ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN VIỆT HƯNG
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, BỆNH LÝ, LÂM SÀNG
BỆNH SÁN DÂY Ở CHÓ NUÔI TẠI HUYỆN PHÚ LƯƠNG,
TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo :
Chính quy
Chuyên ngành
:
Thú y
Khoa :
Chăn nuôi Thú y
Khóa học :
2010 - 2014
Thái Nguyên – 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN VIỆT HƯNG
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, BỆNH LÝ, LÂM SÀNG
BỆNH SÁN DÂY Ở CHÓ NUÔI TẠI HUYỆN PHÚ LƯƠNG,
TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo :
Chính quy
Chuyên ngành :
Thú y
Khoa :
Chăn nuôi Thú y
Khóa học :
2010 - 2014
Giảng viên hướng dẫn :
TS. Lê Minh
Thái Nguyên – 2014
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, em đã
luôn nhận được sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo trong và ngoài nhà trường,
các cán bộ, bác sỹ công tác tại Trạm thú y huyên Phú Lương.
Trước hết, em được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy, cô giáo
trong khoa chăn nuôi thú y – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, đặc
biệt là cô giáo TS. Lê Minh đã hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo tận tình cho em
trong suốt thời gian thực tập và tốt nghiệp.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các bác, các cô, các chú, các anh, các
chị là cán bộ, bác sỹ, tại Trạm thú y huyện Phú Lương, các cán bộ thú y xã
trên địa bàn huyện đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho em trong quá trình
thực tập.
Em xin gửi một lời cảm ơn đặc biệt tới gia đình và bạn bè – những người
đã luôn bên em trong suốt thời gian qua.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Việt Hưng
LỜI NÓI ĐẦU
Mỗi sinh viên được các thầy cô giáo trong nhà trường giúp đỡ trong quá
trình học tập và tự tìm tòi, nghiên cứu để trang bị thêm kiến thức, nhưng chủ
yếu là lý thuyết mà không có nhiều thời gian để được tiếp cận và trải nghiệm
thực tế sản xuất. Tuy nhiên, để trở thành một bác sỹ, kỹ sư hay cử nhân tương
lai, ngoài việc trang bị một lượng kiến thức lý thuyết, mỗi sinh viên còn cần
phải trải qua những giai đoạn thử thách của thực tế. Chính vì vậy mà thực tập
tốt nghiệp là một khoảng thời gian rất quan trọng đối với sinh viên của các
trường đại học nói chung và sinh viên trường Đại học Nông Lâm nói riêng.
Đây là một khoảng thời gian cần thiết để sinh viên củng cố và áp dụng những
kiến thức đã học vào thực tiễn đồng thời học hỏi thêm kinh nghiệm, thành tựu
khoa học kỹ thuật mới. Thực tập tốt nghiệp còn là một quá trình rèn luyện,
giúp cho sinh viên ra trường trở thành những kỹ sư, bác sỹ có trình độ và
năng lực tốt.
Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân, được sự đồng ý của ban chủ
nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên,
của cô giáo hướng dẫn và được trạm thú y huyện Phú Lương tiếp nhận, em
đã tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ, bệnh lý, lâm
sàng bệnh sán dây ở chó nuôi tại huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên
và biện pháp phòng trị’’.
Do chưa được tiếp xúc nhiều với công tác nghiên cứu nên trong bản
khóa luận này không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, kể cả về phương
pháp và kết quả nghiên cứu. Vì vậy em kính mong nhận được sự góp ý quý
báu của các thầy, cô giáo để bản khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 4.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán dây ở chó (qua mổ khám) 31
Bảng 4.2. Tỷ lệ nhiễm sán dây ở chó (qua xét nghiệm phân) 32
Bảng 4.3. Tỷ lệ nhiễm sán dây theo các tháng (qua xét nghiệm phân) 33
Bảng 4.4. Tỷ lệ nhiễm sán dây theo tuổi chó (qua xét nghiệm phân) 35
Bảng 4.5. Tỷ lệ và các biểu hiện lâm sàng chủ yếu của chó bị bệnh sán dây 36
Bảng 4.6. Bệnh tích đại thể ở cơ quan tiêu hoá chó bị bệnh sán dây 37
Bảng 4.7. Hiệu lực của thuốc tẩy sán dây cho chó trên diện hẹp 38
Bảng 4.8. Độ an toàn của thuốc tẩy sán dây chó 40
Bảng 4.9. Hiệu lực của thuốc tẩy sán dây cho chó trên diện rộng 42
Bảng 4.10. Sử dụng thuốc đặc hiệu tẩy sán dây đại trà cho chó ở huyện
Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên 43
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình: 4.1 Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán dây chó qua xét nghiệm phân 32
Hình 4.2: Tỷ lệ nhiễm sán dây theo các tháng (qua xét nghiệm phân) 34
Hình 4.3: Biều đồ tỷ lệ nhiễm sán dây theo tuổi của chó 35
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, em đã
luôn nhận được sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo trong và ngoài nhà trường,
các cán bộ, bác sỹ công tác tại Trạm thú y huyên Phú Lương.
Trước hết, em được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy, cô giáo
trong khoa chăn nuôi thú y – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, đặc
biệt là cô giáo TS. Lê Minh đã hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo tận tình cho em
trong suốt thời gian thực tập và tốt nghiệp.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các bác, các cô, các chú, các anh, các
chị là cán bộ, bác sỹ, tại Trạm thú y huyện Phú Lương, các cán bộ thú y xã
trên địa bàn huyện đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho em trong quá trình
thực tập.
Em xin gửi một lời cảm ơn đặc biệt tới gia đình và bạn bè – những người
đã luôn bên em trong suốt thời gian qua.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Việt Hưng
MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Ý nghĩa khoa học của đề tài 2
1.2.1. Ý nghĩa khoa học 2
1.2.2. Ý nghĩa thực tiễn 2
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 3
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 21
2.1.1. Đặc điểm sinh học của sán dây ký sinh ở chó 3
2.1.2. Bệnh do sán dây ký sinh gây ra ở chó 15
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 3
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 21
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 21
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 23
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 24
3.1. Đối tượng, thời gian, địa điểm nghiên cứu 24
3.2. Nội dung nghiên cứu 24
3.2.1. Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh sán dây ở chó tại các xã của huyện
Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên 24
3.2.2. Nghiên cứu bệnh lý và lâm sàng bệnh sán dây ở chó 25
3.2.3. Thử nghiệm thuốc tẩy sán dây cho chó và đề xuất biện pháp phòng
bệnh 25
3.3. Phương pháp nghiên cứu 25
3.3.1. Phương pháp xác định tình hình nhiễm sán dây ở chó 25
3.3.2. Phương pháp xác định tỷ lệ nhiễm sán dây chó theo các tháng 27
3.3.3. Phương pháp xác định tỷ lệ nhiễm sán dây theo lứa tuổi chó 27
3.3.4. Phương pháp theo dõi triệu chứng lâm sàng của chó bị bệnh sán dây . 27
3.3.5. Phương pháp bố trí xác định bệnh tích đại thể ở cơ quan tiêu hóa do sán
dây gây ra 27
3.3.6. Phương pháp đánh giá hiệu lực tẩy sán dây, độ an toàn của thuốc thử
nghiệm 27
3.4. Phương pháp sử lý số liệu 29
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ HỆ THỐNG BẢNG BIỂU 31
4.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh sán dây ở chó tại huyện Phú
Lương – tỉnh Thái Nguyên 31
4.1.1. Tình hình nhiễm sán dây ở chó tại các xã của huyện Phú Lương - tỉnh
Thái Nguyên 31
4.1.1.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán dây ở chó qua mổ khám 31
4.1.2 Tỷ lệ nhiễm sán dây theo các tháng (qua xét nghiệm phân) 33
4.1.3. Tỷ lệ nhiễm sán dây theo tuổi chó (qua xét nghiệm phân) 34
4.2. Nghiên cứu bệnh lý và lâm sàng bệnh sán dây ở chó 36
4.2.1. Tỷ lệ và những biểu hiện lâm sàng của chó bị bệnh sán dây 36
4.2.2. Bệnh tích đại thể ở cơ quan tiêu hoá của chó bị bệnh sán dây 37
4.3. Thử nghiệm thuốc tẩy sán dây cho chó và đề xuất biện pháp phòng, trị
bệnh 38
4.3.1. Xác định hiệu lực của thuốc tẩy sán dây cho chó trên diện hẹp 38
4.3.2. Độ an toàn của thuốc tẩy sán dây cho chó 40
4.3.3. Xác định hiệu lực của thuốc tẩy sán dây cho chó trên diện rộng 42
4.3.4. Sử dụng thuốc đặc hiệu tẩy sán dây đại trà cho chó ở huyện Phú Lương
– tỉnh Thái Nguyên 42
PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 44
5.1. Kết luận 44
5.1.1. Về đặc điểm dịch tễ bệnh sán dây chó ở Phú Lương 44
5.1.2 . Về bệnh lý lâm sàng bệnh sán dây chó 44
5.1.3. Về thử nghiệm thuốc tẩy sán dây cho chó 44
5.2. Tồn tại 45
5.3. Đề nghị 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO 46
1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Chó là một loài vật đặc biệt, qua nghiên cứu cho thấy chúng có các giác
quan rất phát triển, đặc biệt là khả năng thị giác và thính giác cao hơn rất
nhiều so với con người, do đó từ xưa con người đã biết thuần hóa, huấn luyện,
nuôi chó với nhiều mục đích khác nhau: làm cảnh, giữ nhà, làm bạn, làm chó
nghiệp vụ, săn thú….
Việc chăn nuôi chó càng phát triển thì vấn đề dịch bệnh trên chó càng
được con người quan tâm nhiều hơn, bởi nguyên nhân thân thiết gần gũi mà
con người có nguy cơ mắc phải một số bệnh nguy hiểm như là bệnh dại,
nhiễm giun, sán…
Bệnh sán dây là một bệnh phổ biến ở chó, Vương Đức Chất và Lê Thị
Tài (2004)
[1]
cho biết, trên thế giới có khoảng 40 loài sán dây gây bệnh cho
chó và các thú ăn thịt thuộc họ chó và mèo, một số loài sán dây gây bệnh cho
chó mèo cũng là tác nhân gây bệnh cho người.
Theo Tô Du và Xuân Giao (2006)
[3]
, sán dây ký sinh làm cho chó gầy
yếu, suy nhược, thiếu máu, có hội chứng viêm ruột, giảm khả năng sinh sản
và sẽ chết do kiệt sức.
Ngoài ra, đáng lo ngại hơn nữa là một số loài sán dây ký sinh trên chó cũng
là tác nhân gây bệnh cho người và động vật nuôi khác: ấu trùng Cysticercus
tenuicollis của loài sán dây Taenia hydatigena ký sinh ở lợn, trâu, bò, dê, kể cả ở
người, gây ra bệnh ấu sán cổ nhỏ, hiện vẫn chưa có thuốc điều trị (Nguyễn Thị
Kim Lan và cs, 1999 [10]). Ấu trùng sán dây Diphyllobothrium mansoni gây bệnh
sán nhái ở người, tạo thành các u ở mắt (Phạm Sỹ Lăng và cs, 2006) [13].
2
Những năm gần đây, chó được nuôi ở tỉnh Thái Nguyên khá nhiều. Tuy
nhiên, việc phòng trị bệnh ký sinh trùng, đặc biệt là bệnh do sán dây còn ít
được chú ý. Bên cạnh đó người dân chủ yếu nuôi chó theo phương thức thả
rông, nếu chó bị nhiễm sán dây thì rất dễ phát tán mầm bệnh, làm tăng nguy
cơ nhiễm bệnh cho người và súc vật khác.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên
cứu đặc điểm dịch tễ, bệnh lý, lâm sàng bệnh sán dây ở chó nuôi tại huyện
Phú Lương - tỉnh Thái Nguyên và biện pháp phòng trị".
1.2. Ý NGHĨA KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học bổ sung và hoàn thiện
thêm các nghiên cứu về bệnh sán dây ở chó và biện pháp phòng trị trong điều
kiện chăn nuôi hiện nay ở nước ta.
1.2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài là những minh chứng về tác hại của sán
dây ký sinh ở đường tiêu hóa chó, đồng thời là những khuyến cáo có ý nghĩa
cho những hộ gia đình nuôi chó ở huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên và các
địa phương khác.
Kết quả nghiên cứu có thể ứng dụng để chẩn đoán và phòng trừ bệnh sán
dây cho chó, góp phần khống chế bệnh trong thực tiễn, bảo vệ sức khỏe người
và vật nuôi.
3
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
2.1.1. Đặc điểm sinh học của sán dây ký sinh ở chó
2.1.1.1. Vị trí của sán dây chó trong hệ thống phân loại động vật học
Cho đến nay các hệ thống phân loại sán dây đã trải qua nhiều thay đổi, song
dường như vẫn chưa được thống nhất và ổn định (Nguyễn Thị Kỳ, 2003 [9]).
Theo Phan Thế Việt và cs, (1977 ) [26], Nguyễn Thị Kỳ (1994) [8],
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [15], Nguyễn Thị Kỳ (2003) [9], hệ thống phân
loại của Việt Nam đã lựa chọn hệ thống phân loại của Schulz và Gvozldev
(1970), để sắp sếp các loại sán dây phát hiện được ở người, thú nuôi, chim ở
Việt Nam. Trong đó sán dây ở chó có vị trí như sau:
Ngành sán dẹp (Plathelminthes)
Lớp Cestoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Eucestoda Southwell, 1930
Bộ Pseudophyllidea Carus, 1863
Họ Diphylloborthriidae Luhe, 1910
Giống Spirometra Mueller, 1937
Loài Spirometra erinacei-europaei
(Rudolphi, 1819) Mueller, 1937
Loài Spirometra mansonoides
(Mueller, 1935) Mueller, 1937
Bộ Cyclophyllidea Beneden in Braun, 1900
Phân bộ Hymenolepidata Skrjabin, 1940
Họ Dipylidiidae Mola, 1929
Giống Dipylidium Leuckart, 1863
4
Loài Dipylidium caninum Leuckart, 1758
Phân bộ Tta Skrjabin et Schulz, 1937
Họ Taeniidae Ludwig, 1886
Giống Taenia Linnaeus, 1758
Loài Taenia hydatigena Pallas, 1766
Loài Taenia pisiformis Bloch, 1780
Giống Echinococcus Rudolphi, 1801
Loài Echinococcus granulosus Batsch, 1786
Giống Multiceps Goeze, 1782
Loài Multiceps multiceps Leske, 1780.
Phân bộ Mesocestoidata Skrjabin, 1940
Họ Mesocestoididae Perrier, 1897
Giống Mesocestoides, Wailand, 1863
Loài Mesocestoides lineatus Goeze, 1782
Nhiều tác giả như Phan Thế Việt và cs (1977) [26], Nguyễn Thị Kỳ (1994)
[8], Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [15], khi đề cập đến thành phần loài sán dây ký
sinh trên chó ở nước ta đều thống nhất rằng, các loài sán dây ký sinh trên chó
ở nước ta bao gồm: Diphyllobothrium mansoni, Diphyllobothrium reptans,
Dipylidium caninum, Taenia hydatigen, Taenia pisiformis, Multiceps
multicep, Echinococcus granulosus, Mesocestoides lineatus.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [10]: tính đến thời điểm hiện
tại, người ta đã biết hơn 30 loài sán dây ký sinh ở loài ăn thịt gây bệnh cho
chó, mèo. Chúng đều thuộc bộ Cyclophyllidea và Pseudophyllidea.
Kết quả tổng hợp của Phạm Sỹ Lăng (2002) [14] cho biết, đến nay đã
phát hiện được 18 loài sán dây ký sinh trên chó ở miền bắc Việt Nam.
Nguyễn Thị Kỳ (1977) đã thống kê ở mèo nhà, cầy, chó Hà Nội có loài
Diphllobothrium reptans thuộc giống spirometa .
LỜI NÓI ĐẦU
Mỗi sinh viên được các thầy cô giáo trong nhà trường giúp đỡ trong quá
trình học tập và tự tìm tòi, nghiên cứu để trang bị thêm kiến thức, nhưng chủ
yếu là lý thuyết mà không có nhiều thời gian để được tiếp cận và trải nghiệm
thực tế sản xuất. Tuy nhiên, để trở thành một bác sỹ, kỹ sư hay cử nhân tương
lai, ngoài việc trang bị một lượng kiến thức lý thuyết, mỗi sinh viên còn cần
phải trải qua những giai đoạn thử thách của thực tế. Chính vì vậy mà thực tập
tốt nghiệp là một khoảng thời gian rất quan trọng đối với sinh viên của các
trường đại học nói chung và sinh viên trường Đại học Nông Lâm nói riêng.
Đây là một khoảng thời gian cần thiết để sinh viên củng cố và áp dụng những
kiến thức đã học vào thực tiễn đồng thời học hỏi thêm kinh nghiệm, thành tựu
khoa học kỹ thuật mới. Thực tập tốt nghiệp còn là một quá trình rèn luyện,
giúp cho sinh viên ra trường trở thành những kỹ sư, bác sỹ có trình độ và
năng lực tốt.
Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân, được sự đồng ý của ban chủ
nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên,
của cô giáo hướng dẫn và được trạm thú y huyện Phú Lương tiếp nhận, em
đã tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ, bệnh lý, lâm
sàng bệnh sán dây ở chó nuôi tại huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên
và biện pháp phòng trị’’.
Do chưa được tiếp xúc nhiều với công tác nghiên cứu nên trong bản
khóa luận này không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, kể cả về phương
pháp và kết quả nghiên cứu. Vì vậy em kính mong nhận được sự góp ý quý
báu của các thầy, cô giáo để bản khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
6
dục đực. Những đốt thành thục về sinh dục ở giữa thân, cơ quan sinh dục
trong những đốt sán này đã phát triển đầy đủ, có đủ cả bộ phận sinh dục đực
và cái, có hệ bài tiết, cấu tạo mỗi đốt tương tự như mỗi cơ thể sán lá, chỉ khác
là không có hệ tiêu hóa. Những đốt già ở cuối thân sán, bên trong đốt sán
chứa tử cung với vô số sán dây. Ở những đốt già bộ phận sinh dục đực bị
thoái hóa. Những đốt già thường xuyên được rời khỏi cơ thể sán và theo phân
ra ngoài (đặc điểm này thấy ở những loài sán dây thuộc bộ Cyclophyllidea).
Chiều dài của sán dây chó dao động từ 0,5 mm đến hàng chục mét. Cơ
thể sán dây phủ lớp biểu bì, đến lớp hạ bì, rồi đến lớp cơ vòng cơ dọc. Phần
bên trong chứa đầy nhu mô. Bên trong lớp cơ chứa đầy các khí quan của sán.
Sán dây chó cũng giống các loài sán dây khác là không có hệ tiêu hóa, sán lấy
thức ăn bằng phương thức thẩm thấu qua bề mặt cơ thể.
Hệ thần kinh ở sán dây kém phát triển, gồm có hạch thần kinh trung ương
nằm ở đầu, từ đó các dây thần kinh chạy dọc cơ thể. Có 2 dây phát triển hơn nằm
bên ngoài ống bài tiết và mỗi đốt nối với nhau bởi các cầu nối ngang.
Hệ tuần hoàn và hệ hô hấp tiêu giảm. Hô hấp theo kiểu yếm khí.
Hệ bài tiết cấu tạo theo kiểu nguyên đơn thận, gồm 2 ống chính từ đầu
sán đi về cuối thân và thông với lỗ bài tiết. Ngoài ra ở mỗi đốt sán còn có
những ống ngang nối liền với 2 ống chính.
Hầu hết các loài sán dây là lưỡng tính: trong mỗi đốt thường có một
hệ sinh dục (gồm một hệ sinh dục đực và một hệ sinh dục cái) phát triển ở
mỗi giai đoạn khác nhau. Sự phát triển của hệ sinh dục theo một thứ tự nhất
định: ở các đốt non cơ quan sinh dục chưa phát triển, sau đó hình thành
các cơ qua sinh dục đực rồi đến cơ quan sinh dục cái. Sau khi thụ tinh cơ
quan sinh dục đực teo dần còn lại cơ quan sinh dục cái. Ở các đốt già trứng
chứa đầy trong tử cung.
7
Hệ sinh dục đực gồm tinh hoàn, ống dẫn tinh và các tuyến sinh dục. Số
lượng tinh hoàn trong mỗi đốt có từ một cho tới vài trăm và là dấu hiệu để
phân loại mỗi loài. Từ tinh hoàn có nhiểu ống dẫn tinh nhỏ đi ra và hợp lại
với nhau thành ống dẫn tinh, ống này đổ vào cơ quan giao phối là lông gai.
Lông gai nằm trong nang lông gai. Phần cuối ống dẫn tinh có thể phình ra gọi
là túi tinh. Nếu túi tinh ở ngoài nang lông gai gọi là túi tinh ngoài, còn ở trong
nang lông gai gọi là túi tinh trong. Lông gai dùng để đưa vào lỗ sinh dục khi
giao phối. Nang lông gai và lông gai ở mỗi loài có hình dạng, kích thước và
cấu tạo khác nhau.
Hệ sinh dục cái có cấu tạo phức tạp hơn, gồm buồng trứng, ống dẫn
trứng, ootyp, tuyến noãn hoàng, túi nhận tinh, thể mellis, và tử cung,
thường có hai buồng trứng nằm giữa hoặc phía sau đốt sinh dục, ít khi ở
phía trước. Trứng thụ tinh đưa vào ootyp. Tuyến noãn hoàng gồm nhiều
bao noãn bé nằm trong nhu mô hoặc thành khối nằm hai bên đốt hoặc phía
sau buồng trứng. Từ tuyến noãn hoàng các chất dinh dưỡng đổ vào ootyp
giúp cho việc hình thành trứng. Tuyến vỏ tiết ra các chất cần thiết để hình
thành trứng. Trong ootyp trứng thụ tinh được hình thành, sau đó trứng rơi
vào tử cung. Cấu tạo tử cung của sán dây rất khác nhau. Ở sán dây bậc
thấp (Pseudophyllidea), tử cung là những ống cong, dẫn từ ootyp đến lỗ
ngoài nằm ở mặt bụng của mỗi đốt. Ở những đốt sán dây này trứng được
thải ra ngoài tùy theo mức độ hình thành của trứng. Ở sán dây bậc cao
(Cyclophyllidea), tử cung kín, không có lỗ ngoài. Ở những đốt sán dây
này tử cung chứa đầy trứng trong đốt già và mỗi đốt thực chất biến thành
một cái túi chứa trứng. Trứng được rơi ra ngoài bằng cách nứt thành cơ
thể của mỗi đốt. Quá trình này thường được thực hiện ở môi trường ngoài,
ở nơi mà các đốt sán dây già được thải ra cùng với phân vật chủ.
8
Trứng sán dây thuộc bộ Cyclophyllidea hình tròn hoặc hơi bầu dục, có 4
lớp vỏ, trong có phôi 6 móc. Còn trứng sán dây thuộc bộ Pseudophylldea
giống trứng sán lá một đầu có nắp (Nguyễn Thị Kim Lan và cs 1999 [13]).
* Đặc điểm, hình thái, kích thước của một số loài sán dây ký
sinh ở chó.
- Gống Dipylidium Leuckart, 1863.
Theo Nguyễn Thị Kỳ (1994) [8], Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [15] ,
Nguyễn Thị Kỳ (2003) [9] cho biết:
+ Loài Dypylidium caninum: cơ thể dài 15-17 cm, gồm 80-250 đốt.
Đầu rộng 0,24-0,50 mm. Đầu có hình vòi chóp, có 4-10 hàng móc, mỗi
hàng có từ 16-20 móc, móc hàng trên cùng dài 0,013-0,016 mm, móc hàng
cuối cùng dài 0,003-0,008mm. Lỗ sinh dục kép, mở ra ở hai bên đốt. Túi
sinh dục dài 0,1- 0,3 mm, đáy hướng lên phía trên đốt. Buồng trứng phân
thùy hình quạt. Tuyến noãn hoàng hình khối. Đốt già chứa nang trứng, mỗi
nang chứa 3-30 trứng, có kích thước 0,026-0,060mm. Phôi 6 móc có kích
thước 0,020-0,036 mm.
- Giống Taenia Linnaeus, 1758
Theo Nguyễn Thị Kỳ (1994) [8], Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [15],
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [10], Nguyễn Thị Kỳ (2003) [9] cho biết:
+ Loài taenia hydatigena: dài 5000mm gồm 550 – 700 đốt rất rộng. Đầu
hình quả lê hay hình thận, đường kính 1mm, vòi có 26-44 móc, xếp thành 2
hàng, móc hàng trên dài 0,170-0,022 mm, có mỏm rất cong, móc hàng dưới
dài 0,11-0,16 mm, có lưỡi rất cong và có đường kính 0,11mm, có cổ dài 0,5
mm. Có 600-700 tinh hoàn ở giữa các ống bài tiết. Xung quanh noãn hoàng,
buồng trứng, ống dẫn tinh và âm đạo không có tinh hoàn, ống dẫn tinh có
dạng túi hẹp uấn khúc nhiều, không có túi tinh. Nang lông gai hình trụ dài
0,45 mm, rộng 0,13 mm, buồng trứng 2 thùy ở nửa dưới của đốt, cạnh phía
9
không lỗ lớn hơn phía có lỗ, noãn hoàng là ống hẹp kéo theo chiều ngang, thể
melis tròn ở giữa buồng trứng và noãn hoàng, phần âm đạo phình rộng sau
hẹp dần, tới thùy buồng trứng tạo thành túi nhận tinh. ở các đốt già thân tử
cung có 5-10 nhánh ngang, mỗi đầu tự do tạo thành các nhánh phụ, trứng bầu
dục, dài 0,038-0,031 mm, rộng 0,034-0,035 mm, vỏ dày 0,04 mm.
Dạng ấu trùng Cysticercus tenuicollis gặp nhiều ở gan và xoang bụng
của lợn, trâu, bò và nhiều thú khác, kể cả người. Ấu trùng này có dạng túi
chứa đầy dịch trong. Thành bên trong túi có một đầu sán dây, có cổ. Đầu
có có móc và giác bám, đường kính của giác bám 0,099-0,310 mm, có 20
– 40 móc, xếp hai hàng, móc hàng trên dài 0,185 – 0,210 mm, móc hàng
dưới dài 0,126 – 0,160 mm, vỏ trong của nang được bọc bằng vỏ ngoài, vỏ
này bám vào thành mô cơ của vật chủ , kích thước của nang phụ thuộc vào
nơi ký sinh của ấu trùng.
+ Loài Taenia pisiformis: sán dài 600- 2000 mm và rộng 4,8 mm gồm
400 đốt, đường kính đầu 1,3 mm, vòi 0,515 – 0,640 mm, có 34 – 48 móc xếp
thành 2 hàng móc trên dài 0,225 – 0,294 mm, có lưỡi rất cong. Móc hàng
dưới dài 0,132 – 0,177 mm, giác bám tròn hay bầu dục, đường kính 0,310 –
0,330 mm, cổ ở ngay sau đầu dài 1,7 mm. Lỗ sinh dục xem kẽ không đều, các
núm sinh dục hơi nhô ra. Có 400 – 500 tinh hoàn, tròn hay bầu dục, đường
kính 0,096 – 0,132 mm, ở toàn bộ khoảng trống giữa đốt trừ vùng noãn
hoàng và buồng trứng. Ống dẫn tinh bắt đầu từ túi tinh tròn có đường kính
0,210 – 0,350 mm, nang lông gai hình trụ hay bầu dục ngang, dài 0,46 – 0,8,
rộng 0,13 – 0,14 mm, buồng trứng 2 thùy, ở nửa dưới của đốt, những thùy bên
hình thận và có kích thước như nhau, noãn hoàng hình ba góc, ở bờ dưới của
đốt. Thể melis ở giữa noãn hoàng và buồng trứng. ở những đốt già, mỗi phần
của tử cung có 8 – 14 nhánh bên, từ đó tạo thành các nhánh phụ, trứng tròn
hay hơi bầu dục, đường kính 0,032 – 0,037 mm.
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 4.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán dây ở chó (qua mổ khám) 31
Bảng 4.2. Tỷ lệ nhiễm sán dây ở chó (qua xét nghiệm phân) 32
Bảng 4.3. Tỷ lệ nhiễm sán dây theo các tháng (qua xét nghiệm phân) 33
Bảng 4.4. Tỷ lệ nhiễm sán dây theo tuổi chó (qua xét nghiệm phân) 35
Bảng 4.5. Tỷ lệ và các biểu hiện lâm sàng chủ yếu của chó bị bệnh sán dây 36
Bảng 4.6. Bệnh tích đại thể ở cơ quan tiêu hoá chó bị bệnh sán dây 37
Bảng 4.7. Hiệu lực của thuốc tẩy sán dây cho chó trên diện hẹp 38
Bảng 4.8. Độ an toàn của thuốc tẩy sán dây chó 40
Bảng 4.9. Hiệu lực của thuốc tẩy sán dây cho chó trên diện rộng 42
Bảng 4.10. Sử dụng thuốc đặc hiệu tẩy sán dây đại trà cho chó ở huyện
Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên 43
11
bắt đầu ở phía có lỗ, gần thân giữa của tử cung, uốn khúc và đi vào nang lông
gai. Nang có dạng quả lê dài 0,315- 0,35 mm, rộng 0,11-0,145 mm. Buồng
trứng có dạng hình cánh bướm, ở gần bờ dưới đốt hai thùy gần như bằng nhau
và có hình bầu dục, noãn hoàng hình ba góc, ở sát bờ dưới đốt. Thể melis nhỏ
ở giữa buồng trứng và noãn hoàng. Âm đạo có dạng ống cong xuống một
thùy của buồng trứng và phình rộng thành túi chứa tinh, tử cung có thân giữa
và mỗi bên có 9-12 nhánh, trứng có đường kính 0,029-0,037 mm, có vỏ dày
0,004 mm. Ấu trùng Coenurus cerebralis là một nang lớn, hình tròn hay bầu
dục, vỏ mờ đục, vỏ mềm ở trong có rất nhiều đầu sán dính vào, trong nang là
chất dịch không màu, số lượng dịch thay đổi tùy theo kích thước nang. Kích
thước nang khác nhau, phụ thuộc vào mức độ phát triển, vị trí não ký sinh và
loại động vật.
- Giống Mesocestoides Vaillant, 1863
Theo Nguyễn Thị Kỳ (1994) [8], Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [15],
Nguyễn Thị Kỳ (2003) [9] cho biết:
+ Loài mesocestoides lineatus: sán trưởng thành dài đến 2m. Đầu không
có vòi, có móc bám và 4 giác bám. Tử cung có dạng túi dọc nằm ở giữa đốt.
Kích thước trứng 0,04-0,06 x 0,035-0,043 mm. Phôi 6 móc, đôi móc giữa dài
hơn móc bên.
- Giống Multiceps Goeze, 1782
Theo Nguyễn Thị Kỳ (1994) [8], Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [15], Nguyễn
Thị Kỳ (2003) [9]:
+ Loài Multiceps multiceps: sán dài 400 - 1000 mm, gồm 200 - 250 đốt,
rộng gần 5 mm. Đầu hình quả lê và có đường kính 0,800 mm. Vòi có đường
kính 0,300 mm, có 22 - 32 móc, xếp thành hai hàng, móc hàng một dài 0,150
mm, hàng hai dài 0,090 – 0,130 mm. Giác bám có đường kính 0,290 - 0,300
mm. Cổ dài 2 - 3 mm. Ống dẫn tinh bắt đầu ở phía có lỗ, gần thân giữa của tử
cung, uốn khúc và đi vào nang lông gai. Nang có dạng quả lê dài 0,315 – 0,350
mm, rộng 0,110 – 0,145 mm. Buồng trứng có hình cánh bướm, ở gần bờ dưới
12
đốt, hai thùy gần như bằng nhau và có hình bầu dục, noãn hoàng hình ba góc, ở
sát bờ dưới đốt. Thể Melis nhỏ ở giữa buồng trứng và noãn hoàng. Âm đạo có
dạng ống cong xuống một thùy của buồng trứng và phình rộng thành túi chứa
tinh, tử cung có thân giữa và mỗi bên có 9 - 12 nhánh, trứng có đường kính
0,029 - 0,037 mm, có vỏ dày 0,004 mm.
Ấu trùng Coenurus cerebralis là một nang lớn, hình tròn hay bầu dục, vỏ mờ
đục, mềm ở trong có rất nhiều đầu sán dính vào, trong nang là chất dịch không
màu, số lượng dịch thay đổi phụ thuộc vào kích thước nang. Kích thước nang
khác nhau, phụ thuộc vào mức độ phát triển, vị trí não ký sinh và loại động vật.
2.1.1.3. Chu kỳ sinh học của sán dây chó
Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [21], chu kỳ sinh học
của sán dây khá phức tạp, tiến triển ở nhiều ký chủ liên tiếp. Ở bộ
Cyclophyllidae trứng chứa thai trùng 6 móc đã hình thành. Vào dạ dày ký
chủ, thai trùng 6 móc thành ấu trùng (đã mất móc) có cấu tạo và tên gọi khác
nhau: Cysticercus, Coenurus, Echinococcus, Cysticercoid. Ở bộ
Pseudophyllidae có hai thể ấu trùng liên tiếp: Procercoid và Plerocercoid.
Những dạng ấu trùng này sống lâu hay chóng ở KCTG và phải được một ký
chủ thích hợp nuốt vào mới phát triển thành sán trưởng thành.
Để hoàn thành vòng đời, sán dây ký sinh ở chó cần vật chủ trung gian là
nhiều loài động vật khác nhau, có thể là động vật có xương sống Có loài cần
1 ký chủ trung gian để hoàn thành vòng đời, nhưng cũng có loài cần hai
KCTG mới hoàn thành vòng đời.
Các họ sán dây khác nhau có chu kỳ sinh học khác nhau. Các loài sán
dây: Spirometra erinacei-europae, Spirometra mansonoides, Dipylidium
caninum, Taenia hydatigena, Taenia pisiformis, Multiceps ký sinh ở ruột của
chó. Chó là vật chủ cuối cùng của sán, giúp sán hoàn thành vòng đời và ký
sinh ở gian đoạn thành thục. Cụ thể vòng đời của các loài sán dây ký sinh
thường gặp ở chó diễn ra như sau:
13
+ Loài Spirometra erinacei-europae có sự tham gia của vật chủ trung gian
thứ nhất là các loài giáp xác, KCTG bổ xung là cá. Trứng được thải ra ngoài theo
phân chó không có phôi, ở trong nước, trứng nở ra ấu trùng có những lông nhỏ
xung quanh thân gọi là Coracidium, được vật chủ trung gian thứ nhất là các loài
giáp xác thuộc giống Mesocyclops, Eucyclops nuốt. Trong cơ thể bọ nước,
Coracidium phát triển thành dạng ấu trùng đặc biệt – Procercoid. Trong trường
hợp cá nuốt phải Procercoid thì ấu trùng này sẽ phát triển thành dạng ấu trùng
mới – Plerocercoid. Chó ăn cá có ấu trùng Plerocercoid sẽ nhiễm sán, sau 15-18
ngày sẽ xuất hiện trứng trong phân chó thải ra.
+ Loài Spirometra mansonoides
Vòng đời phát triển cần có sự tham gia của vật chủ trung gian thứ nhất là
các loài giáp xác nước ngọt (Copepods), vật chủ trung gian thứ hai là các loài
chim, rắn, bò sát, lưỡng cư, động vật gặm nhấm. Trứng theo phân chó ra
ngoài, trải qua lần lượt các giai đoạn ở vật chủ trung gian thứ nhất và thứ hai,
trở thành ấu trùng gây bệnh Plerocercoid. Chó ăn phải vật chủ trung gian
chứa ấu trùng sẽ bị nhiễm sán. Sau 10 -30 ngày ấu trùng phát triển thành sán
trưởng thành.
+ Loài Dipylidium caninum
Vòng đời của loài này có sự tham gia của vật chủ trung gian là các loài
bọ chét giống Ctenocephalides. Đốt sán già thải ra ngoài có mang theo nang
trứng. Đốt sán vỡ ra, trứng ở ngoài tự nhiên được các vật chủ trung gian nuốt
vào, phát triển thành ấu trùng. Chó ăn phải bọ chét có ấu trùng sẽ bị nhiễm
sán dây. Sau 3-4 tuần ấu trùng phát triển thành sán dây trưởng thành.
+ Loài Taenia hydatigena
KCTG là lợn, trâu, bò, dê cừu. Vòng đời bắt đầu từ khi đốt sán già rụng
theo phân ra ngoài, vỡ ra, giải phóng trứng sán. KCTG nuốt phải trứng sán,
14
vào đến ruột, ấu trùng 6 móc nở ra và phát triển thành ấu trùng gây bệnh
Cysticercoid sau 3 tháng. Chó ăn phải nội tạng của vật chủ trung gian có
ấu trùng sẽ ị nhiễm sám. Sau 2 tháng ấu trùng phát triển thành sán dây
trưởng thành.
+ Loài Taenoa pisiformis
Vòng đời cần có sự tham gia của vật chủ trung gian là động vật gặm
nhấm, chủ yếu là thỏ và thỏ rừng. Các giai đoạn phát triển của ấu trùng thực
hiện trong các vật chủ trung gian để trở thành ấu trùng cảm nhiễm sau 15 – 30
ngày. Chó ăn phải nội tạng của thỏ có ấu trùng sẽ nhiễm sán.
+Loài Multiceps Multiceps
Vòng đời của loài này cần có sự tham gia của vật chủ trung gian là dê,
cừu. Đốt sán già ra ngoài theo phân chó. Đốt vỡ ra giải phóng trứng sán: dê,
cừu - vật chủ trung gian ăn trứng sán vào cơ thể, trứng nở và phát triển thành
ấu trùng cảm nhiễm ở óc dê, cừu sau 6-8 tháng. Chó ăn phải óc vật chủ trung
gian có ấu trùng sẽ bị nhiễm sán.
Theo Phan Thế Việt (1977) [26] đã mô tả: ‘‘tất cả bề mặt của sán dây là
một cái mồm khổng lồ. Thức ăn ngấm qua da của sán dây. Các loài sán dây
thường tắm trong nguần thức ăn giàu có của cơ thể vật chủ. Cái mồm đã
không cần thì hệ tiêu hóa của chúng cũng không có. Ăn và tiêu hóa đều qua
bề mặt cơ thể của sán dây’’. Hiện tượng rụng đốt của sán dây là cho người ta
có thể nghĩ rằng: cơ thể sán dây sẽ dần dần ngắn lại. Song, không phải như
vậy, bởi các đốt mới được sinh ra thay thế các đốt già đã rụng là cho sán dây
trở nên “trẻ lại’’ sau đốt đầu là đốt cổ, người ta gọi là đốt cổ là đốt sinh
trưởng, từ đó sẽ mọc ra các đốt khác. Các đốt mới sinh ra đẩy các đốt cũ lùi
dần ra phía sau.
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2008) [14] cho biết: những đốt sán dây hầu
như là những cơ thể độc lập với nhiều cơ quan riêng biệt và hoàn toàn độc
lập. Nhờ có sự hóa đốt mà khả năng sinh sản của sán dây tăng lên gấp bội.
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình: 4.1 Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán dây chó qua xét nghiệm phân 32
Hình 4.2: Tỷ lệ nhiễm sán dây theo các tháng (qua xét nghiệm phân) 34
Hình 4.3: Biều đồ tỷ lệ nhiễm sán dây theo tuổi của chó 35