quyết định đến hiệu quả và chất lượng của
công tác đào tạo.

Tuy đã có nhiều đề tài nghiên cứu về tự học nhưng việc quản lý hoạt
động tự học của sinh viên Đại học Thủ Dầu Một hiện nay chưa có tác giả nào
đề cập đến. Do đó, với nhận thức được việc quản lý hoạt động tự học của sinh
viên là nhiệm vụ quan trọng để góp phần thực hiện thành công mục tiêu đào
tạo của Đại học Thủ Dầu Một. Vì vậy, đề tài tập trung nghiên cứu sâu về cơ
sở lý luận và thực trạng của quản lý hoạt động tự học từ đó đề xuất các biện
pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên Đại học Thủ Dầu Một, tỉnh Bình
Dương một cách hiệu quả hơn.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Tự học
Gibbon đã nói: “Mỗi người đều phải nhận hai thứ giáo dục, một thứ do
người khác truyền cho, một thứ quan trọng hơn do chính mình tạo lấy” [22,
tr.22]. Thứ do người khác truyền cho chính là những kiến thức mà người học
tiếp thu từ sự truyền đạt của thầy. Còn thứ quan trọng hơn do chính mình tạo
lấy chính là việc tự học.
Như vậy, có thể định nghĩa như N.A.Rubakin: “Tự học là quá trình lĩnh
hội tri thức, kinh nghiệm xã hội lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng
cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các
mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến tri thức của loài người thành vốn tri
thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo của bản thân chủ thể” [24, tr.35]. Song
song đó, trong quá trình lĩnh hội thì người học phải “tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (so sánh, quan sát, phân tích, tổng hợp…) và
có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, cả
động cơ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan,
có chí tiến thủ, không ngại khó…) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó
của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình” [28, tr.80].
Theo đại từ điển tiếng Việt (1998) [25], "Tự": từ biểu thị hoạt động do
chủ thể tiến hành không nhờ đến kẻ khác hoặc có ý nghĩa phản thân: tự giác,
tự lực. Với cách tiếp cận khác nhau, các nhà GD Việt Nam đã đưa ra những
khái niệm khác nhau về tự học.

+ Theo Đặng Hữu Hoạt, Hà Thị Đức: "Tự học là một hình thức tổ chức
dạy học cơ bản ở đại học. Đó là một hình thức hoạt động nhận thức của cá
nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng hoạt động nhận thức của
người học tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo
chương trình và sách giáo khoa đã quy định " [8].
+ Theo Nguyễn Cảnh Toàn: "Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử
dụng các năng lực trí tuệ và có khả năng cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ)
cùng các phẩm chất của mình rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế
giới quan để chiếm lĩnh vực đó thành sở hữu của mình" [18]
+ Theo Vũ Văn Tảo: "Học, cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội
tại, trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình " [16].
+ Theo Võ Quang Phúc: "Học, một khi được hiểu như là sự chiếm lĩnh
kinh nghiệm của nhân loại, thì tự nó bao gồm cả HĐTH. Nói khác đi, tự học
là bộ phận của học, nó cũng được tạo thành bởi những thao tác, cử chỉ, ngôn
ngữ, hành động của người học trong hệ thống tương tác của hoạt động dạy
học. Tự học phản ánh rõ nhất nhu cầu bức xúc về học tập của người học, phản
ánh năng lực tổ chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt kết quả nhất
định trong hoàn cảnh nhất định với một nội dung học tập nhất định" [15].
Qua các khái niệm về tự học đã nêu trên, chúng tôi hiểu rằng, tự học là
hoạt động tổ chức nhận thức độc lập của từng người học, tự phát huy năng lực
cá nhân để thực hiện các nhiệm vụ tự học xác định. Tự học là "tự động học
tập", thể hiện tính tự lực, tự giác, tích cực cao trong quá trình lĩnh hội kiến
thức, rèn luyện kỹ năng. Vì vậy, tự học mang đậm sắc thái cá nhân, biểu hiện ở:
tự xác định mục tiêu chiếm lĩnh kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hoàn thành các
nhiệm vụ tự học cụ thể đặt ra trong từng giờ học, buổi học; tự lập kế hoạch,
tiến độ, thời gian tự học phù hợp với mục tiêu tự học đã xác định; tự xác định
nội dung, nhiệm vụ, lựa chọn phương pháp tự học, sử dụng phương tiện tự học
phù hợp; tự kiểm tra - đánh giá, tự điều chỉnh việc học của bản thân.
1.2.2. Hoạt động tự học
a) Hoạt động

"Hoạt động là sự tương tác tích cực của chủ thể và đối tượng nhằm biến
đổi đối tượng theo mục đích mà chủ thể tự giác đặt ra để thỏa mãn nhu cầu
của bản thân" [43].
Hoạt động nảy sinh từ nhu cầu nhưng lại được điều chỉnh bởi mục tiêu
mà chủ thể nhận thức được, nghĩa là nhu cầu, là cơ sở xuất phát, là động cơ
của hoạt động, nhưng nội dung, hình thái của hoạt động lại chịu sự chi phối
bởi mô hình lý tưởng của kết quả mong muốn, của sự biến đổi đối tượng. Cấu
trúc hoạt động gồm ba cấp độ từ thấp đến cao: cấp bậc thao tác, cử động; cấp
bậc hành động và cấp bậc hoạt động.
Hoạt động gồm hai thành tố cơ bản là chủ thể và đối tượng, đồng thời
có hai đặc trưng bản chất có tính phạm trù, đó là:
- Tính có đối tượng: là đối tượng khách quan có khả năng thỏa mãn nhu
cầu và được chủ thể chọn.
- Tính có chủ thể: là khi cá nhân trở thành chủ thể của hoạt động, là
những tác động tích cực để biến đổi chiếm lĩnh đối tượng và qua đó, chủ thể
và đối tượng được cải tạo.
b) Hoạt động tự học
HĐTH là quá trình tổ chức nhận thức độc lập, tự phát huy năng lực cá
nhân một cách tích cực, tự giác, tự lực chiếm lĩnh tri thức khoa học [1].
HĐTH về bản chất là sự tiếp thu, tự xử lý thông tin, chủ yếu bằng các
thao tác trí tuệ [13].
- Cấu trúc hệ thống của HĐTH
+ Động cơ: là lực đẩy trực tiếp, là nhu cầu hứng thú tạo ra sự chú ý liên
tục, thu hút người học vào quá trình học tập một cách tích cực trong mọi giai
đoạn học tập.
+ Định hướng: là mục đích của người học để xác định và ý thức được
hoạt động nhận thức của mình.
+ Nội dung: là hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cần chiếm lĩnh.
+ Kế hoạch tự học: là bảng phân chia nội dung tự học dựa trên yêu cầu
nhiệm vụ tự học, khả năng bản thân và các điều kiện bảo đảm để đạt được

mục tiêu đề ra.
+ Phương pháp tự học: là cách thức chiếm lĩnh nội dung tự học.
+ Hình thức tự học: là các kiểu diển ra HĐTH (tự học một mình, theo
nhóm, theo lớp ).
+Tự kiểm tra - đánh giá: là hoạt động kiểm tra của cá nhân đối với kết
quả tự học, phát hiện sai lệch, giúp người học điều chỉnh, làm cơ sở cho
HĐTH tiếp theo [14].
- Nội dung của HĐTH
Nội dung tự học bao gồm toàn bộ những vấn đề học tập do cá nhân
người học độc lập tiến hành, biểu hiện cụ thể qua việc thực hiện các nhiệm vụ
tự học hàng ngày. Trên cơ sở mục tiêu, yêu cầu đào tạo, nội dung của HĐTH
được xem xét ở ba khía cạnh sau [7] [13]:
+ Về nội dung tự học cơ bản: quán triệt phương châm, biến quá trình
đào tạo của Nhà trường thành quá trình tự đào tạo của mỗi người học. Do đó,
nội dung tự học của người học phải toàn diện, đầy đủ theo yêu cầu và
chương trình học quy định. Xét về cơ bản, nội dung của HĐTH gồm: kiến
thức cơ bản, kiến thức, kỹ năng về nghề nghiệp đang được đào tạo; tri thức
phương pháp.
+ Về nội dung tự học thường xuyên: là những nội dung tự học diễn ra
hàng ngày, thể hiện ở việc giải quyết các nhiệm vụ tự học cụ thể, nội dung
HĐTH rất phong phú, có thể kể đến: nghiên cứu bút ký, đọc và nghiên cứu
giáo trình, tài liệu; ghi chép tài liệu học tập; ghi nhớ tài liệu học tập; chuẩn bị
cho các buổi học sau, bài học sau; trao đổi, tranh luận học hỏi; ôn luyện
+ Về nội dung tự học mở rộng: ngoài những nội dung tự học bắt buộc
theo mục tiêu, yêu cầu, chương trình đào tạo của Nhà trường, người học có thể
tự học, tự nghiên cứu những lĩnh vực tri thức theo sở thích, sở trường cá nhân.
Nội dung tự học thường xuyên có ý nghĩa là phương tiện từng bước
thực hiện và hướng tới nội dung tự học cơ bản. Nội dung tự học cơ bản biểu
hiện cụ thể và được thực hiện thông qua nội dung tự học thường xuyên. Nội
dung tự học mở rộng có tác động tích cực, bổ sung, làm phong phú hơn cho

nội dung tự học cơ bản và nội dung tự học thường xuyên.
1.2.3. Quản lý và quản lý hoạt động tự học
a) Quản lý
Thuật ngữ quản lý được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau trên cơ sở
những cách tiếp cận khác nhau. Chẳng hạn, có một số cách định nghĩa sau đây:
- Quản lý là quá trình hoàn thành công việc thông qua sử dụng con
người và làm việc với con người.
- Quản lý là hoạch định, tổ chức, bố trí nhân sự, lãnh đạo, kiểm soát
công việc và những nỗ lực của con người nhằm đạt được những mục tiêu đề ra.
- Quản lý là vận dụng, khai thác các nguồn lực, (hiện hữu và tiềm năng)
kể cả nguồn nhân lực để đạt đến những kết quả kỳ vọng [8].
- Quản lý là sự tác động của con người (cơ quan quản lý) đối với con
người và tập thể con người nhằm làm cho "bộ máy" hoạt động bình thường,
có hiệu lực giải quyết được các nhiệm vụ đề ra, là sự kiểm soát theo những
yêu cầu nhất định, tổ chức và điều hành các hoạt động theo những yêu cầu
nhiệm vụ đã đặt ra.
- Quản lý là sự tác động, chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn hành vi quá
trình xã hội để chúng phát triển hợp quy luật, đạt được những mục đích đã đề
ra và đúng ý chí của người quản lý.
- Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công
việc của các thành viên thuộc một hệ thống các đơn vị và việc sử dụng các
nguồn lực phù hợp để đạt được các mục đích đã định [9].
Từ các khái niệm trên, chúng tôi thấy rằng quản lý là một phạm trù
hoạt động có các đặt trưng sau:
- Là quá trình có mục đích, mọi hoạt động của nhà quản lý đều hướng
tới mục tiêu của tổ chức.
- Hoạt động của nhà quản lý là khai thác các nguồn lực một cách tối đa.
Do đó, cần có một quy trình hợp lý, sắp xếp nhân sự phù hợp với khả năng
của từng người, từng nhóm người.
Sau khi xem xét các khái niệm về quản lý, có thể sử dụng khái niệm

quản lý dưới đây: Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và
kiểm tra công việc của các bộ phận, các thành viên thuộc một hệ thống đơn vị
và việc sử dụng các nguồn lực phù hợp để đạt được mục đích đã định.
b) Nội dung các chức năng của quá trình quản lý:
- Lập kế hoạch
Kế hoạch là văn bản trong đó xác định những mục tiêu và những quy
định, thể thức, thời gian để đạt mục tiêu đó, có thể hiểu lập kế hoạch là quá
trình thiết lập các mục tiêu, hệ thống các hoạt động và các điều kiện đảm bảo
thực hiện được các mục tiêu đó.
Về mặt logic, việc lập kế hoạch sẽ đi trước việc thực hiện toàn bộ các
chức năng quản lý khác. Kế hoạch là bản hướng dẫn, theo đó:

×