Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Sắc thái trữ tình trong tiểu thuyết nguyễn bình phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.42 KB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ THU PHƯƠNG

SẮC THÁI TRỮ TÌNH
TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN - 2014
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ THU PHƯƠNG
SẮC THÁI TRỮ TÌNH
TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
TS. LÊ THANH NGA

NGHỆ AN - 2014
4
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 8
1. Lí do chọn đề tài 8
2. Lịch sử vấn đề 9


3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát 10
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu 11
5. Phương pháp nghiên cứu 11
6. Cấu trúc luận văn: 11
Chương 1
TRỮ TÌNH, MỘT YẾU TỐ QUAN TRỌNG
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG 12
1.1. Trữ tình và chất trữ tình trong văn học 12
1.1.1. Khái niệm trữ tình 12
1.1.2. Chất trữ tình 14
1.1.3. Trữ tình trong văn học 15
1.2. Trữ tình, một đặc điểm quan trọng trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 17
1.2.1. Trữ tình trong tiểu thuyết 17
1.2.2. Trữ tình trong tiểu thuyết Việt Nam trước 1975 18
1.2.3. Trữ tình trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 21
1.3. Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương trong bối cảnh tiểu thuyết Việt Nam
đương đại 25
1.3.1. Vài nét về tác giả 25
1.3.2. Hành trình sáng tạo và quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Bình Phương
26
1.3.3. Nhìn qua thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
29
Chương 2
NHỮNG CẢM HỨNG LỚN VÀ CÁI NHÌN VỀ HIỆN THỰC
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG 31
2.1. Cảm hứng hướng về quá khứ 31
2.1.1. Cảm hứng lịch sử 31
2.1.2. Ký ức của thế giới hiện hữu 36
2.1.3 Kí ức của thế giới tàn phai 39
2.2. Cảm hứng về thân phận con người 44

2.2.1. Con người gắn liền với cảm hứng bi kịch 44
2.2.2. Con người trong chiều sâu tự nhận thức 46
2.2.3. Con người được khai thác ở góc bản năng tính dục 49
2.3. Một cái nhìn da diết về hiện thực 52
2.3.1. Một hiện thực đang phân rã 52
2.3.2. Hiện thực mong manh 55
2.3.3. Hiện thực đầy chất thơ 57
Chương 3
SẮC THÁI TRỮ TÌNH
TRONG TỔ CHỨC TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG 60
3.1. Cấu trúc cốt truyện 60
3.1.1. Mạch cảm xúc đan xen 60
3.1.2. Giao thoa thơ - tiểu thuyết 62
3.1.3. Cấu trúc cốt truyện theo dòng chảy ý thức nhân vật 67
3.2. Sắc thái trữ tình thể hiện trong thế giới hình ảnh 69
3.2.1. Thế giới hình ảnh mang tính biểu tượng 69
6
3.2.2. Thế giới hình ảnh lặp lại 74
3.2.3. Hình ảnh giàu suy tư của thế giới mở 77
3.2.4. Hình ảnh những giấc mơ 80
3.3. Sắc thái trữ tình thể hiện trên một số bình diện nghệ thuật khác 82
3.3.1. Sử dụng những chi tiết tạo lây lan cảm xúc 82
3.3.2. Sử dụng ngôn ngữ giàu chất thơ 84
3.3.3. Sử dụng thủ pháp so sánh liên tưởng 87
KẾT LUẬN 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
7
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Là sản phẩm tinh thần tiêu biểu nhất cho thời đại mới, tiểu thuyết

luôn giữ một vị trí quan trọng trong nền văn học. Thể loại này bao giờ cũng vậy,
phản ánh rõ nhất bộ mặt đời sống tinh thần và những thăng trầm xã hội đang
diễn ra trong thực tế, khám phá cuộc sống nhiều chiều và hướng đến những vấn
đề đời tư. Chính vì vậy tiểu thuyết có điều kiện gần gũi với con người hiện đại.
Do đó, vượt qua ý nghĩa thể loại, tiểu thuyết còn là một giai đoạn, một cấp độ
mới trong tư duy nghệ thuật của con người về thế giới.
Ở Việt Nam, từ sau 1975 và nhất là sau 1986, tiểu thuyết mới bùng phát,
thăng hoa, thực sự đổi mới ở tư duy nghệ thuật, làm thay đổi các yếu tố thuộc về
cơ cấu tiểu thuyết như: cấu trúc đề tài, cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ
1.2. Nguyễn Bình Phương là tác giả thuộc trào lưu đổi mới tiểu thuyết
Việt Nam, tên tuổi anh được biết đến từ cuối những năm 90 của thế kỉ XX.
Những năm gần đây, tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương trở thành đối tượng
của nhiều công trình nghiên cứu khoa học. Đi sâu vào tác phẩm của Nguyễn
Bình Phương ta nhận thấy một lối viết rất riêng biệt, mới mẻ từ cách nhìn hiện
thực, tiếp cận nhân vật, sáng tạo cốt truyện, xây dựng không gian, thời gian cho
đến sử dụng ngôn từ. Đặc biệt, lối tư duy thơ và logic cảm xúc đã chi phối đến
thể loại tiểu thuyết tạo nên một lối viết lạ ở anh. Thế giới tiểu thuyết của Nguyễn
Bình Phương vừa là hiện thực cuộc sống trần trụi, ngổn ngang những thô tục,
chát chúa nhưng cũng đầy nên thơ.
1.3. Như một hệ quả tất yếu của nhu cầu khái quát một hiện thực có chiều
sâu, hiện thực tâm hồn, tiểu thuyết nói riêng và văn xuôi Việt Nam nói chung sau
1975 dung nạp trong nó một cách đậm đặc chất trữ tình. Các tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phương có thể coi là tiêu biểu cho phong cách trữ tình trong tiểu
thuyết. Nghiên cứu sắc thái trữ tình trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
8
cũng là góp phần nhận diện một trong những đặc điểm quan trọng của văn xuôi,
của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975.
2. Lịch sử vấn đề
Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương có những khác lạ về kết cấu, xây dựng
nhân vật, nghệ thuật trần thuật Chính sự khác lạ ấy đã thu hút sự quan tâm của

giới nghiên cứu phê bình văn học. Theo Phạm Xuân Thạch, nếu cần lựa chọn
một hiện tượng tiêu biểu nhất của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, ưu tiên số
một chắc chắn sẽ là những sáng tác của Nguyễn Bình Phương.
Thuỵ Khuê là người quan tâm tới sáng tác của Nguyễn Bình Phương khá
sớm, đã viết nhiều bài phê bình về những cuốn tiểu thuyết của nhà văn. Trong
bài "Thoạt kỳ thuỷ trong vùng đất Cậm Cam hoang vu của Nguyễn Bình
Phương", Thuỵ Khuê đã cảm nhận cuốn tiểu thuyết “là một bài thơ đẫm máu và
nước mắt, đẫm tang thương, đầy huyễn hoặc; Những yếu tố vừa kịch, vừa phi
kịch, vừa thơ, vừa phi thơ là mấu chốt trong cấu trúc tiểu thuyết”.
Hồ Bích Ngọc trong luận văn Thạc sĩ Nguyễn Bình Phương với việc khai
thác tiềm năng thể loại để hiện đại hóa tiểu thuyết sau khi đã phân tích nhiều
bình diện của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương khẳng định rằng: Sự phân rã cốt
truyện là điểm thổn rất rõ và diễn ra trên hầu hết tiểu thuyết của ông Sự phá
hủy cốt truyện như trên cũng đồng nghĩa với việc nhà văn từ chối một hiện thực
“tả thực”, một hiện thực “chụp ảnh” để đến với “một chân trời mới của tiểu
thuyết”, một hiện thực của tâm linh, của trí nhớ và trí tưởng tượng đầy sáng tạo
và bất ngờ.
Cũng trong luận văn của mình, Hồ Bích Ngọc tiếp tục khẳng định: Kết
cấu trò chơi rubich với sự lắp ghép giữa các thể loại kịch, thơ, truyện, sự dung
hợp giữa các ẩn dụ và biểu tượng, sự đồng hiện về thời gian và không gian, ý
thức và vô thức.
Trong luận văn thạc sĩ Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương, Hoàng Thị Thuỳ Linh khi nghiên cứu về ngôn ngữ và giọng điệu trần
9
thuật đã nhận xét: “Giọng điệu trữ tình đã tạo ra một dòng mạch riêng trong tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương, tạo ra những đoạn văn mượt mà, giàu chất thơ”.
Hoàng Cẩm Giang trong đề tài Cấu trúc thể loại tiểu thuyết Việt Nam đầu
thế kỉ XXI đã nhận xét về tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương: “Xen kẽ giữa các
dòng tự sự, người đọc liên tục bắt gặp những khúc đoạn lạ- mang chức năng
“ngoại đề”- vốn không nằm trong “chính mạch” tự sự để lại những khoảng

trống mênh mang trên văn bản”.
Phùng Gia Thế trong bài viết "Cảm nhận tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương", đã khẳng định: tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương ám ảnh bởi sự khủng
hoảng niềm tin của con người, của nhà văn vào con người và cuộc đời, sự đổ vỡ
của trật tự đời sống xã hội và gia đình, sự ngắc ngoải ngưng đọng của đời sống,
sự đánh mất bản ngã, phương hướng, sự băng hoại đạo đức, sự đau đớn bơ vơ,
tình trạng bất an của con người.
Trong bài viết "Lối đi riêng của Nguyễn Bình Phương", Hoàng Nguyên
Vũ cảm nhận ở Nguyễn Bình Phương một lối viết như người mộng du, tạo nên
màn sương nhòe mờ cho sự xuất hiện của thế giới nhân vật.
Những bài viết và một số công trình nghiên cứu khoa học về Nguyễn Bình
Phương hướng vào phát hiện cái bất định, cái vô thức, dấu ấn chủ nghĩa hiện
thực huyền ảo, nghệ thuật lạ hoá phần nào minh chứng cho sự cách tân đổi mới
tiểu thuyết của anh trong xu hướng vận động tiểu thuyết Việt Nam sau 75. Với
đề tài “Sắc thái trữ tình trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương” chúng tôi mong
muốn góp thêm một cách nhìn nhận nữa đối với tiểu thuyết của anh.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sắc thái trữ tình trong tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phương
3.2. Phạm vi khảo sát
Luận văn tập trung khảo sát 07 cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương:
10
Vào cõi, Những đứa trẻ chết già, Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn, Bả giời, Thoạt
kì thủy, Ngồi.
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
4.1. Đưa ra cái nhìn chung nhất về trữ tình trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, cũng như trữ tình trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
4.2. Chỉ ra sắc thái trữ tình trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
trên các cấp độ cảm hứng, cái nhìn về hiện thực.

4.3. Chỉ ra sắc thái trữ tình trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
trên một số phương diện hình thức.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu khác nhau: phương pháp phân tích - tổng hợp; phương
pháp khảo sát - thống kê; phương pháp so sánh.
6. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Trữ tình, một yếu tố quan trọng trong tiểu thuyết của Nguyễn
Bình Phương
Chương 2: Những cảm hứng lớn và cái nhìn hiện thực trong tiểu thuyết
của Nguyễn Bình Phương
Chương 3: Sắc thái trữ tình trong tổ chức tiểu thuyết của Nguyễn Bình
Phương
11
Chương 1
TRỮ TÌNH, MỘT YẾU TỐ QUAN TRỌNG
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
1.1. Trữ tình và chất trữ tình trong văn học
1.1.1. Khái niệm trữ tình
Trong nguồn gốc, trữ tình được hiểu là một trong ba loại hình văn học
(bên cạnh tự sự và kịch). Ở đây, cái được để lên hàng đầu là chủ thể phát ngôn và
thái độ của nó đối với cái được mô tả. Hêgel đã nhận xét ở trữ tình có sự trùng
hợp ở chủ thể và khách thể trong một ngôi. Nhân vật trung tâm của tác phẩm trữ
tình chính là người tạo ra tác phẩm, trước hết là thế giới bên trong anh ta.
Được để lên hàng đầu sự biểu lệ điểm nhìn của chủ thể trữ tình, việc mô tả
thế giới bên ngoài, khung cảnh thiên nhiên, các sự vật, các sự kiện…) ở tác phẩm
trữ tình cũng phục vụ mục đích tự biểu hiện. Ở những trường hợp không xuất
hiện trực tiếp cái tôi của tác giả, chỉ hiện diện một sự mô tả có vẻ ngoài khách

quan thì trong mạch nguồn văn bản vẫn cảm thấy có cái nhìn của nhà thơ trong
những chiêm nghiệm và những giá trị thế giới.
Cảm xúc trữ tình luôn luôn hiện diện “ở thì hiện tại” (nhận xét của Jean
Paul), nội dung có thể chứa đựng ý nghĩa toàn nhân loại, bất kì người đọc nào xét
về tiềm năng cũng có thể nhận ra ở tác phẩm trữ tình những tình cảm và suy nghĩ
của mình. Dù có rất nhiều dị biệt về cách cảm nhận thế giới của những con người
khác nhau, ở những thời đại khác nhau, phạm vi cảm xúc mang tính người vẫn
tương đối bền vững. Văn học trữ tình của các thời đại khác nhau đều khai thác
cái vẫn được gọi là “những chủ thể vĩnh cửu” (sống, chết, hạnh phúc, tình yêu,
ước mơ, hi vọng…)
Có rất nhiều loại phát ngôn trữ tình. Cảm xúc và suy nghĩ có thể được chủ
thể nói lên ở người thứ nhất bằng độc thoại, hoặc có thể nói lên từ vai một nhân
vật được đưa vào văn bản (kiểu trữ tình nhập vai), có thể được truyền đạt thông
12
qua việc mô tả sự vật, có thể được khách quan hóa thành đối thoại giữa các nhân
vật, có thể dưới dạng nói một ai đó không xác định, có thể được soi rọi thông qua
một cốt truyện…
Có cách phân loại trữ tình theo đề tài (tình yêu, trữ tình công dân, trữ tình
triết lý…) nhưng đây là cách phân loại trữ tình theo đề tài gắn với sự phát triển
lịch sử cụ thể của nền văn học dân tộc, của các khu vực có chung những truyền
thống trong tiến trình văn học. Ở sáng tác dân gian, trữ tình thường khác biệt
nhau về chức năng (bài hát đám cưới, bài hát tang lễ…) hoặc về làn điệu. Ở văn
học Cổ đại Hyla, trữ tình được phân chia theo tính chất diễn xướng (ode,
dithirampos, epithalamios,- cho dàn đồng ca, iambos, elegos, epigramma- cho
đời ca). Ở Trung Hoa và Đông Á, trữ tình gần như đồng nhất với “thi”, tác phẩm
được phân chia theo các dấu hiệu về luật thơ (luật câu thơ ngũ ngôn, lục ngôn,
thất ngôn, luật bài thơ tứ tuyệt, bát cú, trường thiên…). Bên cạnh đó, cũng có
kiểu phân biệt tác phẩm theo hành vi trữ tình (ngôn chí, thuật hứng, mạn hứng,
thuật hoài…).
Cái nhìn (hoặc “quan điểm, điểm nhìn”) trữ tình đối với thế giới nảy sinh

khi con người ( , người đọc) biểu lộ thái độ riêng của mình đối với thế giới
xung quanh. Bởi vậy, cái tôi tự biểu hiện có vai trò đặc biệt quan trọng trong trữ
tình. Có những lập luận gắn sự phát triển của văn học trữ tình với… phát triển ý
thức của cá nhân ở mỗi xã hội, dân tộc. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, cả ở việc
trình diễn các bài ca trữ tình dân gian, cả ở việc sáng tác ra tác phẩm hữu danh ở
văn học viết, cả ở việc thuộc lòng từng đoạn thơ không phải do chính mình làm
ra đều có sự vận hành của cơ chế cảm xúc chủ quan như là “chỉ riêng cho mình”.
Ở đây mức độ tự ý thức về tính cá nhân, cá thể của con người không phải là điều
quan trọng. Do vậy, có thể nói đến cái nhìn trữ tình theo nghĩa rộng như một
năng lực thẩm mĩ của con người – năng lực tích tụ những trải nghiệm – cả trong
nghệ thuật lẫn trong đời thường.
13
Cái nhìn trữ tình chủ yếu được thể hiện ở trong tác phẩm thơ nhưng cũng
có thể được thể hiện ở văn xuôi và kịch, nhất là khi tác giả văn xuôi muốn nói
như tuyên ngôn những định đề hoặc như nhân vật độc thoại tạo thành những
đoạn trữ tình tương đối độc lập. Bởi vậy, có thể nói đến giọng điệu trữ tình chẳng
những của tác giả mà còn của nhân vật, của người kể chuyện (vai trần thật)
Bước sang thế kỉ XIX – XX, trữ tình không còn đồng nhất với thơ như
trước nữa. Các tố chất của tự sự, ví dụ: tính sự kiện thâm nhập vào tác phẩm thơ,
đồng thời các tính chất của trữ tình thâm nhậm vào văn xuôi tạo nên những đề tài
lai ghép như thơ tự sự - trữ tình, văn xuôi trữ tình.
1.1.2. Chất trữ tình
Tính chất trữ tình- tính chất được tạo nên từ sự hoà quyện giữa vẻ đẹp của
cảm xúc, tâm trạng với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể khơi gợi những
rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn. Chất thơ có thể nói là chất trữ tình của
ngôn ngữ. Như vậy, chất trữ tình là hình thức nghệ thuật dùng ngôn ngữ giàu
hình ảnh và có nhịp điệu để thể hiện nội dung một cách hàm súc. Chính vì thế
mà để tạo nên chất trữ tình trong văn học cần phải có sự kết hợp với thơ, sự giao
thoa giữa thơ với các thể loại trong văn học như thơ - tiểu thuyết chẳng hạn đã
tạo cho tác phẩm văn học thể hiện thành công chất trữ tình trong nó.

Tác phẩm trữ tình là văn bản biểu hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả trước
cuộc sống. Nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế mạch cảm xúc,
tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những
chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm. Mối bận tâm của người viết không đặt vào việc kể
lại một biến cố, sự việc, hành động mà là việc làm bật lên một trạng thái của đời
sống hoặc của tâm hồn con người. Thơ là thể loại văn học phù hợp để thể hiện
tình cảm, cảm xúc. Sự xuất hiện của thơ với những hình thức thơ lạ, phá vỡ quy
tắc chính tả, mạch thơ biến đổi bất thường đặc biệt là các hình ảnh thơ lần lượt
xuất hiện như một sự liệt kê mà không có hệ thống liên tưởng. Cách nói ngược
và hình ảnh thơ gợi lên gần gũi, thân thuộc với độc giả. Tư duy thơ còn thể hiện
trên phương diện nhịp điệu, bằng việc lặp lại hình tượng, từ ngữ, câu.
14
Văn xuôi phù hợp với kể chuyện, tuy nhiên cũng có những loại văn xuôi
trữ tình hoặc mang nặng tính chất trữ tình. Nó là một loại hình phức hợp, thu hút,
dung nạp những tính chất, những thể loại khác nhau tạo thành tính lưỡng phân
khó phân biệt rạch ròi. Có thể nói, nó được manh nha từ những tiền đề gợi ý của
phương thức trữ tình. Sự xâm thực khá mạnh của các yếu tố thơ vào văn xuôi
khiến văn xuôi tự sự trở thành những áng thơ văn xuôi đầy ám gợi và quyến rũ.
Chất trữ tình được thể hiện trong sự giao thoa giữa thơ và tiểu thuyết tạo
nên tính nhạc trong âm điệu của lời văn. Ta thường gặp những bài thơ, bài hát
chen vào đoạn văn trong tiểu thuyết. Ngoài ra, tư duy thơ còn được thể hiện qua
nhịp điệu bằng cách lặp hình tượng, từ ngữ, câu văn, cách lai hóa từ ngữ và sự
xuất hiện dày đặc những câu văn đầy chất thơ. Nó góp phần tạo nên sự cảm nhận
tinh tế và hình tượng có chiều sâu hơn .
1.1.3. Trữ tình trong văn học
“Trữ tình là những suy tư và miêu tả có màu sắc xúc cảm”. Văn học - một
lọai hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống xã hội với con người.
Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư cấu, cách thể hiện nội
dung, các đề tài được thể hiện qua ngôn ngữ.
Trong văn học, khái niệm trữ tình được biểu hiện một trong ba loại hình

của văn chương (cùng với sử thi và kịch) phân biệt với sự tái hiện hiện thực qua
biểu hiện của cuộc sống tinh thần của con người. Trữ tình không tỏ rõ thái độ của
tác giả đối với những hình tượng được biểu hiện, trữ tình đưa người đọc thẳng
vào thế giới lý tưởng thẩm mỹ của nghệ sỹ bằng cách biểu hiện nó dưới một hình
thức xúc cảm mạnh mẽ. Do việc bộc lộ thái độ, tình cảm, cảm xúc công khai
trong nghệ thuật biểu hiện mà loại hình trữ tình bây giờ cũng in đậm dấu ấn chủ
quan của người nghệ sỹ .
Sự “tự biểu hiện” trữ tình của nhà thơ có thể khác nhau. Thường thường,
tác giả thể hiện những suy nghĩ và tình cảm mà anh ta vốn có. Với tư cách là một
cá thể thì ở các tác phẩm của anh ta hiện diện một cái tôi trữ tình nào đó. Nhưng
15
đôi khi, nhà thơ trữ tình còn xuất hiện như là người diễn đạt trực tiếp những quan
điểm, tâm trạng và xu hướng của một nhóm người, đôi khi còn của cả một giai
cấp, của một dân tộc và thậm chí của toàn nhân loại. Ở đây, thay cho cái “tôi” trữ
tình là cái “ta” trữ tình.
Những tâm trạng được thể hiện một cách trữ tình không phải là sự sao
chép y nguyên những gì nhà thơ đã trải qua. Không phải tất cả những gì từng
nếm trải đều được nhà thơ trữ tình thể hiện bằng thơ. Lọt vào phạm vi sáng tác
của anh ta thường là những xúc cảm có ý nghĩa nhất. Trữ tình không chỉ tái tạo
lại những tình cảm của nhà thơ mà ở một mức đáng kể còn làm cho những tình
cảm ấy trở nên năng động, giàu có, sáng tạo lại các tình cảm ấy.
Cảm xúc được thể hiện bằng trữ tình là kết quả của khái quát hóa nghệ
thuật. Johannes Becher viết: “khi thể hiện bản thân mình – nhà thơ trữ tình biểu
hiện vấn đề của thời đại mình, thêm nữa nhân cách nhà thơ cần phải lớn lên
thành một tính cách đại diện cho thời đại”. Các cảm xúc được thể hiện bằng trữ
tình mang một tính cách xã hội, lịch sử. Dấu ấn của các hệ thống văn hóa dân tộc
và của các quan hệ xã hội đều in đậm ở chủ thể của lời nói trữ tình.
Do vậy, các hiện tượng trữ tình dễ dàng vượt qua sự ngăn cách của thời
đại và được tiếp nhận như là những hình tượng của con người nói chung. Các
xúc cảm do trữ tình ghi lại có một độ hàm chứa khác thường, nó gần gũi và đồng

cảm với nhiều người. Người đọc dễ dàng đồng nhất mình với nhân vật trữ tình và
tiếp nhận những suy nghĩ, tình cảm như là những suy nghĩ và tình cảm của chính
mình. Các tình cảm “lây chuyền” sang người đọc, trở thành tài sản tinh thần của
người đọc. Phương thức trữ tình cũng tái hiện các hình tượng đời sống, trực tiếp
miêu tả phong cách thiên nhiên hoặc thuật lại ít nhiều sự kiện tương đối liên tục
như: Mưa xuân (Nguyễn Bính), Quê Hương (Giang Nam), Núi Đôi (Vũ Cao).
Nhưng sự tái hiện này không mang mục đích tự thân mà đặt điều kiện để chủ thể
bộc lộ những cảm xúc, chiêm nghiệm, suy tư của mình. Ở đây, nguyên tắc chủ
quan là nguyên tắc cơ bản trong việc chiếm lĩnh hiện thực, là nhân tố cơ bản
quyết định những đặc điểm cốt yếu của tác phẩm trữ tình.
16
Nội dung của phương thức trữ tình đòi hỏi một hình thức trữ tình phù hợp,
tương ứng. Lời văn của tác phẩm trữ tình phải hàm súc, giàu nhịp điệu. Chính vì
thế, tác phẩm trữ tình có thể được viết bằng thơ hoặc văn xuôi. Sự phát triển của
phương thức trữ tình luôn luôn gắn với những điều kiện lịch sử xã hội, với sự vận
động của quá trình văn học, sự thay đổi của các trào lưu. Khuynh hướng và phương
thức sáng tác xuất hiện từ thời bình minh của lịch sử văn học nhân loại. Tuy nhiên,
ở Châu Âu phải đến thế kỉ XVIII, khi ý thức cá nhân có đủ điều kiện phát triển, loại
tác phẩm trữ tình mới thật sự phát triển phồn thịnh. Không phải ngẫu nhiên ở nhiều
nước trên thế giới, nhiều nhà thơ trữ tình lớn nhất của một dân tộc thường xuất hiện
cùng với sự hình thành và phát triển của “chủ nghĩa lãng mạn”.
Trong nghiên cứu văn học, người ta chia tác phẩm văn học trữ tình theo
nhiều cách. Dựa vào cấu trúc ngôn ngữ để phân chia, ta có thơ trữ tình và văn
xuôi trữ tình. Trước đây, trong văn học Châu Âu, người ta chia tác phẩm trữ tình
thành bi ca, tụng ca, thơ trào phúng. Sau này, người ta còn dựa vào khách quan
thể đã tạo nên cảm xúc trữ tình để phân chia thành các thể: trữ tình phong cách,
trữ tình triết học, trữ tình công dân, trữ tình tâm tư, trữ tình thế sự.
1.2. Trữ tình, một đặc điểm quan trọng trong văn xuôi Việt Nam sau 1975
1.2.1. Trữ tình trong tiểu thuyết
Tiểu thuyết là một thể loại văn học có dung lượng và hình thức khá tự do,

có khả năng bao gồm một phạm vi phức tạp các hiện tượng trong cuộc sống, liên
kết một khối lượng lớn các nhân vật với nhiều chủ đề, nhiều tuyến cốt truyện đan
chéo nhau, quyện lẫn với nhau. Trong tiểu thuyết, các hình thức ngôn ngữ được
kết hợp xen kẽ với nhau: độc thoại nội tâm và đối thoại của các nhân vật, các loại
ngôn ngữ khác nhau của người kể chuyện, bình luận, trữ tình phụ đề của tác giả,
miêu tả tính cách nhân vật, miêu tả thiên nhiên. Tiểu thuyết là một hình thức kể
chuyện cỡ lớn có khả năng phản ánh được cả một thời đại lịch sử.
Tuy là một tác phẩm tự sự nhưng tiểu thuyết là một thể loại luôn luôn
trong tình trạng đang hoàn thành, nghĩa là nó không phải nhất thành bất biến.
17
Chính khoảng tự do ấy tạo điều kiện cho chất trữ tình xuất hiện trong tiểu thuyết.
Là một thể loại chưa hoàn thành, tiểu thuyết có thể dung nạp vào bản thân nó các
thể loại khác hoặc phẩm chất của các thể loại khác. Bản chất tổng hợp của tiểu
thuyết còn thể hiện ở chỗ nó có khả năng vận dụng cả những thủ pháp của các
loại hình nghệ thuật như điện ảnh, âm nhạc…
Hoàn toàn khác với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác, tiểu thuyết cố
gắng đi đến thật gần với cuộc sống, với tự nhiên. Cuộc sống trong tiểu thuyết bao
giờ cũng là cuộc sống toàn diện, phong phú và nhiều mặt. Tiểu thuyết là một bức
tranh xã hội rộng lớn với nhiều màu vẽ sinh động khác nhau. Khác với truyện
ngắn và thơ chỉ đi sâu vào một dòng cảm xúc, một tâm trạng, một khoảnh khắc
toả sáng của vài số phận cá nhân với những biến cố, những tình huống tiêu biểu,
tiểu thuyết có khả năng đi sâu vào nhiều số phận, nhiều cuộc đời khác nhau cùng
với sự đa dạng và phức tạp của nó. Đến với tiểu thuyết ta có được một bức tranh
tổng thể về cuộc sống, có khả năng lôi cuốn, dẫn dắt độc giả đi từ khởi đầu đến
kết cục, chứa đựng sự giải toả khỏi băn khoăn, tò mò.
Khác với các thể loại khác của nghệ thuật ngôn từ bị giới hạn bởi không
gian và thời gian. Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn, trong đó các nhân vật có
sự phát triển tự thân như trong đời thực, nhà văn có thể triển khai sự kiện, mô tả
tính cách điển hình trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Nhân vật của
tiểu thuyết là nhân vật trải nghiệm, vấn đề của tiểu thuyết là cá nhân. Do vậy, yếu

tố trữ tình hoàn toàn có thể xuất hiện trong tác phẩm của thể loại này.
1.2.2. Trữ tình trong tiểu thuyết Việt Nam trước 1975
Một trong những thành tựu nổi bật của quá trình hiện đại hoá văn học Việt
Nam ở nửa đầu thế kỷ XX là sự hình thành và phát triển mau lẹ của các thể loại
văn xuôi tự sự hiện đại, đặc biệt là mười lăm năm từ 1930-1945. Văn chương
Việt Nam bước vào một chặng đường lịch sử mới, bừng sáng và khởi sắc lạ
thường. Văn xuôi phát triển tự do với sự quan tâm đến số phận cá nhân trên
nhiều phương diện đời sống, tình cảm. Nhà văn thoả sức đào sâu vào mọi ngõ
18
ngách của cuộc sống, vào cái tôi nội cảm, diễn tả ước mơ, khát vọng của cá nhân.
Sự xuất hiện ý thức về cái tôi cá nhân là một bước tiến quan trọng. Trong văn
xuôi, cái tôi khinh bạc, giang hồ lãng tử thể hiện trong tập tuỳ bút của Nguyễn
Tuân, cái tôi người hùng có mặt trong hầu hết các tiểu thuyết của Lê Văn Trương
như Một người, Tôi là mẹ, Chồng chúng ta. Và đặc biệt là đòi hỏi giải phóng cá
nhân ra khỏi những ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến được phản ánh
qua tác phẩm Nửa chừng xuân của Khái Hưng, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Đôi bạn
của Nhất Linh, Làm lẽ của Mạnh Phú Tứ.
Ở bộ phận văn học lãng mạn mà tiêu biểu là Nhóm Tự lực văn đoàn, cảm
hứng trữ tình được phát huy mạnh mẽ. Tiểu thuyết của họ đã dần từ bỏ kết cấu
theo trình tự thời gian, chương hồi mà đi vào theo kết cấu diễn biến tâm lí. Đã đi
sâu vào việc miêu tả những diễn biến trong nội tâm nhân vật với lối văn giản dị
và trong sáng.
Sự phát triển của cảm hứng, trào lưu lãng mạn không chỉ quy định cảm
hứng trữ tình trong văn xuôi lãng mạn mà còn tác động sâu sắc đến văn xuôi hiện
thực. Thậm chí, một số nhà văn hiện thực lớn còn bắt đầu văn nghiệp của mình
bằng các tác phẩm lãng mạn (Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, Vũ Trọng Phụng,
Nam Cao…). Vì vậy, sắc thái trữ tình xuất hiện phổ biến không chỉ trong văn
học lãng mạn, mà ngay cả trong văn học hiện thực. Với yêu cầu phản ảnh bức
tranh hiện thực của thời đại bằng phương thức điển hình hoá, các nhà văn đã xây
dựng những hình tượng điển hình mang tính triết luận sâu sắc. Bản thân các hình

tượng này không hiện lên khô cứng mà được khắc hoạ với cả những yếu tố trữ
tình tạo ra sự sinh động và gây ấn tượng mạnh mẽ. Trong đó, cách xây dựng
nhân vật của Nam Cao với bút pháp hiện thực trữ tình như một sự gửi gắm niềm
tin vào những phẩm chất tốt đẹp của con người. Chất trữ tình ấm áp, lây truyền,
thấm đậm hầu hết trang viết của ông. Chất trữ tình này bắt nguồn từ nỗi buồn
thương, đau đớn của ông về một cuộc sống có tình người, có phẩm giá, có tư
cách. Chất trữ tình này cũng tăng thêm do nhà văn thường đi sâu vào tâm hồn,
19
tâm trạng nhân vật, trực tiếp bày tỏ thái độ, tình cảm, tư tưởng của mình về cuộc
sống; do tính chất tự truyện trong nhiều tác phẩm của ông. Điều này được thể
hiện khá rõ trong tiểu thuyết Sống mòn của ông. Đến tiểu thuyết này, Nam Cao
đã vượt ra ngoài khuôn khổ của thi pháp truyền thống, không có tình huống, sự
kiện gì đặc biệt mà chỉ là một chuỗi tâm trạng và suy nghĩ của nhân vật. Nam
Cao đã thể hiện sở trường mổ xẻ, phanh phui những phần mờ đục, khuất tối trong
tính cách nhân vật. Đồng thời cũng miêu tả một cách sắc sảo diễn biến tâm lí
nhân vật, điển hình là anh giáo Thứ thông qua những giằng xé nội tâm, những
ngờ vực, tự thú, tự lên án và tự vượt mình để hướng tới một cuộc sống xứng
đáng, cho con người thật sự người hơn.
Giai đoạn 1945-1975, do sự quy định của lịch sử- chính trị, xã hội, yếu tố
trữ tình vẫn xuất hiện nhưng là trữ tình sử thi, nó thiếu chiều sâu của sự hướng về
con người. Đứng trước giai đoạn khó khăn nhất của lịch sử, sự tồn vong của dân
tộc, sự ác liệt của chiến tranh, không cho phép con người ở giai đoạn lịch sử này
sống bằng lợi ích cá nhân, bằng thực tại thiếu thốn và gian khổ mà họ chỉ có thể
sống bằng lịch sử, bằng lí tưởng, bằng tương lai huy hoàng của độc lập tự do và
chủ nghĩa xã hội. Hướng vận động của cốt truyện, của số phận nhân vật, của
dòng cảm nghĩ của tác giả hầu như đều đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ gian khổ
đến niềm vui, từ hiện tại đến tương lai đầy hứa hẹn. Tính chiêm nghiệm trong
các tiểu thuyết không nằm nhiều ở những suy tư về nhân thế mà chủ yếu là
những suy tư về quan hệ cá nhân- cộng đồng, riêng- chung… trong đó cái chung
là phạm trù nổi bật. Không phải ngẫu nhiên mà tên gọi các tác phẩm thường là

những hình ảnh có tính biểu tượng về dân tộc, về con người Việt Nam anh hùng
trong một thời đại anh hùng (Đất nước đứng lên, Dấu chân người lính, Vào
lửa…). Con người chủ yếu được khám phá ở bổn phận, trách nhiệm công dân, ở
lẽ sống lớn và tình cảm lớn. Vẻ đẹp của Núp trong Đất nước đứng lên của
Nguyên Ngọc là vẻ đẹp của nhân dân Tây Nguyên bất khuất, kiên cường. Hay
20
xung quanh cái chết của Lữ chẳng hạn, ai cũng coi đấy là cái chết của một anh
hùng. Có xót đau, tiếc nuối nhưng cảm phục, tự hào mới là điều quan trọng nhất.
Lời văn cũng mang giọng điệu ngợi ca, trang trọng và vẻ đẹp một cách
hào hùng. Vì thế, chất thơ trong ngôn ngữ tiểu thuyết 1945-1975 thường gắn với
những gam màu sáng. Đó là gam màu lạc quan, hi vọng, gam màu biểu thị cao cả,
đẹp đẽ. Tất cả những sắc điệu thẩm mĩ ấy xuất phát từ cái nhìn chiêm ngưỡng của nhà
văn về đối tượng. Có thể nói màu sắc trữ tình trong tiểu thuyết 1945-1975 hoà quyện
với tính sử thi tạo nên tính khu biệt của tiểu thuyết giai đoạn này.
1.2.3. Trữ tình trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975
Nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới từ 1986 đến nay đã có những
chuyển biến đáng ghi nhận ở hầu hết các thể loại trong đó có tiểu thuyết. Trong
sự vận động chung của nền văn học, tiểu thuyết đã nỗ lực chuyển mình, đổi mới
nhằm đáp ứng nhu cầu của thời đại, của đời sống văn hóa và của đông đảo độc
giả đương đại. Không khí dân chủ của môi trường sáng tạo đã giúp nhà văn ý
thức sâu sắc hơn về tư cách nghệ sỹ của mình, vượt lên trên những quy định,
khuôn khổ truyền thống đã thành áp lực với ngòi bút của người viết lâu nay.
Chưa bao giờ quan niệm mới về văn chương, về nhà văn, về hiện thực con người,
về đổi mới tư duy nghệ thuật lại cởi mở, dân chủ như lúc này. Nhiều cây bút tiểu
thuyết khi viết đã có ý thức cách tân trong cách nhìn và trong lối viết. Có những
tác phẩm thành công hoặc đang trên đường tìm tòi, thử nghiệm, song điều đáng
nói ở đây là tất cả đều hướng tới hệ quả làm mới, làm hấp dẫn văn chương nói
chung và tiểu thuyết nói riêng.
Những nhà văn lão thành như Nguyễn Xuân Khánh đã thành công với Hồ
Qúy Ly, mới đây lại được khẳng định với Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa.

Nguyễn Khải với Thượng đế thì cười dường như muốn khép lại một hành trình
hơn nửa thế kỷ cầm bút, để lại nhiều dư âm trên những trang tự thuật của mình.
Những cây bút thuộc lớp kế tiếp luôn ý thức về sự đổi mới trong sáng tạo, sẵn
sàng thử nghiệm, cách tân, chấp nhận hệ số mạo hiểm cao. Người đọc đã dần
21
quen và nhớ tên hàng loạt tiểu thuyết: Vào cõi, Những đứa trẻ chết già, Người đi
vắng, Trí nhớ suy tàn, Thoạt kỳ thủy, Ngồi (Nguyễn Bình Phương); Người đàn
bà trên đảo, Trong sương hồng hiện ra, Cõi người rung chuông tận thế, Mười lẻ
một đêm (Hồ Anh Thái), Cơ hội của chúa, Khải huyền muộn, Ba ngôi của người
(Nguyễn Việt Hà); Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh); Giàn
thiêu (Võ Thị Hảo); Bóng của cây sồi (Đỗ Bích Thủy), Thiên sứ (Phạm Thị
Hoài); Tìm trong nỗi nhớ, Trên đỉnh dốc (Lê Ngọc Mai); Gió từ thời khuất mắt
(Lê Minh Hà)
Từ sau 1975, nhất là trong thời kì đổi mới, thực tiễn văn học đã theo sự
chi phối của quy luật thời bình nghiêng về thể tài thế sự, đời tư. Trong tác phẩm
văn học không phải cốt truyện nào cũng chứa tình huống gay cấn với những
xung đột gay gắt mà có những câu chuyện về những cái nhỏ nhặt, bình thường,
gây cảm giác như là không có chuyện. Chính những bước ngoặt của trạng thái
tâm linh, những xung đột cá nhân trở thành yếu tố thúc đẩy sự hình thành cốt
truyện. Tiểu thuyết sau đổi mới đa dạng hơn trong nội dung phản ánh, phong phú
hơn trong hình thức diễn đạt, tự do hơn ở cách dựng truyện. Bên cạnh những cốt
truyện giàu kịch tính là những cốt truyện giàu tâm trạng.
Ý thức cách tân nghệ thuật, đổi mới tư duy tiểu thuyết là nỗ lực sáng tạo
đáng kể của các cây bút văn xuôi nhằm biểu đạt tâm hồn con người thời đại.
Trong các tiểu thuyết Chim én bay, Ăn mày dĩ vãng, Cuộc đời dài lắm, Một ngày
và một đời, Ngày hoàng đạo, các cây bút đã sử dụng thủ pháp đồng hiện trong
cấu trúc tác phẩm. Ở đó, quá khứ và hiện tại là cấu trúc của tiểu thuyết. Với Một
ngày và một đời, Lê Văn Thảo đã tái tạo ký ức, làm sống dậy cuộc đời một nữ
liệt sĩ biệt động vô danh bằng cách lắp ghép những mảnh vụn của quá khứ qua
lời kể, trí nhớ của các nhân vật, với sự di chuyển các điểm nhìn trần thuật khá

mới mẻ và độc đáo.
Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm nhà văn về con người. Tiểu
thuyết ngoài khả năng tái hiện bức tranh toàn cảnh của đời sống xã hội còn có
22
khả năng đi sâu khám phá số phận con người. Quan niệm nghệ thuật về con
người là yếu tố chi phối các yếu tố khác của nghệ thuật thể hiện, gắn với đời
sống văn học của mỗi giai đoạn lịch sử. Do sự chi phối của quy luật chiến tranh,
đặc điểm thi pháp giai đoạn 1945-1975 cũng chi phối cách nhìn về con người
giai đoạn này. Con người trong gia đình cách mạng và kháng chiến là con người
sống với cộng đồng, xả thân vì nghĩa lớn, tìm thấy ý nghĩa cuộc đời trong sự gắn
bó với cộng đồng. Con người quen sống với đám đông, hòa mình với tập thể, ít
có dịp đối diện với bản thân, sống với chính mình. Đến văn học thời đổi mới, là
giai đoạn chuyển biến từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết, từ cảm hứng lịch sử
dân sự sang cảm hứng thế sự đời tư. Tiểu thuyết đã phát huy được khả năng tiếp nhận
và phản ánh hiện thực, con người trong gia đình mới một cách nhanh nhạy và sắc bén.
Số phận con người trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhà văn, thể hiện cái nhìn
dân chủ đối với sự phức tạp của tính người. Những cuốn tiểu thuyết đã hướng tới
miêu tả số phận những con người bình thường với những bi kịch của đời họ, bi kịch
giữa khát vọng và thực trạng, giữa cái muốn vươn lên và cái kìm hãm, giữa thanh lọc
và tha hóa, giữa nhân bản và phi nhân bản.
Tiểu thuyết Việt Nam từ sau đổi mới không chỉ đi sâu vào thân phận con
người mà còn đề cập đến khát vọng sống về hạnh phúc cá nhân, về tình yêu đôi
lứa. Các tác giả đã khai thác con người tự nhiên trước nhu cầu hạnh phúc đời
thường. Trong hàng loạt các tác phẩm của Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Chu Lai,
Nguyễn Bắc Sơn…đã thể hiện được sự gắn bó giữa sự nghiệp chung với hạnh phúc
riêng, giữa con người cá nhân và con người xã hội. Tiểu thuyết đã không ngần ngại
mô tả chất sắc dục, tình yêu nhục thể là một vấn đề riêng tư của mỗi cá nhân. Miêu
tả những con người tự nhiên, khai thác yếu tố tích cực của con người tự nhiên cũng
là một khía cạnh nhân bản của văn học như Người đi vắng, Ngồi (Nguyễn Bình
Phương), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai) .

Các cây bút tiểu thuyết từ sau đổi mới đã có ý thức đi sâu vào thế giới nội
tâm để khám phá chiều sâu tâm linh nhằm nhận diện hình ảnh con người một
23
cách đích thực. Xã hội con người tâm linh biểu hiện sự đổi mới quan niệm nghệ
thuật về con người của văn học. Tiểu thuyết bắt đầu tiếp cận với thế giới đằng
sau thế giới hiện thực, đó là thế giới tâm linh, vô thức, tiềm thức, giấc mơ. Các
nhà văn đã cố gắng thoát ra khỏi kiểu phản ánh hiện thực được hiểu một cách
thông tục của tiểu thuyết trước đây.Với quan niệm nghệ thuật mới, họ đã có ý
thức thay đổi hình thức biểu đạt, ngòi bút nhà văn khơi sâu vào cả tâm linh, vô
thức của con người, khai thác “con người ở bên trong con người” (Người đi vắng
– Nguyễn Bình Phương), (Chim én bay – Nguyễn Trí Huân), (Thiên sứ- Phạm
Thị Hoài), (Mẫu thượng ngàn – Nguyễn Xuân Khánh)… Tiểu thuyết sau đổi
mới đã quan niệm cá nhân như “một nhân cách, một nhân cách kiểu mới”. Nhà
văn đã nhận diện con người đích thực với những kiểu dáng nhân vật biểu hiện
phong phú và đa dạng nhu cầu tự ý thức, sự hòa hợp giữa con người tự nhiên, con
người tâm linh và con người xã hội. Nhà văn đã khắc họa chân dung giữa con người
đời thường, trần thế vừa đẹp đẽ thánh thiện, luôn khao khát cái đẹp và hướng tới cái
thiện. Đó là nét nổi bật mang đậm ý nghĩa nhân văn khi nhìn nhận con người, tạo
nên tiếng nói đa thanh đầy “hòa âm và nghịch âm” trong tiểu thuyết.
Các nhà văn thời kì này đều sử dụng các tình huống những giấc mơ thông
qua kĩ thuật dòng ý thức, giúp nhà văn khai thác, khám phá thế giới tâm linh của
con người. Kĩ thuật dòng ý thức sử dụng thời gian đồng hiện, hồi ức hoài niệm,
ḍng suy nghĩ, những giấc chiêm bao nhằm để nhân vật tự bộc lộ những niềm sâu
kín của tâm hồn nằm ngoài tầm kiểm soát của ý thức con người. Giấc mơ và hồi
ức là đặc điểm của nhân vật dòng ý thức. Sử dụng mô típ giấc mơ, giấc chiêm
bao như một ngôn ngữ độc thoại đặc biệt để giải mã thế giới vô thức của con
người. Thủ pháp này thể hiện rõ trong các tiểu thuyết: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo
Ninh), Người đi vắng (Nguyễn Bình Phương), Ngày hoàng đạo (Nguyễn Đình
Chánh), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo).
Như vậy, sau 1975, những nhiệm vụ đối với cộng đồng, với lịch sử, nhiệm

vụ chính trị không còn là áp lực nặng nề, văn xuôi trở về với con người cá nhân
24
với tất cả mọi nỗi niềm của nó. Việc trở lại với con người cá nhân, với cảm hứng
hướng về đời thường cùng với sự tiếp thu những yếu tố kĩ thuật thể hiện có
nguồn gốc từ các nền văn học trên thế giới hoặc đã có tuyền thống tại Việt Nam
nhưng từng bị lãng quên sẽ trở thành nền tảng, điều kiện, động lực cho sự xuất
hiện sắc thái trữ tình trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
1.3. Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương trong bối cảnh tiểu thuyết Việt
Nam đương đại
1.3.1. Vài nét về tác giả
Nguyễn Bình Phương sinh ngày 29 tháng 12 năm 1965 tại Thái Nguyên.
Thời chiến tranh, tác giả cùng gia đình sơ tán về xã Linh Nham thuộc huyện
Đồng Hỷ, đến năm 1979 mới trở lại thành phố Thái Nguyên.
Nguyễn Bình Phương học hết phổ thông trung học năm 1985 rồi vào bộ
đội. Năm 1989 ông thi vào trường viết văn Nguyễn Du; ra trường công tác một
năm ở đoàn kịch nói của Tổng cục chính trị; sau đó là biên tập viên của Nhà
xuất bản Quân đội và hiện nay công tác tại Tạp chí văn nghệ Quân đội với cương
vị là Tổng biên tập.
Nguyễn Bình Phương viết văn bằng niềm đam mê, nhạy cảm cộng với tri
thức văn chương của một cây bút được đào tạo qua trường lớp. Tác giả sinh ra ở
Thái Nguyên, ở một làng quê nghèo nên có những trải nghiệm nông thôn ngay từ
tấm bé. Chính mảnh đất đó đã có tác động mạnh mẽ đến sáng tạo văn học của
Nguyễn Bình Phương. Không khí nông thôn trong tiểu thuyết của tác giả hình
như mang dáng dấp của nơi tác giả sinh ra và lớn lên. Đó là những người nông
dân, ngôi làng, dòng sông và những huyền thoại mà bất cứ vùng quê nào cũng
có, chúng trở thành chất liệu để tác giả thể hiện ý tưởng tác phẩm của mình. Tác
giả đã từng nói “Văn học là cái còn đọng lại trong con mắt nhắm. Tôi viết, cố
gắng lôi cái không khí của Thái Nguyên vào, và tôi nhận thấy phần lớn sáng tác
của mình đều dính dấp tới vùng đất đó, ngay cả khi đẩy nó tới địa danh khác thì
bóng dáng của vùng đất ấy vẫn phảng phất trong từng chi tiết. Mỗi nhà văn có

25

×