Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Quy hoạch cơ sở hạ tầng nông thôn mới theo bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới tại xã Minh Lập - huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên, giai đoạn 2014 – 2020.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.67 KB, 81 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




NGUYỄN THỊ HƯƠNG



Tên đề tài:
“QUY HOẠCH CƠ SỞ HẠ TẦNG NÔNG THÔN MỚI THEO
BỘ TIÊU CHÍ QUỐC GIA VỀ NÔNG THÔN MỚI TẠI XÃ
MINH LẬP, HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN,
GIAI ĐOẠN 2014 - 2020”


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC




Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Địa chính môi trường
Khoa : Quản lý tài nguyên
Khoá học : 2010 - 2014







Thái Nguyên, năm 2014


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




NGUYỄN THỊ HƯƠNG



Tên đề tài:
“QUY HOẠCH CƠ SỞ HẠ TẦNG NÔNG THÔN MỚI THEO
BỘ TIÊU CHÍ QUỐC GIA VỀ NÔNG THÔN MỚI TẠI XÃ
MINH LẬP, HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN,
GIAI ĐOẠN 2014 – 2020”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC




Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Địa chính môi trường
Khoa : Quản lý tài nguyên
Khoá học : 2010 - 2014


Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Đình Thi
Khoa Quản lý tài nguyên - Trường đại học Nông Lâm Thái Nguyên




Thái Nguyên, năm 2014


1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới là một chương
trình cụ thể hóa Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Đây là Chương trình mục tiêu Quốc gia mang tính toàn diện, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực phát triển lâu dài, bền vững ở khu vực nông thôn, hướng đến
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Để có thế xây dựng một nông thôn phát triển, làm nòng cốt cho việc phát
triển đất nước thì vấn đề quy hoạch phát triển nông thôn phải được đặt lên
hàng đầu. Tuy nhiên, việc quy hoạch phát triển nông thôn trên cả nước vẫn
còn nhiều vấn đề cần giải quyết như: các chương trình quy hoạch cho nông
thôn còn kém hiệu quả, công tác lập quy hoạch chưa bám sát vào tình hình
thực tế của địa phương, quy hoạch chồng chéo và không đồng bộ. Để giải
quyết các vấn đề tồn tại về quy hoạch phát triển nông thôn nói trên ngày
4/6/2010 Chính phủ đã đã phê duyệt “Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 -2020” kèm theo đó là bộ 19 tiêu chí về
xây dựng nông thôn mới với mục tiêu xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ

tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ
chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch
vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân
chủ ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ;
an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân
ngày càng được nâng cao - theo định hướng xã hội chủ nghĩa .
Để hiện thực hóa chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới tôi xin
được áp dụng bộ 19 tiêu chí để thực hiện xây dựng nông thôn mới cho xã
Minh Lập huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên.
Minh Lập là một xã kinh tế thuần nông, thuộc trung du miền núi nằm về
phía Tây cách trung tâm huyện Đồng Hỷ khoảng 10km. Toàn xã có 1555 hộ,
6600 nhân khẩu , địa bàn phân bố dân cư rộng, rải rác, chủ yếu tập chung theo
cụm.

2
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của xã còn
nhiều khó khăn, đó là: Do điều kiện thời tiết khắc nghiệt, địa hình chia cắt,
diện tích đất đai hầu hết là núi cao; kinh tế nông nghiệp chiếm tỷ trọng chính;
điểm xuất phát của nền kinh tế còn thấp cùng với trình độ dân trí không đồng
đều, thiếu kinh nghiệm, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo còn thấp, cơ sở
vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất chưa đáp ứng được, quá trình chuyển dịch
cơ cấu sản xuất diễn ra còn chậm, chưa vững chắc và chưa đáp ứng được yêu
cầu đề ra.
Nhận thấy tầm quan trọng và cấp thiết của việc xây dựng nông thôn mới,
cùng với việc xã tiến hành thực hiện dự án xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2014 – 2020, định hướng phát triển đến năm 2030, tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài : ‘‘Quy hoạch cơ sở hạ tầng nông thôn mới theo bộ tiêu chí quốc gia
về nông thôn mới tại xã Minh Lập, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, giai
đoạn 2014 – 2020 ’’.
1.2. Mục đích của đề tài

Xây dựng hình mẫu quy hoạch quy hoạch xây dựng nông thôn mới tại xã
Minh Lập, huyện Đồng Hỷ đáp ứng các tiêu chí có liên quan đến lĩnh vực xây
dựng cơ bản theo bộ tiêu chí về nông thôn mới của quốc gia và đề án xây
dựng nông thôn mới của tỉnh.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Điều tra chính xác tình hình cơ bản của xã minh Lập.
- Đánh giá hiện trạng sử dụng đất của xã Minh Lập.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội trong xây dựng nông thôn mới
phải đảm bảo tính khả thi, tính khoa học, phù hợp với quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất của huyện đã được phê duyệt,
đảm bảo đất đai được sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, phù hợp với điều
kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội của xã, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển đồng
bộ giữa các ngành, các lĩnh vực rong xã.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu: Tìm hiểu nắm vững được những
kiến thức thực tế trong quản lý nhà nước về đất đai nói chung và chương trình
mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới.

3
- Ý nghĩa trong thực tiễn: Qua việc nghiên cứu xây dựng cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội trong xây dựng nông thôn mới nhằm tìm ra những phương án
khả thi cũng như những thuận lợi, khó khăn, giải pháp thực hiện các công
trình.




4
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU


2.1. Cơ sở khoa học về quy hoạch nông thôn mới
2.1.1. Cơ sở pháp lý của lập quy hoạch xây dựng nông thôn mới
2.1.1.1 Các văn bản trung ương
- Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 26/11/2003;
- Nghị định số 08/2005/NĐ-CP ngày 24/01/2005 của Chính phủ về quy
hoạch xây dựng;
- Nghị quyết số 26-NQ/TƯ ngày 5/8/2008 của Ban chấp hành Trung
ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn (Hội nghị TW lần thứ 7 khoá X
của Đảng);
- Thông tư số 07/2008/TT-BXD ngày 07/4/2008 của Bộ Xây dựng về
việc hướng dẫn lập, thẩm định, phê duyệt và quản lý quy hoạch xây dựng;
- Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành Bộ tiêu chí nông thôn mới;
- Thông tư số 31/2009/TT-BXD ngày 10/9/2009 của Bộ Xây dựng về
việc Ban hành tiêu chuẩn quy hoạch xây dựng nông thôn;
- Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21/9/2009 về việc hướng
dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới;
- Quyết định số 193/QĐ-TTg ngày 02/2/2010 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt chương trình rà soát quy hoạch xây dựng nông thôn mới;
- Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2010 - 2020;
- Thông tư số 09/2010/TT-BXD ngày 04/8/2010 của Bộ Xây dựng Quy
định việc lập nhiệm vụ, đồ án quy hoạch và quản lý quy hoạch xây dựng xã
nông thôn mới;
- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy hoạch xây dựng QCXDVN 01:
2008/BXD);
- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về QHXDNT (QCVN 14: 2009/BXD);


5
- Thông tư số 07/2010/TT- BNNPTNT ngày 08/2/2010 của Bộ Nông
nghiệp và PTNT về hướng dẫn quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp cấp
xã theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới;
- Sổ tay hướng dẫn xây dựng nông thôn mới do Bộ Nông nghiệp và
PTNT và sổ tay hướng dẫn xây dựng nông thôn mới do Bộ Xây dựng ban
hành năm 2010;
- Căn cứ thông tư liên tịch số 26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC
ngày 13/4/2011 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, bộ Kế hoạch và
đầu tư, bộ Tài Chính về việc hướng dẫn một số nội dung thực hiện quyết định
số 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-
2020;
- Các văn bản pháp lý khác có liên quan;
2.1.1.2. Các văn bản địa phương
- Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVIII
và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện làn thứ XXIII;
- Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 của Xã Minh Lập- huyện Đồng
Hỷ, tỉnh Thái Nguyên;
- Bản đồ hành chính, tỷ lệ 1/5.000 của Xã Minh Lập và khu vực giáp
ranh;
- Bản đồ Quy hoạch sử dụng đất xã Minh Lập giai đoạn 2010 - 2020;
- Bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2010;
- Bản đồ địa chính năm 2001;
- Bản đồ quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 khu trung tâm xã được phê duyệt
tại Quyết định 1447/QĐ-UBND ngày 25/5/2007 của UBND huyện Đồng Hỷ;
- Các văn bản, số liệu điều tra do UBND Xã Minh Lập cung cấp.
2.1.2 Khái niệm về nông thôn
Nông thôn là một hệ thống xã hội, một cộng đồng xã hội có những đặc
trưng riêng biệt như một xã hội nhỏ, trong đó có đầy đủ các yếu tố, các vấn đề

xã hội và các thiết chế xã hội. Nông thôn được xem xét như một cơ cấu xã
hội, trong đó có hàng loạt các yếu tố, các lĩnh vực nằm trong mối quan hệ
chặt chẽ với nhau.

6
2.1.3. Đặc trưng của Nông thôn mới thời kỳ CNH - HĐH, giai đoạn 2010 -
2020
Bao gồm:
- Kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn
được nâng cao;
- Nông thôn phát triển theo quy hoạch, có kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội
hiện đại, môi trường sinh thái được bảo vệ;
- Dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát
huy;
- An ninh tốt, quản lý dân chủ.
- Chất lượng hệ thống chính trị được nâng cao
- Trương trình xây dựng quy hoạch nông thôn mới được thực hiện dựa
trên bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Bộ tiêu chí là căn cứ để xây dựng
nội dung Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; chỉ đạo
thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá; kiểm tra, đánh giá công nhận xã, huyện, tỉnh đạt
nông thôn mới.
- Bộ tiêu chí sẽ được điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội
của đất nước và từng thời kỳ.
2.1.4 Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới
2.1.4.1 Ý nghĩa của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới:
- Là cụ thể hóa đặc tính của xã NTM thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH.
- Bộ tiêu chí là căn cứ để xây dựng nội dung Chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng NTM, là chuẩn mực để các xã lập kế hoạch phấn đấu
đạt 19 tiêu chí nông thôn mới.

- Là căn cứ để chỉ đạo và đánh giá kết quả thực hiện xây dựng NTM
của các địa phương trong từng thời kỳ; đánh giá công nhận xã, huyện, tỉnh đạt
nông thôn mới; đánh giá trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền xã
trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
2.1.4.2. Nội dung Bộ tiêu chí quốc gia Nông thôn mới:
Bộ tiêu chí quốc gia NTM được ban hành theo Quyết định số 491/QĐ-
TTg, ngày 16/4/2009 gồm 5 nhóm tiêu chí, cụ thể như sau:

7
- Hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới: Được thể
hiện tại thông tư số 54/2009/TT – BNNPTNT, ngày 21 tháng 8 năm 2009 của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong đó đã thống nhất nội dung,
cách hiểu, cách tính toán và các quy chuẩn áp dụng đối với các tiêu chí nông
thôn mới.
2.1.5 . Khái niệm, mục đích, yêu cầu, ý nghĩa, của quy hoạch phát triển
nông thôn
2.1.5.1 Khái niệm về quy hoạch triển nông thôn
Về khái niệm quy hoạch phát triển nông thôn có thể tiếp cận theo hai
góc độ. Đứng trên góc độ phân bố lực lượng sản xuất, quy hoạch phát triển
nông thôn là sự phân bố các nguồn lực tài nguyên, đất đai, lao động, vốn, cơ
sở vật chất kỹ thuật, sự bố trí cơ cấu kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, dịch
vụ trên lanh thổ nông thôn một cách hợp lý để đạt hiệu quả cao.
Đứng trên góc độ kế hoạch hóa, quy hoạch phát triển nông thôn là một
khâu trong quy trình kế hoạch hóa nông thôn mới. Bắt đầu từ chiến lược phát
triển kinh tế xã hội nông thôn đến quy hoạch phát triển nông thôn rồi cụ thể
hóa bằng các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn trên địa bàn nông thôn.
Phát triển nông thôn là vấn đề phức tạp và rộng lớn, nó liên quan đến
nhiều ngành khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân
văn. Mục đích của phát triển nông thôn là phát triển đời sống con người với
đầy đủ các phạm trù của nó. Phát triển nông thôn toàn diện phải đề cập đến tất

cả các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng Sự
phát triển của mỗi vùng, mỗi địa phương nằm trong tổng thể phát triển chung
của các vùng và của cả nước. Vì vậy “Quy hoạch phát triển nông thôn là quy
hoạch tổng thể, nó bao gồm tổng hợp nhiều nội dụng hoạt động trong các lĩnh
vực kinh tế, văn hóa xã hội và môi trường liên quan đến vấn đề phát triển con
người trong các cộng đồng nông thôn theo các tiêu chuẩn của phát triển bền
vững”.
2.1.5.2 Mục đích của quy hoạch phát triển nông thôn
Mục đích của quy hoạch phát triển nông thôn là xây dựng và phát triển
nông thôn mới xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng chủ yếu sau:

8
- Một nông thôn giàu mạnh có năng suất vật nuôi, năng suất đất đai,
năng suất lao động ngày càng cao, có sản phẩm và sản phẩm hàng hóa xuất
khẩu ngày càng nhiều, tích lũy tái sản xuất mở rộng không ngừng.
- Một nông thôn mà mọi người lao động đều có việc làm, có thu nhập và
đời sống ngày càng cao. Mọi người dân đều được ăn no mặc ấm tiến tới ăn
ngon mặc đẹp, nhà cửa khang trang kiên cố, có đủ tiện nghi cần thiết, không
có người đói, giảm được người nghèo.
- Một nông thôn có văn hóa, không có ai bị mù chữ, trình độ dân trí được
nâng dần phổ cập cấp III tiến lên trung học, cao đẳng , có các hoạt động văn
thể thường xuyên lành mạnh, phát huy được truyền thống tốt đẹp, tình làng
nghĩa xóm, lá lành đùm lá rách, tình gia đình và họ tộc được phát huy.
- Một nông thôn mà mọi người dân sống và làm việc theo pháp luật, có
trật tự, kỷ cương, mọi người được sống an toàn, không có tệ nạn xã hội như
trộm cắp, nghiện hút, mại dâm…
- Một nông thôn được đô thị hóa không phải theo kiểu nhà nối nhà như ở
thành phố mà theo mô hình nhà vườn, có điện nước, có đường xá thuận tiện,
có thông tin liên lạc đến tận thôn xóm và từng gia đình.
- Một nông thôn sạch đẹp, trong đó mọi tài nguyên đất đai, nguồn nước,

không khí không bị ô nhiễm, rừng và động thực vật được bảo vệ.
Quy hoạch phát triển nông thôn nhằm mục đích xác định các biện pháp
tổ chức lãnh thổ và kinh tế, kỹ thuật nhằm huy động và phát triển sức sản
xuất, sử dụng hợp lý và hiệu quả đất đai, tài nguyên thiên nhiên, lao động,
tăng cường cơ sở hạ tầng, khai thác các nguồn lực trong địa phương để nâng
cao hiệu quả sản xuất xã hội đáp ứng được yêu cầu đời sống của mọi người
trong xã hội, góp phần xây dựng nông thôn mới và xã hội mới. cải thiện các
điều kiện sống ở nông thôn nhằm: biến khu vực nông thôn thành nơi làm việc
hấp dẫn con người sinh sống và làm việc đáp ứng nhu cầu nông sản phẩm
hàng hóa cho công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. hay nói cách khác đó
là phát triển nông thôn với mục đích giảm bớt sự chênh lệch giữa giàu và
nghèo đến mức có thể chấp nhận được ngăn ngừa dòng người di cư từ nông
thôn ra thành thị.

9
Quy hoạch tổng thể phát triển nông thôn được đặt ra nhằm giải quyết
các vấn đề: Tạo ra sự cân bằng trong các mối quan hệ thuộc đời sống con
người trên 3 mặt: kinh tế, xã hội, văn hóa, hạn chế sự phân hóa giàu nghèo
trên địa bàn sống.
Điều phối các loại hình quy hoạch chuyên sâu, giải quyết những mâu
thuẫn phát sinh trong xã hội như sự cạnh tranh thiếu lành mạnh trong các hoạt
động kinh tế, sự tranh chấp đất đai và các tài nguyên khác trong địa bàn. Khai
thác sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách tiết kiệm, hợp lý và có
hiệu quả, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học.
Tạo ra những điều kiện thuận lợi và hiệu quả trong sự hợp tác giữa các
vùng, các địa phương và trong quan hệ hợp tác quốc tế.
2.1.5.3 Yêu cầu của quy hoạch phát triển nông thôn
- Quy hoạch phát triển nông thôn phải thể hiện được những quan điểm về
phát triển nông thôn. Đó là quy hoạch phát triển nông thôn nhất thiết phải
đảm bảo được 3 mặt hiệu quả: kinh tế, xã hội và môi trường.

- Quy hoạch phát triển nông thôn phải tuân thủ theo đường lối đổi mới
phát triển nông thôn theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Quy hoạch phát triển nông thôn phải toàn diện tổng hợp và phối hợp
hài hòa giữa các lĩnh vực hoạt động, đảm bảo tăng cường kinh tế nhanh, tiến
bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
- Quy hoạch phát triển nông thôn phải quán triệt đường lối công nghiệp
hóa - hiện đại hóa ngay trên địa bàn nông thôn và vùng nghiên cứu.
- Quy hoạch phát triển nông thôn phải phù hợp với các quy luật phát
triển của tự nhiên.
- Quy hoạch phát triển nông thôn phải thể hiện đầy đủ các quy luật phát
triển kinh tế - xã hội.
- Quy hoạch phát triển nông thôn phải phản ánh được những thành tựu
khoa học kỹ thuật hiện đại.
- Phương án quy hoạch tổng thể phát triển nông thôn phải là công cụ
điều tiết mọi sự đầu tư vào từng ngành, từng cặp, từng địa phương sao cho

10
phù hợp và hữu hiệu, ngăn chặn sự tự phát, tránh sự chồng chéo hoặc mâu
thuẫn gây lãng phí nguồn lực.
- Phương án quy hoạch tổng thể phải đi trước một bước, làm cơ sở nền
tảng cho các quy hoạch chuyên ngành.
- Phương án quy hoạch phát triển nông thôn phải đặc biệt chú ý đến mối
quan hệ sản xuất chuyên môn hóa và phát triển tổng hợp các ngành kinh tế.
- Đề án quy hoạch phát triển nông thôn phải giải quyết đúng đắn việc
xây dựng cơ sở hạ tầng tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, tăng cường trang
bị kỹ thuật, cải thiện điều kiện làm việc và nâng cao hiệu suất lao động, đời
sống văn hóa tinh thần và nghỉ ngơi của nhân dân.
- Đề án quy hoạch phát triển nông thôn phải tạo nên sự phân bố dân cư
hợp lý.

- Quy hoạch phát triển tổng hợp vùng nông thôn là quy hoạch dài hạn có
tính khống chế vĩ mô. Vì vậy tính tổng hợp thể hiện rất mạnh trong đó đề cập
tới nhiều ngành và phạm vi lãnh thổ khá rộng, ngoài ra tính chính sách rất
cao. Phương án quy hoạch được xây dựng đòi hỏi số lượng lớn các tư liệu và
thông tin, quá trình thu thập, xử lý rất phức tạp.
- Để quy hoạch vừa phù hợp với tình hình thực tế, vừa phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế sau này, vừa có tính khả thi, khi lập quy hoạch cần đảm
bảo tính tổng hợp, so sánh và thống nhất với định hướng chủ đạo của quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, có sự tham gia đóng góp ý kiến của
các ngành, các cán bộ chuyên môn kỹ thuật và người dân, sử dụng kết hợp
giữa phương pháp truyền thống với kỹ thuật hiện đại (như ảnh hàng không,
ảnh viễn thám…) kết hợp phương pháp định tính với định lượng, áp dụng cơ
chế phản hồi trong quy hoạch nhằm tăng tính khoa học, tính thực tiễn và tính
quần chúng của quy hoạch.
2.1.5.4. Ý nghĩa của quy hoạch phát triển nông thôn
Quy hoạch phát triển nông thôn có ý nghĩa hết sức quan trọng để phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như từng vùng, địa phương và các
đơn vị kinh tế cơ sở. Có thể xét về ý nghĩa của quy hoạch phát triển nông thôn
về hai mặt:

11
• Quy hoạch phát triển nông thôn là căn cứ không thể thiếu được để quy
hoạch các vùng, các ngành, các đơn vị kinh tế cơ sở, để tổ chức phân bố và sử
dụng mọi nguồn lực tự nhiên, kinh tế - xã hội ở nông thôn.
• Quy hoạch phát triển nông thôn là căn cứ quan trọng của các khoa học
phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, là chỗ dựa để thực hiện việc quản lý nhà
nước trên địa bàn nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp và nông thôn, hạn chế tình trạng tự phát không theo quy hoạch, tránh
gây nên những hậu quả, lãng phí sức người, sức của.
• Đi đôi với quy hoạch đô thị, quy hoạch phát triển nông thôn có ý nghĩa

quan trọng đặc biệt bởi:
- Nông thôn là nơi sản xuất lương thực, thực phẩm cho nhu cầu cơ bản
của nhân dân, nông sản nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu. trong
nhiều năm, nông thôn nông nghiệp sản xuất ra khoảng 40% thu nhập quốc
dân và trên 40% giá trị xuất khẩu, tạo nên nguồn tích lũy cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Nông thôn là nơi cung ứng nguồn lao động dồi dào cho xã hội, chiếm
trên 70% lao động xã hội. trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quy
hoạch phát triển nông thôn đúng đắn cho phép thực hiện sự biến đổi lao động
theo hướng lao động nông thôn giảm dần, đặc biệt là lao động trong nông
nghiệp, chuyển dần sang các ngành công nghiệp và dịch vụ.
- Nông thôn chiếm 80% dân số của cả nước, là thị trường rộng lớn tiêu
thụ sản phẩm, có vai trò, vị trí quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. quy hoạch phát triển nông thôn có những chính sách hợp lý cho
phép nâng cao thu nhập và đời sống của dân cư nông thôn, tạo điều kiện mở
rộng thị trường để phát triển sản xuất của cả nước.
- Ở nông thôn có nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, bao gồm nhiều
thành phần, nhiều tầng lớp, là nền tảng quan trọng để địa bàn ổn định tình
hình kinh tế - xã hội của đất nước. Việc thực hiện những chính sách thích hợp
trong quy hoạch phát triển nông thôn là cơ sở quan trọng để tăng cường đoàn
kết của cộng đồng các dân tộc nông thôn. Nông thôn nằm trên địa bàn rộng
lớn của đất nước có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội khác nhau. Việc quy
hoạch phát triển nông thôn hợp lý sẽ cho phép khai thác sử dụng và bảo vệ tốt

12
các tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Đó là cơ sở để phát triển đất nước
một cách bền vững.
2.1.6. Tình hình xây dựng nông thôn mới trên thế giới và trong nước
2.1.6.1. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng nông thôn mới
∗ Nông thôn là nơi sinh sống của một bộ phận dân cư chủ yếu làm việc

trong lĩnh vực nông nghiệp. Nước ta hiện nay vẫn là một nước nông nghiệp
với hơn 70% dân cư đang sống ở nông thôn. Phát triển nông nghiệp nông thôn
đã, đang và sẽ còn là mối quan tâm hàng đầu, có vai trò quyết định đối với
việc ổn định kinh tế xã hội đất nước. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X của Đảng xác định mục tiêu xây dựng nông thôn mới là: “Xây dựng
nông thôn mới ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát
triển ngày càng hiện đại”.
∗ Quán triệt Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung Ương lần thứ bảy
(khóa X) ra Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 đã nêu một
cách toàn diện quan điểm của Đảng ta về xây dựng nông thôn mới. Nghị
quyết khẳng định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò to lớn, có vị trí
quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Chính vì
vậy các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng
bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nông nghiệp,
nông thôn nước ta còn là khu vực giàu tiềm năng cần khai thác một cách có
hiệu quả. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải
phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Giải quyết vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn không phải chỉ là nhiệm vụ của nông dân, ở khu vực
nông thôn mà là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Xây dựng
nông thôn mới là xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại ở nông
thôn; xây dựng cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn
nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch;
Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí
thức vững mạnh; Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân

13
cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các

vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang
bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai
trò làm chủ nông thôn mới.
∗ Nghị quyết 26/NQTW ngày 28/05/2008 đã nêu một cách tổng quát
về mục tiêu, nhiệm vụ cũng như phương thức tiến hành quá trình xây dựng
nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với điều kiện thực tiễn phát
triển của đất nước. Quan điểm đó của Đảng là sự kế thừa và phát huy những
bài học kinh nghiệm lịch sử về phát huy sức mạnh toàn dân, huy động mọi
nguồn lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp xây dựng nông thôn mới.
∗ Thực hiện đường lối của Đảng, ngày 28/10/2008, Chính phủ đã ra
Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ban hành một chương trình hành động của
Chính phủ về xây dựng nông nghiệp, nông dân và nông thôn, thống nhất nhận
thức, hành động về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Chương trình mục
tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
∗ Nội dung chính của Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng
nông thôn mới là: xây dựng, tổ chức cuộc sống của dân cư nông thôn theo
hướng văn minh, hiện đại, giữ gìn bản sắc văn hóa và môi trường sinh thái
gắn với phát triển đô thị, thị trấn, thị tứ.
∗ Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới là
chương trình mang tính tổng hợp, sâu, rộng, có nội dung toàn diện; bao gồm
tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, an ninh - quốc phòng.
Mục tiêu chung của chương trình được Đảng ta xác định là: xây dựng nông
thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế
và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển
nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy
hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi
trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất
và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao.
∗ Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta khẳng định xây dựng

nông thôn mới là một nhiệm vụ quan trọng trong định hướng phát triển kinh

14
tế xã hội của đất nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ
phương hướng, nhiệm vụ của xây dựng nông thôn mới đến năm 2020 là: Tiếp
tục triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm
từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn, giữ gìn và
phát huy nét văn hóa bản sắc của nông thôn Việt Nam.
∗ Thực hiện đường lối của Đảng, trong thời gian qua, phong trào xây
dựng nông thôn mới đã diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trên cả nước,
thu hút sự tham gia của cả cộng đồng, phát huy được sức mạnh của cả xã hội.
Quá trình xây dựng nông thôn mới đã đạt được thành tựu khá toàn diện. Kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản đảm bảo, tạo sự thuận lợi trong giao lưu
buôn bán và phát triển sản xuât; Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng
tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề, đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế có
hiệu quả gắn với xây dựng nông thôn mới, nâng cao thu nhập và đời sống vật
chất tinh thần cho người dân; Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và
tăng cường; Dân chủ cơ sở được phát huy; An ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội được giữ vững; Vị thế của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.
Những thành tựu đó đã góp phần thay đổi toàn diện bộ mặt nông thôn, tạo cơ
sở vững chắc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
- Tuy nhiên, quá trình xây dựng nông thôn mới còn bộc lộ nhiều khó
khăn hạn chế, nhất là về công tác quy hoạch. Quy hoạch nông thôn mới là
một vấn đề mới, liên quan đến nhiều lĩnh vực và phải mang tính chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội. Đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế về năng lực, nên
trong quá trình triển khai còn nhiều lúng túng. Bên cạnh đó chúng ta còn gặp
khó khăn về huy động nguồn vốn cho xây dựng nông thôn mới. Đời sống của
người dân nông thôn còn nhiều khó khăn. Mặt khác, trong nhận thức nhiều
người còn cho rằng xây dựng nông thôn mới là dự án do nhà nước đầu tư xây
dựng nên còn có tâm lí trông chờ, ỷ lại. Chính vì vậy trong thời gian tới bên

cạnh việc đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, chúng ta cần phải đẩy
mạnh công tác giáo dục tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng, để
mọi người dân đều nhận thức rằng: "Xây dựng nông thôn mới là công việc
thường xuyên của mỗi người, mỗi nhà, mỗi thôn xóm và từng địa phương; tất

15
cả cùng chung sức dưới sự lãnh đạo của Đảng " nhằm thực hiện thành công
xây dựng nông thôn mới.
- Xây dựng nông thôn mới được xác định là nhiệm vụ của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, chính vì vậy nó
phải có hệ thống lí luận soi đường. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng nông
thôn mới là sự vận dụng sáng tạo lí luận của Chủ nghĩa Mác Lênin vào thực
tiễn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, hướng đến thực hiện mục tiêu cách
mạng xã hội chủ nghĩa, từng bước xóa bỏ sự khác biệt giữa thành thị và nông
thôn, giữa lao động chân tay và lao động trí óc, để đi đến kết quả cuối cùng là
giai cấp công nhân, nông dân và trí thức sẽ trở thành những người lao động
của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
- Thực tiễn cũng cho thấy, những xã hội tiến bộ bao giờ cũng chú ý tới
việc thu hẹp khoảng cách sự phát triển giữa thành thị và nông thôn, phát triển
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội, cải thiện điều kiện
sinh hoạt ở nông thôn, làm cho thành thị và nông thôn xích lại gần nhau.
Chính vì vậy, bên cạnh phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lí luận, tổng kết
thực tiễn quá trình xây dựng nông thôn mới, chúng ta cần học tập kinh
nghiệm của các nước trên thế giới và trong khu vực về phát triển nông thôn
tiên tiến hiện đại, để xây dựng hoàn thiện hệ thống các quan điểm lí luận về
phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn làm cơ sở khoa học cho thực
tiễn. Xây dựng nông thôn nước ta trở nên văn minh, tiên tiến hiện đại nhưng
vẫn mang đậm bản sắc văn hóa và nét đẹp truyền thống của nông thôn Việt
Nam.
2.1.6.2. Tinh hình xây dựng nông thôn mới trên thế giới

a. Nông thôn ở Thái Lan
Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống với dân số nông
thôn chiếm khoảng 80% dân số cả nước. Để thúc đẩy sự phát triển bền vững
nền nông nghiệp, Thái Lan đã áp dụng một số chiến lược như: Tăng cường
vai trò của cá nhân và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; đẩy
mạnh phong trào học tập, nâng cao trình độ của từng cá nhân và tập thể bằng
cách mở các lớp học và các hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực nông
nghiệp và nông thôn; tăng cường công tác bảo hiểm xã hội cho nông dân, giải

16
quyết tốt vấn đề nợ trong nông nghiệp; giảm nguy cơ rủi ro và thiết lập hệ
thống bảo hiểm rủi ro cho nông dân.
Đối với các sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước đã hỗ trợ để tăng sức cạnh
tranh với các hình thức, như tổ chức hội chợ triển lãm hàng nông nghiệp, đẩy
mạnh công tác tiếp thị; phân bổ khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách
khoa học và hợp lý, từ đó góp phần ngăn chặn tình trạng khai thác tài nguyên
bừa bãi và kịp thời phục hồi những khu vực mà tài nguyên đã bị suy thoái;
giải quyết những mâu thuẫn có liên quan đến việc sử dụng tài nguyên lâm,
thủy hải sản, đất đai, đa dạng sinh học, phân bổ đất canh tác. Trong xây dựng
kết cấu hạ tầng, Nhà nước đã có chiến lược trong xây dựng và phân bố hợp lý
các công trình thủy lợi lớn phục vụ cho nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi bảo
đảm tưới tiêu cho hầu hết đất canh tác trên toàn quốc, góp phần nâng cao
năng suất lúa và các loại cây trồng khác trong sản xuất nông nghiệp. Chương
trình điện khí hóa nông thôn với việc xây dựng các trạm thủy điện vừa và nhỏ
được triển khai rộng khắp cả nước…
Về lĩnh vực công nghiệp phục vụ nông nghiệp, chính phủ Thái Lan đã
tập trung vào các nội dung sau: Cơ cấu lại ngành nghề phục vụ phát triển
công nghiệp nông thôn, đồng thời cũng xem xét đến các nguồn tài nguyên,
những kỹ năng truyền thống, nội lực, tiềm năng trong lĩnh vực sản xuất và
tiếp thị song song với việc cân đối nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhập

khẩu.
Thái Lan đã tập trung phát triển các ngành mũi nhọn như sản xuất hàng
nông nghiệp, thủy, hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp
chế biến nông sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, nhất là các nước
công nghiệp phát triển. Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm ở Thái Lan
phát triển rất mạnh nhờ một số chính sách sau:
- Chính sách phát triển nông nghiệp: Một trong những nội dung quan
trọng nhất của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2000-2005 là kế
hoạch cơ cấu lại mặt hàng nông sản của Bộ Nông nghiệp Thái Lan, nhằm mục
đích nâng cao chất lượng và sản lượng của 12 mặt hàng nông sản, trong đó có
các mặt hàng: gạo, dứa, tôm sú, gà và cà phê. Chính phủ Thái Lan cho rằng,
càng có nhiều nguyên liệu cho chế biến thì ngành công nghiệp chế biến lương

17
thực thực phẩm mới phát triển và càng thu được nhiều ngoại tệ cho đất nước.
Nhiều sáng kiến làm gia tăng giá trị cho nông sản được khuyến khích trong
chương trình Mỗi làng một sản phẩm và chương trình Quỹ làng.
- Chính sách bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm: Chính phủ Thái Lan
thường xuyên thực hiện chương trình quảng bá vệ sinh an toàn thực phẩm.
Năm 2004, Thái Lan phát động chương trình “Năm an toàn thực phẩm và
Thái Lan là bếp ăn của thế giới”. Mục đích chương trình này là khuyến khích
các nhà chế biến và nông dân có hành động kiểm soát chất lượng vệ sinh thực
phẩm để bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Bên
cạnh đó, Chính phủ thường xuyên hỗ trợ cho doanh nghiệp cải thiện chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Do đó, ngày nay, thực phẩm chế biến của
Thái Lan được người tiêu dùng ở các thị trường khó tính, như Hoa Kỳ, Nhật
Bản và EU, chấp nhận.
- Mở cửa thị trường khi thích hợp: Chính phủ Thái Lan đã xúc tiến đầu
tư, thu hút mạnh các nhà đầu tư nước ngoài vào liên doanh với các nhà sản
xuất trong nước để phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, thông

qua việc mở cửa cho các quốc gia dù lớn hay nhỏ vào đầu tư kinh doanh.
Trong tiếp cận thị trường xuất khẩu, Chính phủ Thái Lan là người đại diện
thương lượng với chính phủ các nước để các doanh nghiệp đạt được lợi thế
cạnh tranh trong xuất khẩu thực phẩm chế biến. Bên cạnh đó, Chính phủ Thái
Lan có chính sách trợ cấp ban đầu cho các nhà máy chế biến và đầu tư trực
tiếp vào kết cấu hạ tầng như: Cảng kho lạnh, sàn đấu giá và đầu tư vào nghiên
cứu và phát triển; xúc tiến công nghiệp và phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Xúc tiến công nghiệp là trách nhiệm chính của Cục Xúc tiến công nghiệp
thuộc Bộ Công nghiệp, nhưng việc xúc tiến và phát triển công nghiệp chế
biến thực phẩm ở Thái Lan do nhiều cơ quan cùng thực hiện. Chẳng hạn,
trong Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã, cùng với Cục Xúc tiến nông nghiệp,
Cục Hợp tác xã giúp nông dân xây dựng hợp tác xã để thực hiện các hoạt
động, trong đó có chế biến thực phẩm; Cục Thủy sản giúp đỡ nông dân từ
nuôi trồng, đánh bắt đến chế biến thủy sản. Cơ quan Tiêu chuẩn sản phẩm
công nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp xúc tiến tiêu chuẩn hoá và hệ thống chất
lượng; Cơ quan Phát triển công nghệ và khoa học quốc gia xúc tiến việc áp

18
dụng khoa học và công nghệ cho chế biến; Bộ Đầu tư xúc tiến đầu tư vào
vùng nông thôn.
- Một số kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp, nông thôn nêu trên
cho thấy, những ý tưởng sáng tạo, khâu đột phá và sự trợ giúp hiệu quả của
nhà nước trên cơ sở phát huy tính tự chủ, năng động, trách nhiệm của người
dân để phát triển khu vực này, có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng đối với
việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công nông nghiệp - tạo nền tảng
thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
b. Mô hình nông thôn ở Nhật Bản
Từ thập niên 70 của thế kỷ trước, ở tỉnh Oita (miền tây nam Nhật Bản)
đã hình thành và phát triển phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”, với mục
tiêu phát triển vùng nông thôn của khu vực này một cách tương xứng với sự

phát triển chung của cả nước Nhật Bản. Trải qua gần 30 năm hình thành và
phát triển, Phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” ở đây đã thu được nhiều
thắng lợi rực rỡ. Sự thành công của phong trào này đã lôi cuốn sự quan tâm
không chỉ của nhiều địa phương trên đất nước Nhật Bản mà còn rất nhiều khu
vực, quốc gia khác trên thế giới. Một số quốc gia, nhất là những quốc gia
trong khu vực Đông Nam Á đã thu được những thành công nhất định trong
phát triển nông thôn của đất nước mình nhờ áp dụng kinh nghiệm phong trào
“Mỗi làng một sản phẩm”.
Những kinh nghiệm của phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” được
những người sáng lập, các nhà nghiên cứu đúc rút để ngày càng có nhiều
người, nhiều khu vực và quốc gia có thể áp dụng trong chiến lược phát triển
nông thôn, nhất là phát triển nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa đất
nước mình.
c. Mô hình nông thôn ở Hàn Quốc
Cuối thập niên 60 của thế kỷ XX, GDP bình quân đầu người của Hàn
Quốc chỉ có 85 USD; phần lớn người dân không đủ ăn; 80% dân nông thôn
không có điện thắp sáng và phải dùng đèn dầu, sống trong những căn nhà lợp
bằng lá. Là nước nông nghiệp trong khi lũ lụt và hạn hán lại xảy ra thường
xuyên, mối lo lớn nhất của chính phủ khi đó là làm sao đưa đất nước thoát
khỏi đói, nghèo.

19
Phong trào Làng mới (SU) ra đời với 3 tiêu chí: cần cù (chăm chỉ), tự lực
vượt khó, và, hợp tác (hiệp lực cộng đồng). Năm 1970, sau những dự án thí
điểm đầu tư cho nông thôn có hiệu quả, Chính phủ Hàn Quốc đã chính thức
phát động phong trào SU và được nông dân hưởng ứng mạnh mẽ. Họ thi đua
cải tạo nhà mái lá bằng mái ngói, đường giao thông trong làng, xã được mở
rộng, nâng cấp; các công trình phúc lợi công cộng được đầu tư xây dựng.
Phương thức canh tác được đổi mới, chẳng hạn, áp dụng canh tác tổng hợp
với nhiều mặt hàng mũi nhọn như nấm và cây thuốc lá để tăng giá trị xuất

khẩu. Chính phủ khuyến khích và hỗ trợ xây dựng nhiều nhà máy ở nông
thôn, tạo việc làm và cải thiện thu nhập cho nông dân.
Bộ mặt nông thôn Hàn Quốc đã có những thay đổi hết sức kỳ diệu. Chỉ
sau 8 năm, các dự án phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn cơ bản được hoàn
thành. Trong 8 năm từ 1971-1978, Hàn Quốc đã cứng hóa được 43.631km
đường làng nối với đường của xã, trung bình mỗi làng nâng cấp được 1.322m
đường; cứng hóa đường ngõ xóm 42.220km, trung bình mỗi làng là 1.280m;
xây dựng được 68.797 cầu (Hàn Quốc là đất nước có nhiều sông suối), kiên
cố hóa 7.839km đê, kè, xây 24.140 hồ chứa nước và 98% hộ có điện thắp
sáng. Đặc biệt, vì không có quỹ bồi thường đất và các tài sản khác nên việc
hiến đất, tháo dỡ công trình, cây cối, đều do dân tự giác bàn bạc, thỏa thuận,
ghi công lao đóng góp và hy sinh của các hộ cho phong trào.
Nhờ phát triển giao thông nông thôn nên các hộ có điều kiện mua sắm
phương tiện sản xuất. Cụ thể là, năm 1971, cứ 3 làng mới có 1 máy cày, thì
đến năm 1975, trung bình mỗi làng đã có 2,6 máy cày, rồi nâng lên 20 máy
vào năm 1980. Từ đó, tạo phong trào cơ khí hóa trong sản xuất nông nghiệp,
áp dụng công nghệ cao, giống mới lai tạo đột biến, công nghệ nhà lưới, nhà
kính trồng rau, hoa quả đã thúc đẩy năng suất, giá trị sản phẩm nông nghiệp,
tăng nhanh. Năm 1979, Hàn Quốc đã có 98% số làng tự chủ về kinh tế.
2.1.6.2. Tình hình xây dựng nông thôn mới trong nước
Thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2010-2020 ban hành tại Quyết định 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010
của Thủ tướng Chính phủ; Trong năm 2013, mặc dù còn nhiều khó khăn,
thách thức nhưng với sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, của UBND

20
tỉnh và BCĐ Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới các cấp, tỉnh đã
tập trung chỉ đạo quyết liệt và đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận:
Đã kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy chỉ đạo và
điều hành cấp tỉnh, huyện, xã; Văn phòng điều phối tỉnh được kiện toàn và đã

đi vào hoạt động có hiệu quả trong việc tham mưu cho BCĐ tỉnh thực hiện
các nội dung của Chương trình. Công tác tuyên truyền, vận động đã thực sự đi
vào chiều sâu, đa dạng và phong phú hơn, thu hút được sự quan tâm, đồng
tình hưởng ứng, tự giác tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong
tỉnh bằng những việc thiết thực như đóng góp công sức thực hiện dồn điền đổi
thửa, đẩy mạnh sản xuất, chỉnh trang nông thôn, hiến kế, hiến đất, góp công
để làm đường giao thông, xây dựng trường học, trạm y tế Ngoài việc tuyên
truyền trên Đài Phát thanh - Truyền hinh tỉnh, trang Báo Quảng Trị, Báo
Nông nghiệp Việt Nam, xây dựng “Đặc san xây dựng NTM”, trang Website
nông thôn mới Quảng Trị, in ấn các tờ rơi, sổ tay đã chuyển tải kịp thời các
chủ trương, chính sách, văn bản hướng dẫn, các mô hình hay, kinh nghiệm tốt
về xây dựng nông thôn mới tới các địa phương, đơn vị và cộng đồng dân cư.
Các địa phương, đơn vị còn tổ chức lồng ghép tuyên truyền thông qua các hội
nghị, hội thảo, xây dựng các Panô, áp phích Trong năm qua đã phát hành 17
số báo và 01 đặc san NTM, 38 chuyên mục, phóng sự trên Đài truyền hình
tỉnh, phát hành 220 số Báo Nông Nghiệp Việt Nam cung cấp cho 117 xã, có
hơn 300 lượt người/ngày truy cập vào Website nông thôn mới. Ngoài ra, các
cơ quan, ban ngành, đoàn thể cấp tỉnh đã tổ chức 206 đợt tuyên truyền cho
6.792 cán bộ các sở, ngành, đoàn thể cấp tỉnh, tổ chức 366 đợt tuyên truyền
cho 20.175 cán bộ các phòng, ban, đoàn thể cấp huyện và lồng ghép các nội
dung tuyên truyền chương trình MTQG xây dựng NTM với 8.555 lượt người
tham gia. Công tác đào tạo, tập huấn nghiệp vụ về xây dựng NTM đã được
chú trọng cả về đối tượng tham gia lẫn nội dung truyền đạt, đã có sự phối hợp
có hiệu quả với các khối Mặt trận và các đoàn thể để cùng tham gia đào tạo,
tập huấn. Công tác xây dựng quy hoạch và đề án nông thôn mới đã có sự chỉ
đạo quyết liệt nên đến nay cơ bản các xã hoàn thành lập và phê duyệt quy
hoạch chung đảm bảo chất lượng, thể hiện rõ định hướng không gian NTM
của xã gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của từng địa

21

phương, hiện nay các địa phương đang đẩy nhanh tiến độ phê duyệt Đề án
nông thôn mới cho 31/117 xã còn lại đảm bảo tiến độ đề ra.
Việc huy động, lồng ghép các nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới:
Trong năm qua, mặc dù nguồn lực đầu tư trực tiếp của Chương trình có hạn,
nguồn ngân sách địa phương (tỉnh, huyện) tự cân đối còn khó khăn, nhưng
với sự quyết tâm cao và sự chỉ đạo có hiệu quả của UBND tỉnh, BCĐ các cấp
và sự vào cuộc đồng bộ của các cấp chính quyền, đoàn thể nên đã có sự đóng
góp đáng kể cho phong trào “Quảng Trị chung sức xây dựng nông thôn mới”.
Theo số liệu thống kê của các địa phương, tổng nguồn lực huy động đầu tư
cho xây dựng nông thôn mới trong năm 2013 là 5.590.128 triệu đồng. Trong
đó: Ngân sách TW hỗ trợ trực tiếp cho xây dựng NTM 19.800 triệu đồng (vốn
ĐTPT 11.040 triệu đồng, vốn SN 8.760 triệu đồng); Ngân sách của địa
phương là 44.737 triệu đồng (trong đó ngân sách huyện, thị là 36.584 triệu
đồng, ngân sách xã là 8.153 triệu đồng); Vốn lồng ghép vốn từ các chương
trình dự án hỗ trợ có mục tiêu và các chương trình, dự án khác gắn với nội
dung xây dựng nông thôn mới là 947.028 triệu đồng; Nguồn vốn tín dụng cho
nông nghiệp nông thôn trên địa bàn đạt 4.411.000 triệu đồng, tăng 288 tỷ
đồng so với cuối năm 2012; Vốn huy động doanh nghiệp là 103.347 triệu
đồng và vốn huy động từ nhân dân: 64.095 triệu đồng.
Với những nguồn lực trên, trong 2013 đã đầu tư xây dựng mới, sửa
chữa và nâng cấp được: 134,4 km đường giao thông nông thôn, 32,4 km
đường giao thông nội đồng, 19 cầu cống, 5 trạm bơm nước, 119 công trình
nước sạch tập trung, 13 khu xử lý gom rác thải, 10 chợ nông thôn, nâng cấp
119 phòng học, 4 nhà văn hóa xã, 35 nhà văn hóa thôn, 1 khu thể thao xã,
nâng cấp 14 trạm y tế; Ngành điện đã đầu tư xây dựng mới 17 km đường dây
trung áp, 93,4 km đường dây hạ áp, sửa chữa 4,9 km đường dây trung áp,
136,7 km đường dây hạ áp, xây dựng mới và sửa chữa 33 trạm biến áp Việc
đầu tư, hỗ trợ phát triển sản xuất và đào tạo nghề cho lao động nông thôn
cũng được chú trọng và đẩy mạnh thường xuyên. Trong năm 2013 đã đầu
thêm 55 mô hình phát triển sản xuất (trồng trọt 15 mô hình, chăn nuôi 26 mô

hình, thủy sản 1 mô hình và các lĩnh vực khác 13 mô hình). Các mặt hoạt
động khác như giáo dục, y tế, văn hoá, môi trường, xây dựng chính quyền,

22
nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy nhà nước các cấp được chú trọng
tăng cường và triển khai có hiệu quả. Với những kết quả trên đã làm thay đổi
thực sự bộ mặt nông thôn, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện cả
về vật chất lẫn tinh thần. Việc thực hiện 19 tiêu chí XD NTM của các xã được
cải thiện đáng kể, đặc biệt là 30 xã chọn làm thí điểm, tính đến 31/12/2013:
Số xã đạt từ 15-18 tiêu chí có 4 xã, chiếm 3,4 % (năm 2012 không có xã nào
đạt từ 15 tiêu chí trở lên); số xã đạt từ 10-14 tiêu chí có 31/117 xã (chiếm
26,5%), tăng thêm 18 xã so với năm 2012; số xã đạt từ 5- 9 tiêu chí có 67/117
xã (chiếm 57,2%), tăng 6 xã so với năm 2012 và số xã đạt dưới 5 tiêu chí còn
15/117 xã (chiếm 12,8%), giảm 16 xã so với năm 2012.
Tuy nhiên, trong năm qua việc thực hiện Chương trình XD NTM còn
bộc lộ những tồn tại và hạn chế. Đó là: Công tác tuyên truyền ở cơ sở, các
hoạt động hưởng ứng phong trào “Quảng Trị chung sức xây dựng NTM” chưa
đồng đều, thường xuyên, liên tục mới chỉ tập trung ở các xã điểm; phát triển
sản xuất tuy đã xuất hiện được khá nhiều mô hình, điển hình tốt nhưng còn
mang tính chất nhỏ lẽ, năng lực sản xuất và chất lượng hàng hoá còn thấp,
tính cạnh tranh chưa cao, số mô hình phát triển kinh tế theo hướng sản xuất
hàng hoá tập trung có liên liên kết "4 nhà" trong phát triển sản xuất còn hạn
chế; ngân sách của tỉnh hạn hẹp nên việc phân bổ nguồn vốn cho chương trình
MTQG xây dựng nông thôn mới rất khó khăn, trong khi đó việc huy động
nguồn lực đóng góp của doanh nghiệp, của nhân dân và cộng đồng vào xây
dựng NTM chưa nhiều; công tác lồng ghép các chương trình, dự án cho xây
dựng nông thôn mới còn lúng túng và chưa phát huy hiệu quả tối đa; ở một số
địa phương việc xử lý rác thải, nước thải còn chưa được quan tâm; an ninh
trật tự ở nông thôn ở nhiều nơi còn chưa tốt, còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất
ổn; một số Sở, ban, ngành và địa phương triển khai thực hiện Chương trình

xây dựng NTM chưa quyết liệt, chưa xác định rõ trách nhiệm thực hiện các
tiêu chí xây dựng thuộc ngành mình phụ trách, thiếu sâu sát nắm bắt kết quả
thực hiện các tiêu chí ở cơ sở; công tác đỡ đầu, hỗ trợ xã xây dựng NTM đạt
được chưa cao; cán bộ chuyên trách theo dõi nông thôn mới ở cấp huyện và ở
các xã còn thiếu, chủ yếu được bố trí kiêm nhiệm; việc chấp hành chế độ
thông tin báo cáo của các một số sở, ngành và địa phương chưa đáp ứng yêu

23
cầu của BCĐ, chất lượng báo cáo thấp làm ảnh hưởng đến việc tổng hợp nắm
bắt tình hình thực hiện Chương trình chung của tỉnh
2.1.6.4 tình hình xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Nguyên
Xây dựng nông thôn mới là một chương trình lớn của Đảng và Nhà
nước nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn, từng bước đẩy mạnh và nâng
cao chất lượng cuộc sống người dân. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng trong
những năm trở lại đây, Thái Nguyên là một trong số các địa phương đi đầu
trong việc thực hiện xây dựng mô hình này.
Tỉnh đã tổ chức triển khai phân bổ nguồn vốn thực hiện Quy hoạch xây
dựng nông thôn mới cho 143/143 xã. Trong đó, chú ý phân bổ tập trung cho
35 xã phấn đấu đến năm 2015 hoàn thành quy hoạch xây dựng nông thôn
mới.
Kinh tế phát triển là động lực chính để toàn tỉnh tiến hành xây dựng mô
hình nông thôn mới. Tổng sản phẩm trong tỉnh - GDP theo giá so sánh
đạt 6.958 tỷ đồng (theo giá thực tế là 25.418 tỷ đồng); cơ cấu kinh tế tiếp tục
chuyển dịch theo hướng tích cực: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
chiếm tỷ trọng 21,28%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 41,77%; khu
vực dịch vụ chiếm 36,95%.Trong số 18 chỉ tiêu kế hoạch kinh tế - xã hội chủ
yếu, có 14 chỉ tiêu hoàn thành và vượt kế hoạch. Chính điều này đã giúp nâng
cao đời sống nhân dân, yếu tố quan trọng trong việc xây dựng mô hình nông
thôn mới. 9/9 huyện, thành phố, thị xã đã thành lập Ban chỉ đạo và Bộ phận
thường trực tham mưu, giúp việc Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới cấp

huyện, 143/143 xã đã thành lập Ban chỉ đạo, Ban quản lý xây dựng nông thôn
mới cấp xã, Ban phát triển thôn, xóm, bản.
Ngoài ra, tỉnh còn tiến hành tổ chức 01 lớp tuyên truyền, triển khai
Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015, định hướng đến
2020 cho các ban xây dựng đảng, hội phụ nữ, hội nông dân, Uỷ ban mặt trận
tổ quốc, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh các huyện, thành phố, thị xã với hơn 200
đại biểu dự. Đặc biệt, tỉnh đã phối hợp với Trung tâm thông tin mở trang
thông tin về xây dựng nông thôn mới trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh.
Theo ông, Dương Ngọc Long, Chủ tịch UBND tỉnh, xây dựng nông thôn mới
là một chương trình lớn và mang tính chất lâu dài. Tỉnh sẽ tiếp tục xây dựng

×