Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

Thu hút vốn đầu tư vào các Khu công nghiệp tỉnh Nghệ An – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 111 trang )

104
LỜI CAM ĐOAN
Chuyên đề tốt nghiệp “Thu hút vốn đầu tư vào các Khu công nghiệp
tỉnh Nghệ An – thực trạng và giải pháp” là kết quả của quá trình tìm tòi,
nghiên cứu nghiêm túc của các nhân tôi dưới sự hướng dẫn tận tình của giảng
viên hướng dẫn – TS. Nguyễn Thị Thu Hà cùng sự góp ý quý báu của các cán bộ
Phòng Kinh tế Đối ngoại – Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Nghệ An, hoàn toàn không
sao chép từ bất cứ luận văn hay chuyên đề nào.
Tôi xin cam đoan rằng đây là thành quả do chính bản thân mình viết ra.
Nếu xảy ra bất cứ vấn đề gì về nội dung chuyên đề, tôi xin chịu hoàn toàn trách
nhiệm.
Hà nội, tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Hoài
104
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU
DANH MỤC HÌNH
BQL : Ban Quản lí
CCN : Cụm Công nghiệp
CNH : Công nghiệp hóa
DN : Doanh nghiệp
ĐTNN : Đầu tư nước ngoài
GCNĐT : Giấy Chứng nhận Đầu tư
HĐH : Hiện đại hóa
KCN :Khu Công nghiệp
KCX : Khu Chế xuất
KKT : Khu Kinh tế
TTHC : Thủ tục hành chính


UBND : Ủy ban Nhân dân
XTĐT : Xúc tiến đầu tư
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
JICA : Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản
NGO : Viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ
nước ngoài
ODA : Hỗ trợ phát triển chính thức
PCI : Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
USD : Đô la Mỹ
WB : Ngân hàng thế giới
LỜI NÓI ĐẦU
Để đất nước ngày càng lớn mạnh, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng và nhà nước ta đã quyết tâm
thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiến đến năm 2020
trở thành một quốc gia công nghiệp. Vì vậy, trong những năm qua, phát triển
công nghiệp luôn được xem là ưu tiên hàng đầu trong quá trình phát triển kinh
tế của cả nước. Và để thực hiện được mục tiêu đó, Đảng và Nhà nước đã có
những chủ trương và chính sách thu hút các nguồn vốn đầu tư vào các KCN, KCX,
tạo ra một nền tảng vững chắc cho việc phát triển công nghiệp.
Trong cả nước, Nghệ An là một tỉnh lớn cả về diện tích và dân số, điều kiện
tự nhiên tương đối thuận lợi để phát triển công nghiệp nhưng vẫn còn là một
tỉnh nghèo và kém phát triển. Để đưa Nghệ An thoát khỏi tình trạng nghèo và
kém phát triển, cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020, Đảng bộ và
UBND tỉnh Nghệ An đã đề ra các chủ trương, chính sách nhằm thu hút vốn đầu tư
vào các Khu công nghiệp tỉnh Nghệ An, nhất là nguồn vốn sản xuất kinh doanh.
Những năm qua, việc phát triển và thu hút vốn đầu tư vào các KCN bước
đầu đã đạt được một số kết quả nhất định, giúp đẩy nhanh phát triển kinh tế và
xã hội, tạo đà cho Nghệ An từ đó có thể thực hiện mục tiêu phát triển công nghiệp
của mình, đưa nền kinh tế tăng trưởng và vươn ra hội nhập với thế giới quốc tế.
Tuy thuận lợi là vậy, nhưng hiện nay vẫn còn tồn tại một số khó khăn và

hạn chế trong quá trình thu hút vốn đầu tư vào KCN trên địa bàn tỉnh Nghệ An
như việc phân bố vốn đầu tư không đồng đều, tỷ lệ thu hút vốn FDI còn thấp, tổng
vốn đầu tư trong tỉnh so với cả nước không cao…
Vấn đề cần giải quyết cấp thiết, cấp bách hiện nay là: Vì sao việc thu hút
vốn đầu tư vào các KCN tỉnh Nghệ An còn hạn chế, làm thế nào để thu hút được
nhiền vốn đầu tư ? Xuất phát từ yêu cầu đó, em đã lựa chọn đề tài: “Thu hút vốn
đầu tư vào các KCN tỉnh Nghệ An – Thực trang & giải pháp”.
 Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lí luận về công tác thu hút vốn đầu tư vào các Khu công
nghiệp tỉnh Nghệ An.
Chương II: Thực trang công tác thu hút vốn đầu tư vào các Khu công
nghiệp tỉnh Nghệ An.
Chương III: Định hướng và giải pháp thu hút vốn đầu tư vào các Khu
công nghiệp tỉnh Nghệ An.
 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Vốn đầu tư của các dự án
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu phân tích vốn đầu tư của các nhà đầu
tư Doanh nghiệp vào các KCN tỉnh Nghệ An để phát triển sản xuất công
nghiệp.
Xin được gửi lời cám ơn đặc biệt tới giảng viên hướng dẫn – TS. Nguyễn
Thị Thu Hà cùng các cán bộ của Phòng Kinh tế Đối ngoai – Sở Kế hoạch và Đầu tư
tỉnh Nghệ An đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực hiện nghiên cứu. Mặc
dù đã hết sức cố gắng nhưng do hạn chế nhất định về kiến thức và kinh nghiệm
nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những góp
ý quý báu của quý thầy cô để em có thể hoàn thiện hơn nữa đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I. LÍ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC THU HÚT
VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH NGHỆ
AN
I.1 KHÁI NIỆM KHU CÔNG NGHIỆP

I.1.1. Khái niệm Khu công nghiệp
Tuỳ theo điều kiện từng nước mà KCN có những nội dung hoạt động kinh
tế khác nhau Hiện nay có hai mô hình phát triển KCN từ đó hình thành hai khái
niệm về KCN, đó là :
Thứ nhất, KCN là khu vực lãnh thổ rộng, có nền tảng là sản xuất công
nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở…
KCN theo quan điểm này về thực chất là khu hành chính-kinh tế đặc biệt.
Thứ hai, KCN là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập trung các
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ, không có dân cư sinh sống.
Tại Việt Nam, theo Quy chế KCN, KCX, Khu công nghệ cao – Ban hành kèm
theo Nghị định số 36/CP ban hành ngày 24/4/1997 “ Khu công nghiệp là khu tập
trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có
dân cư sinh sống, do Chính Phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập.
Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất.
Như vậy KCN Việt Nam được hiểu giống với định nghĩa thứ hai trong đó :
Doanh Nghiệp KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoat động trong KCN gồm
doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ.Doanh nghiệp sản xuất KCN là
doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp được thành lập và hoạt động trong
KCN.Doanh nghiệp dịch vụ KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động
trong KCN, thực hiện dịch vụ các công trình kết cấu hạ tầng KCN, dịch vụ sản xuất
công nghiệp.
I.1.2. Đặc điểm của các Khu công nghiệp
Hiện nay, các KCN được phát triển ở hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các
nước đang phát triển.Mặc dù có sự khác nhau về qui mô, địa điểm, phương thức
xây dựng hạ tầng nhưng nói chung các KCN có những đặc điểm sau:
KCN là một tổ chức không gian lãnh thổ công nghiệp luôn gắn liền phát triển
công nghiệp với xây dựng cơ sở hạ tầng và hình thành mạng lưới đô thị và phân
bố dân cư hợp lý.
KCN có chính sách kinh tế thù và ưu đãi nhằm thu hút vốn đầu tư nước

ngoài, tạo môi trường đầu tư thuận lợi và hấp dẫn.KCN cho phép các doanh
nghiệp sử dụng những phạm vi đất đai nhất định bên trong KCN để thành lập các
nhà máy xí nghiệp, các cơ sở kinh tế, dịch vụ, với nhiều ưu đãi như thủ tục hành
chính, giá thuê đất…
Về tính chất hoạt động, KCN là nơi tập trung và thu hút các doanh nghiệp
sản xuất công nghiệp và các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ gắn liền với hoạt
động sản xuất công nghiệp gọi chung là doanh nghiệp KCN. Doanh nghiệp KCN có
thể là doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế; Doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài; các bên tham gia hợp đồng, hợp tác kinh doanh.Các
doanh nghiệp này được quyền kinh doanh trong các lĩnh vực sau : Xây dựng và
kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng; sản xuất gia công; lắp ráp các sản
phẩm công nghiệp để phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dung trong nước; phát triển
và kinh doanh bằng sảng chế, qui trình công nghệ,…
Về cơ sở hạ tầng kĩ thuật, các KCN đều xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng
với những điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đường xá,
hệ thống điện nước, thông tin liên lạc, xử lý giác thải…Nguồn vốn xây dựng cơ sở
hạ tầng thường do Chính phủ bỏ ra để san lấp mặt bằng, làm đường giao thông…
Trong trường hợp nhà nước không đủ vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thì Nhà
nước có thể kêu gọi từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài và trong nước.Việc xây
dựng cơ sở hạ tầng trong KCN thường do một công ty phát triển hạ tầng đảm
nhiệm. Công ty này có thể là doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh thực hiện. Các công ty phát triển hạ tầng
KCN sẽ xây dựng các kết cấu hạ tầng sau đó được phép cho các doanh nghiệp
khác thuê lại.
Về tổ chức quản lý, trên thực tế thì các KCN đều thành lập hệ thống Ban
quản lý KCN cấp tỉnh,thành phố trực thuộc Trung ương để trực tiếp thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong
KCN.Ngoài Ban quản lý KCN, tham gia quản lý tại các KCN còn có các Bộ, Ngành
như: UBND tỉnh- thành phố, Bộ kế hoạch và Đầu tư, Bộ thương mại, Bộ xây dựng,


Sản phẩm của doanh nghiệp KCN chủ yếu dành cho thị trường thế giới và phục
vụ xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ. Tuy nhiên cũng có rất nhiều doanh nghiệp KCN
sản xuất kinh doanh nhằm phục vụ thị trường nội địa.Các nhà sản xuất trong
KCN rất quan tâm đến việc giảm nhập khẩu máy móc, thiết bị và hàng hoá tiêu
dung, họ rất chú trọng tới việc sản xuất hang hoá chất lượng cao với mục đích
thay thế hang nhập khẩu.
Mọi hoạt động kinh tế trong KCN trực tiếp chịu sự chi phối của thị trường
và diễn biến của thị trường quốc tế.Bởi vậy, cơ chế quản lý kinh tế trong KCN đều
lấy điều tiết của thị trường làm chính.
KCN có vị trí địa lý xác định nhưng không hoàn toàn tách biệt như KCX.
Các chế độ quản lý hành chính, các qui định trong nội bộ KCN và với các doanh
nghiệp ngoài KCN sẽ rộng rãi hơn.Hoạt động trong KCN sẽ là hoạt động của các
tổ chức pháp nhân và các cá nhân trong và ngoài nước với điều kiện bình đẳng.
KCN là mô hình tổng hợp phát triển kinh tế với nhiều thành phần và nhiều
hình thức sở hữu khác nhau cùng tồn tại song song: Doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài dưới các hình thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh; doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài; doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn
trong nước.
Ra đời cùng mô hình KCX, KCN cũng đã nhanh chóng thu được nhiều thành tựu ở
nhiều quốc gia, đặc biệt là ở những nước đang phát triển.
I.1.3. Phân loại KCN.
Có thể căn cứ vào nhiều tiêu thức khác nhau :
 Theo mục đích sản xuất:
Người ta chia ra khu công nghiệp và khu chế xuất. Khu công nghiệp bao
gồm các cơ sở sản xuất hàng công nghiệp để tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Khu
chế xuất là một dạng của khu công nghiệp chuyên làm hàng xuất khẩu.
 Theo mức độ mới - cũ, khu công nghiệp chia làm 3 loại:
- Các khu công nghiệp cũ xây dựng trong thời kỳ bao cấp (từ trước khi có
chủ trương xây dựng khu chế xuất năm 1990) như khu công nghiệp Thượng Đình
- Hà Nội, khu công nghiệp Việt Trì, khu công nghiệp Gang thép Thái Nguyên v.v

- Các khu công nghiệp cải tạo, hình thành trên cơ sở có một số xí nghiệp
đang hoạt động
- Các khu công nghiệp xuất hiện trên địa bàn mới (hiện có khoảng 20)
 Theo tính chất đồng bộ của việc xây dựng:
Cần tách riêng 2 nhóm khu công nghiệp đã hoàn thành và chưa hoàn
thành đầy đủ cơ sở hạ tầng và các công trình bảo vệ môi trường như hệ thống
thông tin, giao thông nội khu, các công trình cấp điện, cấp nước, thoát nước mưa,
nước thải, các nhà máy xử lý nước thải, chất thải rắn, bụi khói v.v
 Theo tình trạng cho thuê:
Có thể chia số khu công nghiệp thành ba nhóm có diện tích cho thuê được
lấp kín dưới 50%, trên 50% và 100% (Các tiêu thức 3 và 4 chỉ là tạm thời: khi xây
dựng hoàn chỉnh, đồng bộ tất cả các công trình và cho thuê hết diện tích thì 2 tiêu
thức đó không cần sử dụng nữa).
 Theo quy mô:
Hình thành 3 loại khu công nghiệp: lớn, vừa và nhỏ. Các chỉ tiêu phân bổ
quan trọng nhất có thể chọn là diện tích tổng số doanh nghiệp, tổng số vốn đầu
tư, tổng số lao động và tổng giá trị gia tăng. Các khu công nghiệp lớn được thành
lập phải có quyết định của Thủ tướng chính phủ. Các khu công nghiệp vừa và nhỏ
thuộc quyền quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố. Trong giai đoạn đầu
hiện nay ta chú trọng xây dựng các khu công nghiệp vừa và nhỏ để sớm khai thác
có hiệu quả.
 Theo trình độ kỹ thuật: có thể phân biệt
- Các khu công nghiệp bình thường, sử dụng kỹ thuật hiện đại chưa nhiều.
- Các khu công nghiệp cao, kỹ thuật hiện đại thuộc ngành công nghiệp mũi
nhọn như công nghệ điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học v.v làm
đầu tàu cho sự phát triển công nghiệp, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội dài hạn.
 Theo chủ đầu tư, có thể chia thành 3 nhóm:
- Các khu công nghiệp chỉ gồm các doanh nghiệp, dự án đầu tư trong nước.
- Các khu công nghiệp hỗn hợp bao gồm các doanh nghiệp, dự án đầu tư

trong nước và nước ngoài
-Các khu công nghiệp chỉ gồm các doanh nghiệp, các dự án 100% vốn đầu
tư nước ngoài.
 Theo tính chất của thực thể kinh tế xã hội, cần phân biêt 2 loại:
- Các khu công nghiệp thuần túy chỉ xây dựng các xí nghiệp sản xuất, chế
biến sản phẩm, không có khu vực dân cư.
- Các khu công nghiệp này dần dần sẽ trở thành thị trấn, thị xã hay thành
phố vệ tinh. Đó là sự phát triển toàn diện của các khu công nghiệp.
 Theo tính chất ngành công nghiệp :
Có thể liệt kê theo các ngành cấp I, như khu chế biến nông lâm hải sản, khu
công nghiệp khai thác quặng, dầu khí, hóa dầu, điện tử, tin học, khu công nghiệp
điện, năng lượng, khu công nghiệp phục vụ vận tải, khu công nghiệp vật liệu xây
dựng v.v
 Theo lãnh thổ địa lý:
Phân chia các khu công nghiệp theo ba miền Bắc, Trung, Nam, theo các
vùng kinh tế xã hội (hoặc theo các vùng kinh tế trọng điểm); và theo các tỉnh
thành để phục vụ cho việc khai thác thế mạnh của mỗi vùng, làm cho kinh tế xã
hội của các vùng phát triển tương đối đồng đều, góp phần bảo đảm nền kinh tế
quốc dân phát triển bền vững.
I.2 NỘI DUNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
I.2.1. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển KCN
 Quy hoạch là dự báo, hoạch định phát triển trong tương lai. Quy hoạch chính là
công cụ giúp cho các nhà lãnh đạo thực hiện các định hướng phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương trong thời gian tới.
 Quy hoạch các KCN là quy hoạch các địa điểm xây dựng có khả năng cung cấp
nguyên liệu trong nước hoặc nhập khẩu thuận tiện, có cự li vân tải thích hợp cho
việc vân chuyển nguyên liệu và sản phẩm, có khả năng đáp ứng nhu cầu về lao
động, xây dựng kết cấu hạ tầng thuận lợi, có đất để mở rộng. Quy mô KCN phải
phù hợp với điều kiện hạ tầng, khả năng thu hút đầu tư.
 Xây dựng kế hoạch phát triển các KCN, đảm bảo quy hoạch các KCN được thực

hiện trong thưc tế
I.2.2. Công tác xúc tiến đầu tư
 Khái niệm xúc tiến đầu tư: XTĐT là một công cụ nhằm để thu hút đầu tư, là
công cụ để tạo dựng thương hiệu của một quốc gia, một địa phương để các
nhà đầu tư gắn liền với những đặc điểm chất lượng mà họ yêu cầu. XTĐT
có thể được thực hiện qua nhiều cách như tuyên truyền, ấn phẩm, tổ chức
hội nghị hay qua kênh thông tin mạng…
 Nội dung hoạt động XTĐT: Nội dung công tác XTĐT của cơ quan trung
ương, địa phương và các tổ chức tham gian XTĐT bao gồm các hoạt động
cơ bản như: xây dựng hình ảnh, các hoạt động tạo ra đầu tư, các hoạt
động phục vụ đầu tư.
 Cơ quan XTĐT: là cơ quan thực hiện quảng bá, giới thiệu các yếu tố của
địa phương tới các nhà đầu tư vào các địa phương nói chung và các KCN
nói riêng. Ở địa phương, cơ quan có chức năng giúp UBND tỉnh XTĐT, bao
gồm:
• Trung tâm xúc tiến đầu tư thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư
• Ban quản lý KCN thuộc UBND tỉnh
• Công tý phát triển hạ tầng KCN.
I.2.3. Cải thiện môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư được hiểu là tổng hợp các yếu tố, điều kiện về pháp
luật, kinh tế, chính trị,văn hóa, xã hội, các yếu tố về cơ sở hạ tầng, năng lực thị
trường và các lợi thế của một quốc gia… có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
đầu tư của các nhà đầu tư.
 Thước đo chất lượng môi trường đâu tư theo quan điểm PCI tỉnh được đánh giá
là thực hiện tốt 9 chỉ số thành phần trong chỉ số PCI cần có: 1) Chi phí gia nhập
thị trường thấp; 2) DN dễ dàng tiếp cận đất đai và có mặt bằng kinh doanh ổn
định; 3) Môi trường kinh doanh công khai minh bạch, DN có cơ hội tiếp cần công
bằng các thông tin cần cho kinh doanh; 4) Chi phí không chính thức ở mức tối
thiểu; 5) Thời gian DN phải bỏ ra để thực hiện các TTHC là ít nhất; 6) Lãnh đạo
tỉnh năng động và tiên phong; 7) Dịch vụ hỗ trợ DN tốt; 8) Có chính sách đào tạo

lao động tốt; 9) Hệ thống pháp luật tốt để giải quyết tranh chấp công bằng và
hiệu quả.
Môi trường đầu tư có vai trò rất quan trong đối với thu hút đầu tư phục vụ
mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội. Môi trường đầu tư là căn cứ quan trọng để
các nhà đầu tư trong và ngoài nước lựa chọn, từ đó đưa ra quyết định đầu tư của
mình.
I.2.4. Chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư
Chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư là biện pháp khuyến khích đầu tư, là tất
cả những quy định do nhà nước ban hành nhằm tạo những lợi ích nhất định cho
các nhà đầu tư. Các biện pháp đó chứa đựng những ưu đãi hoặc tạo ra điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư.
I.3 CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP
 Tỷ lệ lấp đầy các KCN
Tỷ lệ lấp đầy các KCN =
 Tỉ lệ vốn đầu tư thực hiện so với đăng kí
Tỉ lệ vốn thực hiện so với đăng kí(%)=
 Tỉ lệ dự án thực hiện so với đăng kí:
Tỉ lệ dự sán thực hiện so với đăng kí(%)=
 Vốn đầu tư bình quân của một dự án:
Vốn đầu tư bình quan của dự án(%) =
 Vốn đầu tư trên một ha đất:
Vốn đầu tư trên ha đất(%) =
 Cơ cấu vốn đầu tư
- Cơ cấu vốn đầu tư theo đối tác:gồm đối tác nước ngoài và dối tác trong
nước.
- Cơ cấu vốn theo ngành kinh tế, bao gồm :
+ Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản và thực phẩm.
+ Công nghiệp khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng
+ Công nghiệp cơ khí, lắp ráp

+ Công nghệ dệt, mau, da giày
+ Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và dịch vụ khác.
- Cơ cấu vốn đầu tư theo loại hình doanh nghiệp, bao gồm:
+ Doanh nghiệp nhà nước
+ Doanh nghiệp tư nhân
+ Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH)
+ Công ty Cổ phần
+ Doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài.
I.4 NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP
I.4.1. Các yếu tố bên ngoài KCN
a) Điều kiện tự nhiên của khu vực xây dựng KCN
Lợi thế về điều kiện tự nhiên có vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn
đầu tư, nó quyết đinh đến cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực sản xuất của các nhà đầu
tư và số lượng ngành nghề sản xuất; nó bao gồm các yếu tố về tự nhiên, địa hình,
khí hậu, nguồn tài nguyên…
b) Điều kiện kinh tế - xã hội
Địa phương có sự ổn định trong phát triển kinh tế - xã hội thì lượng vốn
đầu tư từ bên ngoài đổ vào cũng ổn định, hiệu quả sản xuất cao hơn, mang lại
nhiều lợi ích hơn cho các nhà đầu tư và cả nền kinh tế của nơi diễn ra hoạt động
đầu tư.
c) Cơ sở hạ tầng kĩ thuật – xã hội
Kết cấu hạ tầng kĩ thuật – xã hội tạo tiền đề cho mọi hoạt động phát triển
kinh tế - xã hội, kích thích thu hút và tiếp nhận được vốn đầu tư trong và ngoài
nước.
d) Chi phí nhân công và chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực và chi phí nhân công là nhân tố rất quan
trọng, ảnh hưởng đến hoạt động của DN; quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh của DN.
e) Ổn định về an ninh chính trị

Một trong những yếu tố hàng đầu được xem xét, đảm bảo tính ổn định cho
việc thực hiện dự án đầu tư .
I.4.2. Các nhân tố bên trong KCN
a) Vị trí KCN
Đây là cơ sở dẫn đến sự thành công của KCN. Đây là yếu tố quan trọng, thể
hiện sự thuận lợi hay khó khăn đối với việc vân chuyển nguyên liệu, sản phẩm, và
sự tác động của môi trường xung quanh đến sự phát triển của các KCN.
b) Cơ sở hạ tầng khu công nghiệp
Cơ sở hạ tầng các KCN là yếu tố quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh
của DN. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật trong KCN là để tạo môi trường hấp
dẫn cho các nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có thể tiến hành xây dựng ngay nhà
máy, xí nghiệp để sản xuất.
c) Chi phí đất đai
Bao gồm việc tiếp cận đất đai, giá đất, việc cấp giấy chứng nhân quyền sử
dụng đất; các chi phí liên quan; quy hoạch đất.
d) Sự hỗ trợ về dịch vụ đào tạo
KCN có hỗ trợ dịch vụ đầo tạo cho các nhà đầu tư thì nhà đầu tư dễ dàng
thu hút lao động, đặc biệt là lao động có tay nghề
e) Sự hỗ trợ về điều kiện làm việc cho người lao động trong KCN
Nhà ở, trường học, chợ, ngân hàng … Giá các loại dịch vụ cho KCN phải
hợp lý, bởi chi phí quản lý KCN và cước dịch vụ cho KCN phải hợp lí, bởi chi phí
quản lú KCN và cước dịch vụ này là môt trong những ưu thế cạnh tranh trong
việc thu hút vốn đầu tư vào các KCN
f) Sự quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước
Chủ trì làm đầu mối vận động, xúc tiến nhằm thu hút đầu tư trong và
ngoài nước vào KCN
I.5 KINH NGHIỆM CỦA CÁC TỈNH KHÁC
I.5.1. Kinh nghiệm thu hút đầu tư vào các KCN của tỉnh Bình Dương
Những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, Bình Dương vẫn là tỉnh
thuần nông, công nghiệp và dịch vụ nhỏ bé, gần như chưa có hạ tầng công

nghiệp. Bình Dương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhưng nền
kinh tế còn yếu kém. Số dân chỉ bằng một quận của thành phố Hồ Chí Minh. Với
thế đất cao thoáng và nền xây dựng vững chắc, đất đai của Bình Dương rất thích
hợp cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng công nghiệp và đô thị. Khác với thành phố
Hồ Chí Minh và các tỉnh công nghiệp liền kề trong vùng, Bình Dương bước vào
xây dựng và phát triển KCN với điểm xuất phát thấp, do đó buộc Bình Dương
phải có giải pháp và bước đi thích hợp, đi tắt đón đầu, biết tận dụng lợi thế của
tỉnh.
Đến cuối năm 2005, ngoài KCN Việt Nam- Singapo thành lập năm 1996 với
diện tích 292 ha thuộc trung ương quản lý, Bình Dương đã có 21 KCN với tổng
diện tích phê duyệt là 4.921 ha, thu hút được 470 dự án đầu tư sản xuất. Trong
đó, 168 dự án đầu tư trong nước với vốn điều lệ là 1.409 tỷ đồng (tương đương
gần 100 triệu USD) và 302 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký
là 1,35 tỷ USD. Quy mô vốn bình quân dự án đầu tư nước ngoài là 4,4718 triệu
USD.
Từ những thành công và cả những yếu kém tồn tại, Bình Dương có thể cho
ta những bài học:
+ Một là, thường xuyên nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện quy
hoạch phát triển KCN.
Việc chọn địa điểm, quy mô hợp lý và loại hình tổ chức không gian sản
xuất của từng KCN là những vấn đề có ảnh hưởng nhiều đến kết quả thu hút đầu
tư và hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp. Các KCN được phân bố rộng trong
tỉnh. Việc thành lập mới KCN được tiến hành theo phương thức "cuốn chiếu, lan
toả dần". Diện tích đất KCN được sử dụng cho thuê trên 60% khi đó mới được
thành lập KCN khác. Theo quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế đến 2010 và 2020, Bình Dương tiếp tục mở rộng thêm diện tích KCN
với những loại hình mới phù hợp nhu cầu phát triển công nghiệp trên địa bàn,
tạo tiền đề tăng tốc thu hút đầu tư trong thời kỳ tiếp theo.
Trong công tác tổ chức xây dựng hạ tầng, thực hiện phương thức cuốn
chiếu các hạng mục công trình trong từng KCN và theo trình tự hợp lý giữa các

KCN trong tỉnh. Lựa chọn các chủ đầu tư của địa phương có tiềm lực, có kinh
nghiệm. Đa dạng hoá các loại hình KCN để đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau của
các nhà đầu tư. Ngoài các KCN đa ngành nghề đã có, tỉnh hình thành các KCN
chuyên ngành hoặc cụm công nghiệp chuyên môn hoá trong KCN. Liên kết giữa
các doanh nghiệp, giữa các KCN có quan hệ về tổ chức sản xuất, nhất là giữa các
doanh nghiệp sản xuất chính với các doanh nghiệp sản xuất phụ trợ, giữa các tiểu
vùng trong tỉnh. Thu hút các dự án đầu tư có chọn lọc theo hướng dự án có trình
độ công nghệ cao, vốn đầu tư lớn, tổ chức thành tổ hợp sản xuất hoặc thành cụm
công nghiệp chuyên môn hoá trong KCN. Các KCN được xây dựng hài hoà trong
khu liên hợp công nghiệp- dịch vụ- đô thị, Bình Dương đang mở ra nhiều khả
năng mới nhanh chóng thu hút đầu tư gắn với quá trình hình thành đô thị.
+ Hai là, xây dựng kết cấu hạ tầng KCN có chất lượng, nhanh chóng hoàn
thành đồng bộ các công trình với chi phí hợp lý nhất.
Trong quá trình xây dựng các công trình công cộng, vấn đề giải phóng mặt
bằng giao đất cho chủ đầu tư là việc làm phức tạp, dễ cản trở tiến độ xây dựng
các bước tiếp sau. Ngay từ khâu quy hoạch KCN cũng như quy hoạch cơ sở hạ
tầng kinh tế- xã hội, Bình Dương luôn xác định quan điểm KCN nên bố trí vào
vùng đất hoang hoá, càng tránh được khu dân cư càng giảm được sự tốn kém,
phức tạp của Nhà nước, của dân; quan trọng hơn là biến được vùng đất có giá trị
kinh tế thấp thành vùng đất có lợi ích kinh tế cao hơn rất nhiều.
Khi cần phải giải toả, đền bù thì tỉnh áp dụng nhiều chính sách hợp lòng
dân, bảo đảm công bằng, công khai. Người dân trong diện giải toả, đền bù được
hưởng lợi ích trực tiếp từ KCN. Các hộ dân trong khu tái định cư được chuyển
sang nhiều ngành nghề dịch vụ, đại lý bán hàng, sửa chữa xe máy, cho thuê nhà
trọ hoặc trở thành công nhân trong KCN, nhờ đó hơn 85% hộ dân sau giải toả
đời sống được nâng cao. Ban quản lý có trách nhiệm tham gia việc lựa chọn chủ
dự án xây dựng hạ tầng, thẩm định quy hoạch chi tiết, quy hoạch sử dụng đất,
theo dõi kết quả xây dựng bên trong và bên ngoài KCN. Quản lý chặt chẽ việc xây
dựng các công trình hạ tầng ở từng KCN có tác dụng giảm thấp các chi phí xây
dựng, từ đó giảm phí hạ tầng cho doanh nghiệp.

+ Ba là, điều chỉnh cơ cấu sản xuất theo ngành nghề và đẩy mạnh xúc tiến
đầu tư vào các KCN.
Điều chỉnh cơ cấu sản xuất theo ngành nghề các KCN Bình Dương triển
khai theo hướng vận động, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ,
sử dụng nguyên liệu nội địa, đầu tư mới cơ sở sản xuất phụ trợ, cải tiến và tăng
thêm mặt hàng để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm.
Trong những KCN mới được thành lập, có thể liên kết các đối tác trong
nước (tổng công ty, tập đoàn kinh tế) và nước ngoài đầu tư xây dựng một số cụm
công nghiệp chuyên môn hoá hoặc một tổ hợp chuyên môn hoá trong KCN. Hình
thức tổ chức mới này có khả năng tạo sự chuyển đổi hợp lý cơ cấu sản xuất của
KCN trên địa bàn. Trong cùng một thời gian nhất định có thể khởi công xây dựng
một số KCN đáp ứng nhu cầu đầu tư khác nhau.
Tỉnh có nhiều hình thức giới thiệu như mời gọi các tập đoàn lớn đầu tư
vào các ngành công nghệ cao, tạo điều kiện cho việc xây dựng và sử dụng kết cấu
hạ tầng của các trung tâm công nghệ cao, nghiên cứu và công bố danh mục ưu
tiên thu hút các dự án công nghệ cao, cơ khí chính xác, vật liệu mới với dây
chuyền sản xuất hiện đại và sử dụng ít lao động.
+ Bốn là, tiếp tục thực hiện chương trình cải cách hành chính trong các
hoạt động thu hút đầu tư vào KCN trên cơ sở hoàn chỉnh cơ chế quản lý "một
cửa, tại chỗ", duy trì thường xuyên các quan hệ giao dịch hành chính giữa cơ
quan công quyền với các nhà đầu tư, các công dân theo nguyên tắc công khai,
minh bạch và lành mạnh.
Quan điểm và cách làm mời gọi đầu tư, mời đón nhân tài của Bình Dương
đã trở thành truyền thống, có sự nhất trí từ lãnh đạo đến cán bộ công chức, được
các nhà đầu tư đồng tình. Hằng tháng, lãnh đạo tỉnh cùng cán bộ đầu ngành đến
với doanh nghiệp để tìm hiểu, giải quyết vướng mắc tại chỗ, coi vướng mắc khó
khăn của doanh nghiệp là khó khăn vướng mắc của tỉnh. Tỉnh phân công rõ trách
nhiệm cụ thể đồng thời hoàn thiện sự phối hợp công tác giữa Ban quản lý các
KCN với các ban ngành có liên quan trong tỉnh. Công tác xúc tiến đầu tư, tổ chức
các hình thức cung cấp thông tin hay mời gọi đầu tư trong và ngoài nước là hết

sức cần thiết. Song chính những việc làm, cách cư xử có tình có lý đã tạo được
niềm tin, sự hài lòng của các nhà đầu tư, từ đó có sức lan toả thu hút thêm các
nhà đầu tư mới đến Bình Dương.
I.5.2. Kinh nghiệm thu hút đầu tư vào các KCN của tỉnh Đồng Nai
Nằm trong vùng trọng điểm kinh tế phía Nam, Đồng Nai đã chọn KCN làm
mô hình trọng điểm phát triển kinh tế của địa phương. Tỉnh Đồng Nai là một
trong những địa phương dẫn đầu cả nước về xây dựng KCN và thu hút đầu tư.
Đến cuối năm 2013, Đồng Nai đã xây dựng 17 KCN. Tổng diện tích các KCN
ở Đồng Nai là trên 5.000 ha, chiếm 21% tổng diện tích các KCN trong cả nước. Tỷ
lệ lấp đầy bình quân của các KCN Đồng Nai là 57,72%. Đồng Nai có 568 dự án
đầu tư còn hiệu lực, với số vốn đăng ký khoảng 6,9 tỷ USD, tổng số vốn đầu tư
thực hiện đạt 3,63 tỷ USD. Vốn đầu tư thu hút vào các KCN tại Đồng Nai từ nhiều
nguồn khác nhau cả trong và ngoài nước. Trong đó, xét về tổng số vốn đầu tư thì
doanh nghiệp trong nước chiếm 6%, doanh nghiệp liên doanh chiếm 11%, doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài có tỷ trọng cao nhất 83%. Có 31 quốc gia và vùng
lãnh thổ đầu tư vào KCN ở Đồng Nai.
Từ thực tiễn thu hút đầu tư vào KCN ở Đồng Nai trong những năm qua, có
thể rút ra một số kinh nghiệm:
+ Thứ nhất, Đảng bộ tỉnh Đồng Nai sớm đánh giá đúng những tiềm năng,
lợi thế phát triển KCN của địa phương. Tỉnh nắm vững quan điểm của trung
ương, chủ động xác định chủ trương phát triển KCN là trọng điểm xây dựng và
phát triển kinh tế của địa phương trong công cuộc đổi mới. Quá trình chỉ đạo xây
dựng KCN từ năm 1986 đến nay, tỉnh uỷ, UBND tỉnh luôn nhất quán khẳng định
vai trò to lớn của KCN, linh hoạt, sáng tạo tổ chức thực hiện các biện pháp có hiệu
quả để đẩy nhanh tốc độ phát triển KCN tương xứng với tiềm năng, lợi thế của
tỉnh. Từ chỗ có 1 KCN Biên Hoà là KCN lớn nhất cả nước, tỉnh đã chủ động xây
dựng thành một mô hình kinh tế hoạt động có hiệu quả và nhân rộng điển hình
trong toàn tỉnh.
+ Thứ hai, quá trình tổ chức thực hiện xây dựng KCN, tỉnh uỷ, UBND tỉnh
thường xuyên coi trọng xây dựng quy hoạch, kế hoạch, xác định vị trí, địa điểm

xây dựng KCN. Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, các KCN thành công thường nằm ở
những vị trí thuận lợi về giao thông như KCN Biên Hoà 1, KCN Biên Hoà 2, KCN
Amata Việc xây dựng quy hoạch KCN của tỉnh Đồng Nai thời gian qua đã khai
thác được mọi tiềm năng lợi thế của địa phương, mang lại hiệu quả trong thu hút
đầu tư phát triển công nghiệp, tạo thêm nhiều việc làm mới, tăng thu nhập cho
người lao động, tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo
hướng phát triển bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái, tạo mỹ quan đô thị, tiết
kiệm đất nông nghiệp.
+ Thứ ba, Đồng Nai thường xuyên quan tâm xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào KCN, hệ thống dịch vụ phục vụ KCN. Hạ
tầng ngoài hàng rào KCN bao giờ cũng đi trước một bước. Thực tế cho thấy, có
điện mà không có nước hoặc không có đường đi đều gây những ách tắc, cản trở
hoạt động của các doanh nghiệp. Các công trình hạ tầng ngoài hàng rào KCN vừa
là yếu tố tăng sức hấp dẫn đầu tư, đồng thời còn là giải pháp kinh tế- xã hội bảo
đảm phát triển KCN theo mô hình bền vững. Hiện nay, tổng đầu tư cho các công
trình hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN Đồng Nai khoảng 100 triệu USD. Chi
phí đầu tư trung bình cho các công trình hạ tầng KCN Loteco và KCN Amata do
doanh nghiệp trong nước đầu tư khoảng 3-5 USD/m2. Các KCN của Đồng Nai
được xây dựng hoàn chỉnh đều có đối tượng thuê đất phù hợp theo nguyên tắc
"tiền nào của nấy". Bởi vậy, việc xây dựng hạ tầng KCN đồng bộ, hiện đại, tiết
kiệm, đúng tiến độ có ý nghĩa trong việc nâng cao khả năng thu hút đầu tư vào
KCN.
+ Thứ tư, Đồng Nai đã xây dựng được hệ thống cơ chế chính sách quản lý
phù hợp, tạo môi trường thông thoáng, hấp dẫn các nhà đầu tư. Việc chăm sóc
tốt các nhà đầu tư thông qua cơ chế chính sách sẽ mở ra cơ hội đón các nhà đầu
tư mới. Thông thường, các nhà đầu tư có tâm lý tìm đến những nơi có sự quan
tâm, tạo điều kiện tốt nhất đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ.
Đồng Nai là một trong những địa phương đầu tiên trong cả nước thực
hiện quản lý nhà nước các KCN theo cơ chế quản lý "một cửa, tại chỗ". Cơ chế
này đã góp phần giảm chi phí, thực hiện nhanh chóng các thủ tục hành chính

của doanh nghiệp, tạo môi trường thông thoáng thu hút các nhà đầu tư. Tỉnh
đã thực hiện tốt sự phối hợp với các sở, ban, ngành của tỉnh như sở kế hoạch và
đầu tư, thương mại và du lịch, tài nguyên và môi trường, lao động thương binh
và xã hội, y tế, công an, cục hải quan, cục thuế, bưu điện để góp phần hỗ trợ
các doanh nghiệp KCN hoạt động. Việc phối hợp này đảm bảo cơ chế "một cửa,
tại chỗ" được thực hiện có hiệu quả.
Với tinh thần "chính quyền đồng hành cùng doanh nghiệp", Ban quản lý
các KCN tích cực tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp, xem khó khăn của họ cũng
là khó khăn của mình, thường xuyên cải tiến thủ tục hành chính và các dịch vụ
theo hướng tận tâm, minh bạch, công khai. Việc thực hiện tốt các cơ chế, chính
sách quản lý để tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp đã góp phần đưa đến sự
thành công trong thu hút đầu tư vào các KCN ở Đồng Nai.
I.5.3. Kinh nghiệm thu hút FDI vào KCN của TP.Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) có 16 khu công nghiệp, khu chế xuất
(KCX, KCN) với tổng diện tích 3.634,49 ha, chiếm 60% so với tổng diện tích quy
hoạch dành cho các KCX, KCN tập trung (6.000 ha), trong đó có 12 KCX, KCN đang
hoạt động với tổng diện tích 1.936,19 ha, tỷ lệ lấp đầy đạt 91,52%; 4 KCN đang
xây dựng hạ tầng.
Tốc độ tăng trưởng thu hút vốn đầu tư qua các giai đoạn đều tăng, với
mức bình quân 46,05%/năm. Vốn FDI bình quân cho một dự án hiện tại đạt 8,8
triệu USD, gấp 1,75 lần so với năm 2006 (4,96 triệu USD/dự án), gấp 2,1 lần so
với năm 1995 (4,1 triệu USD/dự án).
Về đối tác đầu tư, Singapore là quốc gia có vốn đầu tư vào các KCX, KCN
cao nhất, kế tiếp là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc.
Việc thu hút FDI đã góp phần hình thành và phát triển hệ thống các KCX,
KCN của TPHCM. Để thực hiện được các mục tiêu thu hút FDI vào các KCX, KCN
đã đề ra, TPHCM sẽ thực hiện tích cực, đồng bộ 7 giải pháp sau:
+ Một là, lựa chọn nhà đầu tư. Các KCX, KCN của thành phố cần tập trung
vận động thu hút các dự án đầu tư có quy mô lớn thuộc các ngành công nghiệp
chứa hàm lượng tri thức và công nghệ cao, ít tiêu hao năng lượng và tài nguyên;

tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, sử dụng nguồn lao động có trình
độ, phát triển theo hướng hội nhập vào chuỗi cung ứng toàn cầu, tập trung vào
các ngành có giá trị gia tăng cao (điện, điện tử - viễn thông, cơ khí chế tạo, hóa
dược, chế biến tinh lương thực thực phẩm và các dịch vụ phục vụ phát triển công
nghiệp). Ưu tiên các nhà đầu tư đến từ các nước phát triển, có các tiêu chuẩn cao
và quy định chặt chẽ về môi trường, có chế độ đào tạo và đối đãi tốt với người lao
động; các nhà đầu tư có tiềm lực vốn và công nghệ hiện đại từ châu Âu, Mỹ,
Nhật… Sự đầu tư của các doanh nghiệp này sẽ kéo theo chuỗi các nhà cung ứng
(công nghiệp phụ trợ) và dịch vụ tương thích đi kèm.
+ Hai là, đổi mới cách thức xúc tiến đầu tư. Chuyển cách kêu gọi đầu tư từ
hình thức “nhà đầu tư có nhu cầu thì họ tự tìm đến” sang hình thức “lựa chọn và
mời gọi nhà đầu tư theo định hướng”. Cụ thể là chủ động phối hợp với các tổ
chức, cơ quan ngoại giao, tham tán thương mại Việt Nam ở nước ngoài để phân
loại, nghiên cứu kỹ các đối tác nước ngoài có nhu cầu hoặc quan tâm đến việc
dịch chuyển đầu tư vào Việt Nam. Việc phân loại đối tác cũng phải có trọng tâm,
trọng điểm, xem đối tác nào có khả năng đáp ứng mục tiêu muốn thu hút vào
KCX, KCN. Sau đó, không chỉ dừng ở việc tiếp cận, giới thiệu mà phải liên tục tiếp
cận, tìm hiểu nhu cầu của nhà đầu tư, nhất là những đối tác đầu tư lớn, và vận
động đầu tư thông qua những mối quan hệ cá nhân, tổ chức có uy tín.
+ Ba là, tạo quỹ đất sẵn sàng cho thu hút đầu tư. Theo đó, cần tăng cường
sự phối hợp với chính quyền địa phương và các công ty phát triển hạ tầng KCX,
KCN đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, thực hiện tốt công tác tái định cư;
chuẩn bị sẵn sàng quỹ đất để giới thiệu cho các nhà đầu tư tiềm năng; rà soát,
thu hồi quỹ đất đối với những dự án không triển khai theo đúng tiến độ đăng ký
để triển khai các dự án khác, xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, đồng bộ và hiện
đại. Đặc biệt, cần hỗ trợ chủ đầu tư hạ tầng các KCN dự kiến thành lập mới hoặc
mở rộng thực hiện nhanh các thủ tục đầu tư để sớm triển khai.
+ Bốn là, kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch phát triển KCX, KCN với quy
hoạch phát triển đô thị, phân bố dân cư, nhà ở và các công trình xã hội phục vụ
công nhân trong KCX, KCN nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đồng bộ các hoạt

động dịch vụ (như nhà ở, khu vui chơi giải trí công cộng, dịch vụ cảng biển, kho bãi,
bưu chính viễn thông, cấp điện, cấp nước, dịch vụ tài chính - ngân hàng, các công
trình phúc lợi và đào tạo…). Hạ tầng kỹ thuật bên ngoài phải được cải thiện và xây
dựng để kết nối giữa các KCX, KCN với nhau, kết nối với trung tâm thành phố, cảng
biển, sân bay, và kết nối với các tỉnh trong Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam.
+ Năm là, chăm lo đời sống cho người lao động để tạo nguồn nhân lực bền
vững, điều đó cần phải được thực hiện tốt từ phía chủ doanh nghiệp (thông qua
chính sách về tiền lương, bữa ăn, thực hiện đúng các quy định của pháp luật về
lao động) và từ phía các tổ chức Đoàn thể. Hiện nay, đa số lao động tại các KCX,
KCN tại TPHCM là người nhập cư, ở độ tuổi thanh niên, nữ giới chiếm đa số, nên
gặp khó khăn về chỗ ở và thiếu thốn về đời sống vật chất, tinh thần. Việc chăm lo
đời sống, hỗ trợ và tạo điều kiện xây dựng các công trình phúc lợi phục vụ cho
công nhân sẽ tạo sự ổn định nguồn nhân lực ở các KCX, KCN.
+ Sáu là, tăng cường xây dựng mối quan hệ gắn kết giữa các trung tâm
giới thiệu việc làm, các doanh nghiệp và các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề
trong việc cung ứng lao động có tay nghề và định hướng đào tạo nghề phù hợp
với nhu cầu phát triển của doanh nghiệp và theo định hướng phát triển nền công
nghiệp hiện đại của đất nước.
+ Bảy là, xây dựng và phát triển các tổ chức chính trị - xã hội phải tiến hành
đồng bộ với xây dựng hệ thống quản lý nhà nước tại các KCX, KCN. Qua đó, các tổ
chức đoàn thể nhất là tổ chức Công đoàn phối hợp chặt chẽ với chủ doanh nghiệp,
Chính quyền địa phương chăm lo tốt đời sống vật chất tinh thần cho người lao động,
đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể, giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật,
ý thức trách nhiệm trong sản xuất cho lực lượng lao động. Từ đó làm cho nhà đầu tư
đồng tình ủng hộ khi chủ doanh nghiệp thấy được việc hình thành hệ thống chính trị
sẽ có ích cho doanh nghiệp phát triển bền vững trong KCX, KCN Thành phố.
I.5.4. Bài học kinh nghiệm cho thu hút đầu tư vào các KCN tỉnh Nghệ An
Qua việc tìm hiểu các KCN trên địa bàn một số tỉnh ,có thể rút ra một số bài
học kinh nghiệm để đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư vào KCN và phát huy hiệu quả
từ quá trình phát triển các KCN sau đây:

Một là, sự thống nhất nhận thức và nhất quán hành động của toàn thể
Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh trong quá trình quy hoạch, xây dựng KCN là vô
cùng quan trọng. Cần có sự tuyên truyền vận động tốt để chính quyền địa
phương, người dân trong vùng ảnh hưởng của KCN hỗ trợ tích cực trong công
tác giải phóng mặt bằng, bàn giao đất cho chủ đầu tư xây dựng hạ tầng KCN và
tham gia giám sát, quản lý hoạt động của các KCN. Và với chính sách thỏa đáng,
hợp lý, nó sẽ góp phần đẩy nhanh tiến độ đền bù, giải tỏa để nhanh chóng triển
khai đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN và kêu gọi đầu tư.
Hai là, quá trình quy hoạch phát triển KCN, đặc biệt là việc lựa chọn vị trí
xây dựng, quy mô xây dựng, chọn ngành công nghiệp ưu tiên thu hút đầu tư vào
KCN phải phù hợp quy hoạch phát triển KT-XH chung, với tiềm năng và lợi thế
của địa phương, với điều kiện cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của khu vực, và đảm
bảo an ninh quốc phòng.
Việc quy hoạch phát triển KCN phải đảm bảo đồng bộ giữa phát triển công
nghiệp với cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào KCN và quá trình đô thị hóa. Phát triển
các KCN cần đồng thời chú trọng đầu tư đảm bảo sự đồng bộ về hạ tầng ngoài
hàng rào KCN: giao thông, điện, nước, hạ tầng xã hội phục vụ đời sống công nhân
KCN, khu dân cư dịch vụ phục vụ cho KCN.
Ba là, lựa chọn chủ đầu tư thuê đất trong các KCN phải đảm bảo là có khả
năng về tài chính, kinh nghiệm hoạt động sản xuất kinh doanh và kinh nghiệm
quản lý nhằm đảm bảo tỉnh thành công của dự án. Ưu tiên các chủ đầu tư có dự
án quy mô lớn, công nghệ tiên tiến, hiện đại, thân thiện với môi trường.
Bốn là, thực hiện quản lý đối với KCN theo cơ chế “một cửa, tại chỗ” tại
Ban Quản lý các KCN tỉnh là cơ chế quản lý phát huy hiệu quả, vừa đảm bảo nâng
cao vai trò và năng lực thực hiện chức năng quản lý trực tiếp đối với KCN và các
doanh nghiệp KCN của Ban Quản lý, vừa đảm bảo yêu cầu giải quyết nhanh gọn,
chính xác các yêu cầu của KCN và doanh nghiệp KCN đặt ra. Để thực hiện tốt cơ
chế quản lý trên, cần tiếp tục quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn, chức năng,
nhiệm vụ của Ban Quản lý các KCN tỉnh thống nhất thực hiện trên toàn quốc.
Đồng thời cần phải nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ - công chức của Ban

Quản lý, đẩy mạnh cải cách hành chính tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động
của các doanh nghiệp trong các KCN. Các lĩnh vực được giải quyết thủ tục hành
chính tại Ban quản lý phải được công khai, minh bạch, có hướng dẫn chi tiết, cụ
thể. Và cần thực hiện tốt quy chế phối hợp với các Sở, ngành trong việc giải quyết
các yêu cầu của doanh nghiệp một cách rõ ràng, đồng thời nâng cao hiệu lực,
hiệu quả công tác quản lý nhà nước để quản lý chặt chẽ hoạt động đầu tư xây
dựng hạ tầng cũng như hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN đảm bảo
tuân thủ đúng quy định của pháp luật
Năm là, ổn định chính sách vĩ mô tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư trong
hoạt động đầu tư, nhất là chính sách khuyến khích đầu tư cho lĩnh vực đầu tư xây
dựng hạ tầng và hoạt động đầu tư vào các KCN. Đồng thời cần ổn định chính sách
bồi thường giải phóng mặt bằng tạo thuận lợi cho công tác giải phóng mặt bằng
cho các KCN. Bên cạnh đó cần có chính sách hỗ trợ từ chính quyền địa phương
cho người dân có đất bị thu hồi trong quá trình giải phóng mặt bằng cho các KCN
để tiếp tục ổn định đời sống, có điều kiện chuyển đổi sang các nghề dịch vụ, tiểu
thủ công nghiệp, tiếp nhận được các ảnh hưởng tích cực từ quá trình phát triển
các KCN để tự tạo việc làm, ổn định lâu dài.

×