Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Thực tiễn ứng dụng bộ ba bất khả thi ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.64 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu
I. Lý thuyết bộ ba bất khả thi
1. Nguon goc bộ ba bat khả thi
2. Định nghı̃a
3. Ba nhân to của bộ ba bat khả thi
3.1. Chính sách tiền tệ độc lập
3.2. On địnhtỷ giá
3.3. Hội nhập tài chı́nh (tự do hóa dòng von)
II. Sự kết hợp ba nhântố của bộ ba bất khả thi
III. Thực tiễn ứng dụng bộ ba bất khả thi trên thế giới
Trên the giới: Mỹ, Châu Au, Trung Quoc: thực tien và đánh giá
IV.Thực tiễn ứng dụng bộ ba bất khả thi ở Việt Nam
1. Thực tiễn và đánh giá
2. Tác động của bộ ba bat khả thi ở Việt Nam
2.1. Lạm phát
2.2. Lãi suat
2.3. Thị trường chứng khoán
3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam :
3.1 . Trong điều hành chính sách tiền tệ
3.2 . Trong hội nhập tài chı́nh
3.3 . Trong đieu hành tỷ giá
Kết luận
Lý thuyết bộ ba bất khả thi là một lý thuyết nền tảng, phổ biến trong kinh
tế vĩ mô. Trong bối cảnh hiện nay, những bất ổn của nền kinh tế đã và
đang tác động sâu sắc từng ngành nghề, khi đề cập tới chính sách tiền tệ
của Ngân hàng Trung Ương, một trong những lý thuyết kinh tế học được
quan tâm và suy xét cẩn trọng đó là: Lý thuyết bộ ba bất khả thi. Đây cũng
là lý do chính chúng tôi thực hiện tiểu luận này, tập trung tìm hiểu các
khía cạnh chính của lý thuyết bộ ba bất khả thi.
I. Lý thuyết bộ ba bất khả thi


1. Nguồn gốc bộ ba bất khả thi
Đây là mô hình lý thuyết rất phổ biến, gọi là mô hình Mundell-
Fleming được Robert Mundell và Marcus Fleming phát triển trong những
năm 1960. Và vào những năm 1980 khi vấn đề kiểm soát vốn bị thất bại ở
nhiều quốc gia cùng với mâu thuẫn giữa việc neo giữ tỷ giá và chính sách
tiền tệ độc lập ngày càng rõ ràng thì Lý thuyết bộ ba bất khả thi đã trở
thành nền tảng cho kinh tế học vĩ mô của nền kinh tế mở.
Một kiểu khác của lý thuyết bộ ba bất khả thi rất được chú ý - với
một chính sách ổn định tỷ giá hoàn hảo, với một tài khoản vốn mở (không
bị kiểm soát) hoàn hảo, nhưng một quốc gia vẫn hoàn toàn không thể tự
chủ chính sách tiền tệ. Những ví dụ lặp lại trên thế giới cho thấy ở những
nơi và thời điểm mà tài khoản vốn bắt đầu được tự do, thì cùng lúc xuất
hiện một chính sách tỷ giá cứng nhắc hơn và sự tự chủ về chính sách tiền
tệ cũng giảm đi.
Song song với sự phát triển thương mại và dịch vụ trong thế giới hiện đại,
kiểm soát vốn rất dễ bị lãng quên. Thêm nữa, vấn đề kiểm soát vốn còn
thể hiện những thay đổi của quốc gia không đúng thực tế. Do vậy rất khó
để một quốc gia có được một hệ thống kiểm soát vốn thật sự hiệu quả. Lý
thuyết bộ ba bất khả thi khẳng định rằng: Trong điều kiện ngày nay, một
quốc gia phải lựa chọn giữa việc giảm thiểu sự thay đổi tỷ giá hoặc điều
hành một chính sách tiền tệ độc lập ổn định. Nó không thể có đồng thời cả
hai.
2. Định nghĩa
Lý thuyết bộ ba bất khả thi - The Impossible Trinity (hay
Inconsistent Trinity hoặc Triangle of Impossibility) là một chính sách
kinh tế quốc tế. Lý thuyết phát biểu rằng: Một quốc gia không thể đồng
thời thực hiện cùng một lúc 3 mục tiêu chính sách vĩ mô:
-
Ổn định tỷ giá.
-

Tự do hóa dòng vốn.
-
Chính sách tiền tệ độc lập.
“Bạn không thể có đồng thời tất cả: một quốc gia chỉ có thể chọn tối
đa 2 trong 3. Nó có thể chọn một chính sách ổn định tỷ giá nhưng phải hi
sinh tự do hóa dòng vốn tức là tiếp tục kiếm soát vốn (giống như Trung
Quốc ngày nay), nó có thể chọn một chính sách tự do hóa dòng vốn nhưng
vẫn tự chủ về tiền tệ, song phải để tỷ giá thả nổi (giống như Anh hoặc
Canada), hoặc nó có thể chọn kiểm soát vốn và ổn định chính sách tiền tệ ,
nhưng phải thả nổi lãi suất để chống lạm phát hoặc suy thoái (giống như
Achentina hoặc hầu hết Châu Âu)" - trích lời đề tặng Robert Mundell -
Paul Krugman, 1999.
3. Ba nhân tố của bộ ba bất khả thi
3.1. Chính sách tiền tệ độc lập
Chính sách tiền tệ độc lập được hiểu là khả năng NHTW có thể chủ
động thực thi các công cụ chính sách tiền tệ thích hợp với các mục tiêu đã
xác định – ví dụ khi nền kinh tế quá nóng, NHTW có thể tăng lãi suất và
giảm cung tiền; hay khi nền kinh tế suy thoái, NHTW có thể giảm lãi suất
và tăng cung tiền, mà không bị tác động và ảnh hưởng bởi các yếu tố khác
như biến động dòng vốn vào ra nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ độc lập cho phép gia tăng hiệu quả chính sách khi các
công cụ chính sách đưa ra có thể tác động đến kết quả của nền kinh tế
theo định hướng mục tiêu mong muốn.
3.2. Ổn định tỷ giá
Tỷ giá hay tỷ giá hối đoái là tỷ lệ trao đổi giữa các đồng tiền với nhau.
Ví dụ tỷ giá trao đổi giữa đồng tiền Việt Nam (Việt Nam đồng) và đô-la Mỹ
vào khoảng 21.230 VND/USD ở thời điểm hiện tại. Tỷ giá này bị ảnh
hưởng bởi cung và cầu giữa đồng tiền trong nước và đồng ngoại tệ.Ví dụ,
ở trạng thái hiện tại tỷ giá trao đổi giữa VND và USD ở mức nêu trên,
nhưng do một lý do nào đó, đồng ngoại tệ đột ngột đổ vào Việt Nam và

Ngân hàng Nhà nước không có biện pháp can thiệp gì thì cung ngoại tệ
cũng như cầu tiền đồng tăng. Kết quả đồng tiền trong nước sẽ lên giá.
Ngược lại, vì một lý do nào đó mà đồng ngoại tệ chảy ra nhiều (ví dụ tăng
nhập khẩu hoặc có hiện tượng rút vốn ra bên ngoài chẳng hạn)thì có sự
thay đổi cung cầu ngoại tệ và tien đong theo hướng cau ngoại tệtăng sẽ
làm cho đong tien trong nước mat giá. Việc in tien trong nước quá nhieu
cũng làm cho đong tien quoc gia mat giá. Việc on định tỷ giá có ý nghı̃a
het sức quan trọng đoi với nen kinh te:
a. So sánh sức mua giữa các đồng tiền
Tỷ giá hối đoái phản ánh tương quan giá trị giữa hai đồng tiền, thông
qua đó có thể so sánh giá cả tại thị trường trong nước và trên thế giới,
đánh giá năng suất lao động, giá thành sản phẩm trong nước với các nước
khác.
b. Vai trò kích thích và điều chỉnh xuất nhập khẩu
Thông qua cơ chế tỷ giá, chính phủ sử dụng tỷ giá để tác động đến
xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ, khuyến khích những ngành hàng,
chủng loại hàng hóa tham gia hoạt động kinh tế đối ngoại, hạn chế nhập
khẩu nhằm thực hiện định hướng phát triển cho từng giai đoạn.
c. Điều tiết thu nhập trong hoạt động kinh tế đối ngoại
Phân phối lại thu nhập giữa các ngành hàng có liên quan đến kinh tế
đối ngoại và giữa các nước có liên quan vềkinh tếvới nhau. Khi tỷ giá cao,
tức là giảm sức mua của đồng tiền trong nước so với đồng tiền nước
ngoài. Điều này có tác dụng giúp cho nhà xuất khẩu có thêm lợi thế để
cạnh tranh tăng thêm thu nhập cho nhà xuất khẩu.
d. Tỷ giá còn là công cụ sử dụng trong cạnh tranh thương mại,
giành giật thị trường tiêu thụ hàng hóa, khai thác nguyên liệu của nước
khác với giá rẻ.
3.3. Hội nhập tài chính ( tự do hóa dòng vốn)
Hiện nay có rất nhiều quan niệm về quá trình tự do hóa dòng vốn.
Mở cửa dòng vốn đến mức độ nào thì được coi là tự do hóa.

Tại nước ta, Ngân hàng nhà nước Việt Nam định nghĩa như sau:
Tự do hoá dòng vốn (còn có tên gọi khác là tự do hoá tài khoản vốn
hay tự do hoá thị trường vốn) là quá trình giảm thiểu và dỡ bỏ dần các
biện pháp hạn chế giao dịch vốn ở thị trường, giảm thiểu sự can thiệp trực
tiếp của Chính phủ vào các quyết định phát hành và đầu tư vốn trên thị
trường chứng khoán, là việc cho phép rộng rãi các ngân hàng và các nhà
đầu tư nước ngoài tham gia các giao dịch chứng khoán ở thị trường trong
nước, là quá trình dỡ bỏ kiểm soát các luồng vốn vào và luồng vốn ra khỏi
nền kinh tế.
Trong đó:
- Các luồng vốn vào gồm:
+ Các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), bao gồm vấn đề
chuyển tiền và rút vốn của quỹ đầu tư, trả cổ tức, thanh toán hoàn trả các
khoản vay trực tiếp với nước ngoài của các dự án FDI;
+ Các luồng vốn vào được đầu tư theo danh mục qua TTCK
(Portfolio investment inflows), bao gồm vấn đề chuyển tiền vào và rút
vốn ra, về vay nợ, cổ phần, cho vay ngoại tệ đối với công dân nước sở tại;
- Các luồng vốn ra gồm:
+ Luồng vốn FDI ra nước ngoài, bao gồm cả việc mua sắm của các
công dân nước sở tại;
+ Luồng vốn ra được đầu tư theo danh mục qua TTCK (Portfolio
investment outflows), vấn đề sở hữu trái phiếu bằng đồng nội tệ của
người nước ngoài và luồng vốn ra của các khoản vay bằng ngoại tệ;
Ta có thể xem xét định nghĩa về tự do hoá dòng vốn của ngân hàng
Nhà nước Việt Nam như sau:
Quá trình giảm thiểu và dỡ bỏ dần các biện pháp hạn chế giao dịch
vốn ở thị trường.
Điều này nhằm tạo điều kiện cho dòng vốn được lưu thông trên thị
trường từ đó phát huy tối đa vai trò, chức năng của vốn. Vì nếu vốn không
được đem ra giao dịch rộng rãi, quay vòng thì đồng vốn đó đã không được

sử dụng hiệu quả, gây tổn thất cho nền kinh tế.
Giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ vào các quyết định
phát hành và đầu tư vốn trên thị trường chứng khoán.
Điều này giúp người cần vốn và người thừa vốn dễ dàng tìm đến với
nhau. Từ đó thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động vốn hữu
hiệu của nền kinh tế.
Cho phép rộng rãi các ngân hàng và các nhà đầu tư nước ngoài tham
gia các giao dịch chứng khoán ở thị trường trong nước.
Đây là yêu cầu quan trọng vì việc cho phép các định chế tài chính nước
ngoài tham gia đầu tư sẽ mở cửa dòng vốn vào một cách thông thoáng hơn.
Quá trình dỡ bỏ kiểm soát các luồng vốn vào và luồng vốn ra khỏi nền
kinh tế.
Đây là quá trình cao nhất của tự do hóa dòng vốn. Là điều kiện hoàn
hảo của thị trường vốn do thị trường tự nó vận động mà không cần sự can
thiệp của chính phủ thông qua các biện pháp kiểm soát vốn. Tuy nhiên
trong sự biến động của nền kinh tế toàn cầu, hầu như chưa một quốc gia
nào đạt đến sự dỡ bỏ hoàn toàn kiểm soát luồng vốn vào và luồng vốn ra vì
bản thân mỗi nền kinh tế luôn có sự tác động lẫn nhau, nên dù hệ thống an
ninh tài chính của một quốc gia có tốt đến đâu cũng chịu ảnh hưởng dù ít
dù nhiều từ các nền kinh tế khác. Do vậy, quá trình dỡ bỏ kiểm soát vốn vào
và ra hiện nay mới chỉ có duy nhất Hồng Kông áp dụng dựa theo cơ chế
kinh tế thả nổi của mình. Còn lại, hầu hết các quốc gia khác đều chưa đạt
đến yêu cầu này.
Tóm lại, tự do hóa dòng vốn cho phép vốn tự do luân chuyển giữa
các nước và tạo sự linh hoạt cho nền kinh tế. Nhưng quá trình này cũng
làm cho nền kinh tế trở nên dễ bị tổn thương. Vì thế, tại những nước đang
phát triển, việc tự do hoá tài khoản vốn thường bị hạn chế để giữ lại tiết
kiệm và phục vụ cho đầu tư trong nước, cũng như hạn chế tác động của
các cuộc khủng hoảng từ bên ngoài.
II. Sự kết hợp bộ ba bất khả thi:

Hình bên minh họa nguyê
n
tắc hoạt động của bộ ba bất khả
thi. Mỗi cạnh thể hiện cho các
mục tiêu tốt nhất, lần lượt là:
chính sách tiền tệ độc lập, ổ
n
định tỷ giá và hội nhập tài chí
nh
hoàn toàn. Đối nghịch với mỗ
i
cạnh (hay mỗi mục tiêu) là các công cụ chính sách tại các đỉnh.Mục tiêu
hội nhập tài chính đối ngược với đỉnh kiểm soát vốn, mục tiêu ổn định tỷ
giá đối ngược với đỉnh thả nổi hoàn toàn, mục tiêu chính sách tiền tệ độc
lập đối ngược với đỉnh liên minh tiền tệ.Bất kỳ cặp mục tiêu nào cũng có
thể đạt được bởi một đỉnh nằm giữa và một quốc gia hoàn toàn không
khả thi để đạt được đồng thời cả ba mục tiêu. Cụ thể:
Ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa
chọn chế độ tỷ giá cố định nhưng phải từ bỏ độc lập tiền tệ. Điều này có
nghĩa chính phủ đã mất đi một công cụ để điều chỉnh lãi suất trong nước
độc lập với lãi suất nước ngoài.
Độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa
chọn chế độ tỷ giá thả nổi.Với lựa chọn này, chính phủ (NHTƯ) được
quyền tự do ấn định lãi suất nhưng đổi lại tỷ giá phải vận hành theo
những nguyên tắc của thị trường.
Ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ được kết hợp bằng cách lựa chọn thị
trường vốn đóng hay chính phủ phải thiết lập kiểm soát vốn hoàn toàn.
Khi có kiểm soát vốn, mối liên hệ giữa lãi suất và tỷ giá sẽ bị phá vỡ.
III. Bộ ba bất khả thi ở các nước
Nước Mỹ chọn hai mục tiêu đó là sử dụng chính sách tiền tệ và lưu

chuyển dòng vốn tự do vào nền kinh tế. Mọi người Mỹ đều có thể dễ dàng
đầu tư ra nước ngoài, đơn giản là gửi tiền cho một quỹ đầu tư tương hỗ
quốc tế và người nước ngoài có thể dễ dàng mua chứng khoán, trái phiếu
tại Mỹ. Mặt khác Cục dự trữ liên bang Fed cũng sử dụng chính sách tiền tệ
để góp phần tạo việc làm và ổn định giá cả. Tuy nhiên, kết quả của quyết
định này là sự bất ổn đối với giá trị của đồng đôla trên thị trường ngoại
hối.
Ngược lại, Trung Quốc lại chọn cách khác. Ngân hàng trung ương
nước này thực hiện chính sách tiền tệ và duy trì kiểm soát chặt chẽ đối
với giá trị trao đổi của đồng nhân dân tệ. Nhưng để hoàn thành 2 mục
tiêu này, Trung Quốc phải hạn chế dòng vốn quốc tế, bao gồm cả việc hạn
chế công dân Trung Quốc chuyển tài sản ra nước ngoài. Nếu không có
những hạn chế đó, tiền sẽ chu chuyển ra và vào đất nước khiến lãi suất
trong nước bằng với lãi suất do các ngân hàng trung ương nước ngoài
thiết lập.
Phần lớn các nước Châu âu đã chọn cách thứ ba. Bằng cách sử dụng
đồng euro để thay thế cho đồng franc Pháp, mác Đức, lira Italia…những
nước này đã loại bỏ những biến động tỷ giá hối đoái trong khu vực của họ.
Thêm vào đó, dòng vốn tự do di chuyển trong các quốc gia này. Nhưng cái
giá của sự lựa chọn này là việc từ bỏ khả năng sử dụng chính sách tiền tệ.
Giả sử một nước cố gắng thực hiện cả ba chính sách trên đồng thời.
Khi kinh tế tăng trưởng nhanh, vốn nước ngoài sẽ chảy vào trong nước
gây ra áp lực tăng giá nội tệ. Khi đó, ngân hàng trung ương muốn bảo vệ
chế độ tỷ giá cố định thì phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Song
điều này có thể làm tăng lượng cung tiền trong lưu thông dẫn đến tăng
tốc lạm phát. Muốn lạm phát không tăng tốc, thì phải thực hiện chính
sách thanh khoản đối ứng. Song như thế thì vốn nước ngoài càng chảy
vào nhiều.
Như vậy một nước không thể thực hiện đồng thời ba chính sách gồm
chế độ tỷ giá hối đoái cố định, chính sách tiền tệ độc lập để ổn định giá cả

và tự do lưu chuyển vốn. Chỉ có thể thực hiện đồng thời hai trong ba
chính sách này mà thôi.
IV.Thực tiễn ứng dụng bộ ba bất khả thi ở Việt Nam
1. Thực tiễn và đánh giá :
Thực tiễn phát triển kinh tế thế giới trong thời gian vừa qua đã cho
thấy rõ tác động của việc giám sát tài chính - tiền tệ kém hiệu quả đã ảnh
hưởng nặng nề đến phát triển kinh tế của các nước. Việt Nam đang và sẽ
phải làm nhiệm vụ "kép", tức vừa phải tái cơ cấu để nền kinh tế có thể
phát triển theo chiều sâu, có hiệu quả với sức cạnh tranh, vừa phải tăng
cường giám sát đảm bảo an toàn tài chính - tiền tệ cho quá trình này.
Việc hoàn thiện và nâng cao năng lực giám sát an toàn vĩ mô thị
trường tài chính ở Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết, trong đó nhiệm vụ
đầu tiên là cần xây dựng một chính sách an toàn vĩ mô phục vụ việc giám
sát an toàn vĩ mô dựa trên các tiêu chí, công cụ, phương pháp giám sát
hiện đại đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng.
Thị trường phát triển nhanh chóng đã kéo theo nhiều bất cập, trình độ
quản trị điều hành, giám sát từng định chế và toàn bộ thị trường chưa bắt
kịp với tốc độ phát triển nhanh chóng của thị trường tài chính. Bên cạnh đó,
vẫn tồn tại khoảng cách lớn của Việt Nam với chuẩn mực an toàn và giám
sát tài chính của khu vực và thế giới. Minh chứng cho sự hạn chế này là đã
có không ít các loại hình hoạt động mang bản chất ngân hàng nhưng chưa
được quy định trong khuôn khổ kiểm soát của các cơ quan quản lý. Đó là
các tập đoàn tài chính với mô hình công ty mẹ là ngân hàng thương mại
(NHTM) và các công ty con, công ty liên kết là các công ty chứng khoán,
bảo hiểm tạo nhiều rủi ro qua giao dịch nội bộ, sở hữu chéo.
Các chuyên gia đã cùng cho rằng không có một mô hình giám sát tài
chính tối ưu bởi các kinh nghiệm thành công và thất bại là đan xen. Việc
thiết kế các mô hình giám sát tài chính phụ thuộc một phần vào mô thức tổ
chức thị trường tài chính ở các nước, độ sâu tài chính, trình độ phát triển
kinh tế, kể cả các đặc điểm về văn hóa, chính trị lẫn các khuôn khổ thể chế

và quản trị nhà nước của một quốc gia.
2. Tác động của bộ ba bất khả thi ở thị trường Việt Nam.
Bộ ba bất khả thi là lý thuyết phổ biến trong tài chính quốc tế được
áp dụng rất nhiều trong điều hành của chính phủ của các quốc gia bao
gồm 3 yếu tố cấu thành: Ổn định tỷ giá, Dòng vốn luân chuyển tự do và
Độc lập chính sách tiền tệ. Và ở các nước mới nổi thường có thêm dự trữ
ngoại hối để có thể duy trì sự tối ưu của chính sách như các quốc gia mới
nổi mà đặc biệt là Trung Quốc.
Chính Sách Tỷ Giá
Giống như các nền kinh tế nhỏ mới mở cửa thì Việt Nam cũng sử
dụng chính sách thả nổi có điều tiết. Nghĩa là Ngân hàng nhà nước duy trì
biên độ dao động của tỷ giá, tuy nhiên với áp lực của thâm hụt thương
mại, dự trữ ngoại hối thấp, áp lực duy chuyển vốn thấp và ngân hàng nhà
nước vẫn chưa độc lập trong chính sách tiền tệ đã dẫn đến áp lực phá giá
tỷ giá. Mọi người điều biết nền kinh tế nước ta có độ mở và tăng trưởng
kinh tế dựa vào xuất khẩu, nên việc phá giá VND luôn được ủng hộ để có
thể hỗ trợ xuất khẩu. Bên cạnh đó nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh
tế thâm dụng vốn và lao động, và các doanh nghiệp FDI đầu tư vào nhiều
cũng hướng tới giảm giá thành và xuất khẩu nên khả năng phá giá 2% của
chính phủ để ủng hộ mục tiêu tăng trưởng và duy trì lạm phát mục tiêu
của Chính phủ là cần thiết khi tình hình Dự trữ ngoại hối đã ở mức an
toàn,thâm hụt thương mại đã ở mức thấp so với các năm trước và lạm
phát đã ổn định dưới 7%.
Dòng vốn tự do luân chuyển
Trên thực tế lãi suất của mỗi nước sẽ không thể bằngnhau do chi phí
cơ hội rủi ro đều khác nhau và mức độ lãi suất chấp nhận ở mỗi thị
trường nên không thể cho rằng lãi suất của chúng ta phải thấp so với
những quốc gia khác. Mà nên gắn liền với sự so sánh các giai đoạn ở các
quốc gia có tương đồng trong khi bản thân chúng ta là nền kinh tế thâm
dụng vốn đòi hỏi để đổi lấy tăng trưởng để bắt kịp tốc độ với các quốc gia

khác thì lạm phát sẽ được đem ra cân nhắc. Thực tế,Việt Nam được xem
là một trong những quốc gia có độ ổn định về chính trị tuy nhiên do cơ sở
hạ tầng thấp và rủi ro hệ thống chính sách làm ảnh hưởng đến mức độ
thu hút vốn và bù rủi ro khá cao khi tình hình nợ xấu ở hệ thống ngân
hàng đang tác động làm tăng rủi ro đối với thị trường, mức độ tăng vay
nợ nước ngoài và nợ công để bù đắp sự bội chi ngân sách khi tình hình
tăng trưởng khó khăn là con dao hai lưỡi nếu quản lý không tốt.
Hiện tại, khi thông tin nới room của đối với các doanh nghiệp trong
nước là một bước thay đổi chính sách thu hút dòng vốn hỗ trợ tăng
trưởng trong dài hạn rất tốt, giúp làm giảm rủi ro lạm phát. Việc tái cơ
cấu kinh tế nhà nước cũng được đánh giá khá cao khi giảm sự phụ thuộc
trong việc sử dụng ngân sách cho các khoản đầu tư tư không hiệu quả và
làm hạn chế chính sách tài khóa của Chính phủ. Mặt khác việc sớm đàm
phán về hiệp định TTP sẽ thúc đẩy xu hướng xuất khẩu và dòng vốn đầu
tư trực tiếp từ trong và ngoài khối TPP sẽ tác động đến việc tự do luân
chuyển vốn như tăng xuất khẩu, giảm thâm hụt cán cân vãng lai và
thương mại, giảm bội chi và nợ nước ngoài cũng như gián tiếp cho sự ổn
định của hệ thống tài chính quốc gia. Việc dòng vốn đầu tư FDI đạt 19 tỷ
USD vượt mục tiêu là một minh chứng cho sự đón nhận xu hướng đón
đầu từ dòng vốn đi vào Việt Nam để đầu tư và tiềm kiếm đối tác,các dòng
vốn thông qua kênh thị trường chứng khoán như các hoạt động M&A hay
đầu tư tài chính…. Mặt khác các chính sách làm tăng tự do luân chuyển
vốn còn giúp chúng ta giải quyết các vấn đề nợ xấu trong nước mà chủ
yếu là BĐS.

Độc lập chính sách tiền tệ
Việc Ngân hàng nhà nước là một cơ quan ngang bộ đã ảnh hưởng lớn
tới sự độc lập của chính sách tiền tệ khi tung ra hai gói QE gần 10 tỷ USD
vào năm 2008 đã gây lạm phát mạnh tác động tiêu cực về mặt dài hạn đối
với nền kinh tế và dự trữ ngoại hối thấp. Hiệu quả của độc lập chính sách

tiền tệ dựa vào khả năng kiểm soát lượng tiền cung ứng và lãi suất. Bên
cạnh các chính sách tác động đến hoạt động bình ổn thị trường ngoại tệ,
vàng trong nước khi cấp bách và mang tính cưỡng chế là một điều cần
thiết trong ngắn hạn, tuy nhiên các chính sách hiệu quả thì về dài hạn
Ngân hàng nhà nước nên có những hành động mang tính định hướng và
quy chuẩn cho chính phủ để làm lành mạnh hóa thị trường ngoại tệ, vàng
và tăng dự trữ ngoại tệ lên mức 32 tỷ để tạo an toàn cho cán cân thanh
toán thương mại theo hướng có lợi cho xuất khẩu. Việc sử dụng chính
sách tiền tệ hiện nay đang rất cần yếu tố độc lập để có thể kiểm soát lạm
phát và duy trì tăng trưởng một cách ổn định, cũng như các công cụ kiểm
soát hiệu quả mà đặc biệt là vấn đề nợ xấu ở hệ thống ngân hàng đang tác
động đến sự lành mạnh của hệ thống tài chính quốc gia khi số nợ xấu
đang là một ẩn số và trông chờ sự hiệu quả từ công ty xử lý nợ VAMC từ
lĩnh vực BĐS, cũng như kiểm soát tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng
bên cạnh các chính sách lập lại trật tự huy động vốn. Chúng ta cần nhìn
nhận rằng các chính sách tài khóa đang bị kiềm hãm tác dụng do yếu tố
doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, nợ xấu và áp lực bội chi ngân sách .

Thực tiễn điều hành chính sách vĩ mô
Những quốc gia nhỏ như Việt Nam khi điều hành chính sách vĩ mô
theo góc độ bộ ba bất khả thi thì việc duy trì chính sách tiền tệ là một điều
cần thiết còn hai yếu tố còn lại thì có thể điều chỉnh linh hoạt cho nhau.
Tuy nhiên khi quá trình hội nhập sâu thì bắt buộc chúng ta phải phá giá
VND là một điều cần thiết để duy trì các hoạt động thương mại . Mặt khác
khả năng nhập siêu lớn vào các tháng cuối năm cũng là yếu tố tiêu cực và
ảnh hưởng tới khả năng phá giá để điều chỉnh cán cân thương mại. Bên
cạnh đó các cam kết về nới room cho nhà đầu tư nước ngoài muốn nắm
cổ phần tại Viêt Nam và gia nhập TPP sẽ làm dòng vốn luân chuyển vào
trong nước ngày một nhiều điển hình là FDI và FPI tăng trở lại trong thời
gian gần đây. Tóm lại việc điều hành các chính sách trong bộ ba bất khả

thi nên được điều hành một cách sáng tạo thông qua các chiến lược như
lạm phát mục tiêu, Dự trữ ngoại hối ở mức an toàn, và quan trong nhất là
các giải pháp cụ thể và đặc thù nhằm tạo ra sự ổn định trong ngắn hạn và
phát triển trong dài hạn.
3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Toàn cầu hóa một mặt mang lại nhiều cơ hội cho các nước đang phát
triển, nhưng mặt khác cũng đặt các quốc gia vào những thử thách lớn
trong việc thực thi chính sách vĩ mô. Trên quan điểm của Bộ ba bất khả
thi, một quốc gia chỉ có thể đạt được hai điều sau tại bất kỳ thời gian nhất
định: Một tài khoản vốn mở, tỷ giá hối đoái cố định, và một chính sách
tiền tệ độc lập. Đây thật sự là một thách thức với các nền kinh tế mới nổi
ở Châu Á, khi việc hội nhập sâu ngày càng mạnh mẽ, các nước này dường
như buộc phải để luồng vốn chu chuyển tự do nhằm phục vụ nhu cầu thu
hút vốn để phát triển, tuy nhiên các nước này cũng muốn thực thi chính
sách tỷ giá cố định nhằm đảm bảo chính sách ngoại thương. Hai điều trên
chắc chắn sẽ khiến quốc gia gặp khó khăn trong việc thực thi chính sách
tiền tệ độc lập. Trên cơ sở đó, có thể đúc kết một số kinh nghiệm điều
hành chính sách vĩ mô của các quốc gia mới nổi và bài học kinh nghiệm ở
Việt Nam.
Giống như lý thuyết chỉ ra, Việt Nam không thể giữ được cả 3 yếu tố
trên đồng thời trong một khoảng thời gian dài và buộc phải từ bỏ một
yếu tố nào đó.
Như có thể quan sát trong biểu đồ, lượng vốn FDI đổ vào Việt Nam
rất lớn ngay sau thời điểm Việt Nam gia nhập WTO năm 2007.
Đi kèm với đó là chính sách tung tiền ra để đảm bảo tiền đồng không
lên giá thể hiện qua tín dụng tăng. Kết quả là lạm phát năm 2008 tăng rất
nhanh, lên mức đỉnh hơn 20%.
Từ đó, Ngân hàng Nhà nước đã thi hành nhiều biện pháp mạnh như
khống chế lãi suất tiền gửi dưới mức 12% rồi mới lỏng dần về cuối năm
để kiềm chế lạmphát.

Như vậy, với dòng vốn vào nhiều cộng với tung tiền ra để giữ tiền
đồng không tăng giá đã làm chính sách tiền tệ không độc lập khi phải
thực hiện các biện pháp bị động để kiềm chế lạm phát.
Một đỉnh của tam giác bất khả thi bị hi sinh. Thời gian sau đó, khi
lượng vốn vào chậm dần đi và khủng hoảng kinh tế lan rộng, chính phủ
phải tung ra gói kích cầu năm 2009. Giữ được chính sách tiền tệ độc lập
với chính sách tài khóa và cho phép dòng vốn ra vào nhưng những nhà
điều hành đã không thể duy trì được giá tiền đồng cố định. Lại một lần
nữa bộ ba bất khả thi xuất hiện.
Việc điều hành các chính sách trọng bộ ba bất khả thi nên được điều hành một cách sáng
tạo thông qua các chiến lược như lạm phát mục tiêu, Dự trữ ngoại hối ở mức an toàn , và quan
trong nhất là các giải pháp cụ thể và đặc thù nhằm tạo ra sự ổn định trong ngắn hạn và phát triển
trong dài hạn. Chính phủ các nền kinh tế mới nổi có triết lý khá rõ ràng trong việc lựa chọn các
mục tiêu chính sách của bộ ba bất khả thi: từng bước mở cửa tài chính nhưng không quên kiểm
soát vốn, linh hoạt thay vì cố định tỷ giá và sử dụng công cụ chính sách tiền tệ bơm thắt nhịp
nhàng làm đầy kho dự trữ ngoại hối của mình.
HỌ VÀ TÊN MSSV STT CÔNG VIỆC KÝ TÊN
Trần Lê Thanh Thủy 92 Mục II
Nguyễn Thị Kim
Ngân
Mục II
Lê Thị Nguyên Mục II
Trang Khiết Du Mục I
Lê Hồng Quân Mục I
Hoàng Mục I
Lê Thị Thu Hiền Mục III
Lê Phước Bảo Hiền Mục III
Hân Mục III
Trịnh Đình Cường Mục IV
Nguyễn Thị Thái Hoa Mục IV

Nguyễn Văn Đức Mục IV

×