Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý chất thải rắn y tế tại bệnh viện Đa khoa huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.13 KB, 64 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




NGUYỄN SỸ VŨ


Tên đề tài:

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
CHẤT THẢI RẮN Y TẾ TẠI BỆNH ĐA KHOA HUYỆN QUẾ
PHONG, TỈNH NGHỆ AN”



KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khoa học Môi trường
Khoa : Môi Trường
Khoá học : 2010 – 2014
Giảng viên hướng dẫn:
Nguyễn Thị Huệ

Khoa Môi trường – Trường Đại học Nông Lâm




THÁI NGUYÊN - 2014
LỜI CẢM ƠN
Thực tập tốt nghiệp là một giai đoạn cần thiết và hết sức quan trọng của mỗi
sinh viên, đó là thời gian để sinh viên tiếp cận với thực tế, nhằm củng cố và vận
dụng những kiến thức mà mình đã học được trong nhà trường. Được sự nhất trí của
Ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Môi trường - Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên, em đã tiến hành thực hiện đề tài:“Đánh giá hiện trạng và đề
xuất giải pháp quản lý chất thải rắn y tế tại bệnh viện Đa khoa huyện Quế
Phong, tỉnh Nghệ An”.
Sau một thời gian nghiên cứu và thực tập tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp
của em đã hoàn thành.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy giáo, cô giáo trong khoa
Môi trường, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã tận tình giảng dạy và
hướng dẫn em.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo Nguyễn Thị Huệ là
những người trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ, truyền đạt những kiến thức quý
báu cho em trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các cô chú, anh chị, cán bộ làm
việc tại bệnh viện Đa khoa huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi và giúp đỡ em trong quá trình thực tập tại bệnh viện.
Cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn ở bên cạnh động viên và giúp đỡ em
trong suốt quá trình học tập.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện nhưng khóa luận vẫn không thể
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy
cô và các bạn.

Thái Nguyên,ngày 05 tháng 05 năm 2014
Sinh viên




Nguyễn Sỹ Vũ
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
CTR : Chất thải rắn
CTRYT : Chất thải rắn y tế
CTRYTNH : Chất thải rắn y tế nguy hại
RYT : Rác y tế
ĐBSCL : Đồng Bằng Sông Cửu Long
KHCN&MT : Khoa học công nghệ & Môi trường
NIOEH : Viện y học lao động và vệ sinh môi trường
TW : Trung ương
CN, TTCN : Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
WHO : Tổ chức y tế thế giới
BV : Bệnh viện
TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam
QCVN : Quy chuẩn Việt Nam
KHCN : Khoa học công nghệ
CTNH : Chất thải nguy hại
UBND : Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Lượng chất thải y tế phát sinh tại các bệnh viện và các khoa trong bệnh
viện tại Việt Nam 6
Bảng 2.2: Thành phần chất thải rắn bệnh viện ở Việt Nam 7
Bảng 2.3. Một số loại bệnh có nguy cơ lây nhiễm từ chất thải y tế 12
Bảng 2.4: Khối lượng chất thải rắn y tế nguy hại ở các bệnh viện 17
của một số tỉnh thành phố 17
Bảng 4.1: Tỷ lệ thành phần chất thải rắn sinh hoạt tại bệnh viện Đa khoa huyện Quế

Phong 43
Bảng 4.2: Thành phần chất thải rắn y tế tại bệnh viện Đa khoa huyện Quế Phong 44
Bảng 4.3: Hiểu biết về mã màu sắc dụng cụ đựng chất thải y tế (n=40) 45
Bảng 4.4: Tình hình phát sinh, phân loại thu gom, xử lý chất thải rắn y tế 46
tại bệnh viện Đa khoa huyện Quế Phong 46
Bảng 4.5: Công tác thu gom, vận chuyển chất thải rắn y tế tại bệnh viện Đa khoa
huyện Quế Phong( n= 40) 47
Bảng 4.6: Công cụ thu gom chất thải rắn y tế tại bệnh viện Đa khoa huyện Quế
Phong 48

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1: Nguồn phát sinh chất thải y tế bệnh viện 5
Hình 2.2: Chất thải y tế. 24
Hình 4.1: Bản đồ hành chính huyện Quế Phong – tỉnh Nghệ An 28
Hình 4.2: Sơ đồ bệnh viện Đa khoa huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An 41
Hình 4.3: Sơ đồ tổ chức bộ máy của bệnh viện Đa khoa huyện Quế 42

MỤC LỤC

PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục đích đề tài 2
1.3. Yêu cầu của đề tài 2
1.4. Ý nghĩa đề tài 2
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 3
2.1.1. Một số khái niệm về chất thải rắn y tế 3
2.1.2. Phân loại chất thải rắn y tế 3
2.1.3. Nguồn phát sinh và khối lượng chất thải rắn y tế 5

2.1.4. Thành phần của chất thải rắn y tế 7
2.1.5. Một số phương pháp xử lý chất thải rắn y tế 8
2.1.6. Tác động của chất thải rắn y tế tới môi trường và sức khỏe cộng đồng 10
2.2. Cơ sở pháp lý 13
2.3. Tình hình quản lý chất thải rắn y tế trên Thế giới và Việt Nam 13
2.3.1. Hiện trạng quản lý chất thải rắn y tế trên thế giới 13
2.3.2. Hiện trang quản lý chất thải rắn y tế tại Việt Nam 15
2.3.3. Hiện trạng quản lý chất thải rắn y tế ở tỉnh Nghệ An 21
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 26
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 26
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 26
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 26
3.3. Nội dung nghiên cứu 26
3.3.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của huyện Quế Phong – tỉnh Nghệ An
26
3.3.2. Tổng quan về bệnh viện Đa khoa huyện Quế Phong – tỉnh Nghệ An 26
3.3.3. Thực trạng quản lý chất thải rắn y tế của bệnh viện Đa khoa huyện Quế
Phong – tỉnh Nghệ An 26
3.3.4. Đề xuất các giải pháp trong quản lý và xử lý chất thải rắn y tế trong bệnh
viện Đa khoa huyện Quế Phong 26
3.4. Phương pháp nghiên cứu 26
3.4.1. Phương pháp thu thập số liệu 26
3.4.2. Phương pháp điều tra, phỏng vấn, khảo sát thực địa 26
3.4.3. Phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia 27
3.4.4. Phương pháp so sánh, xử lý và phân tích số liệu 27
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 28
4.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của huyện Quế Phong – tỉnh Nghệ An . 28
4.1.1. Điều kiện tự nhiên 28
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 31

4.2. Tổng quan về bệnh viện Đa khoa huyện Quế Phong – tỉnh Nghệ An 37
4.2.1. Quá trình hình thành và phát triển 37
4.2.2. Cơ cấu tổ chức và quy mô của bệnh viện Đa khoa Huyện Quế Phong 40
4.2.3. Chức năng nhiệm vụ của bệnh viện Đa khoa huyện Quế Phong 42
4.3. Thực trạng quản lý chất thải rắn y tế của bệnh viện Đa khoa huyện Quế
Phong – tỉnh Nghệ An 43
4.3.1. Nguồn gốc phát sinh và khối lượng chất thải rắn y tế tại bệnh viện Đa khoa
huyện Quế Phong 43
4.3.2. Thực trạng quản lý chất thải rắn y tế của bệnh viện Đa khoa huyện Quế Phong
45
4.3.3. Những vấn đề đặt ra trong vấn đề quản lý chất thải rắn y tế đối với bệnh viện
49
4.4. Đề xuất các giải pháp trong quản lý và xử lý chất thải rắn y tế trong bệnh viện
Đa khoa huyện Quế Phong 49
4.4.1. Nâng cao hoạt động bảo vệ môi trường và quản lý chất thải rắn y tế tại bệnh
viện Đa khoa huyện Quế Phong 50
4.4.2. Giải pháp cho công tác bảo vệ môi trường tại bệnh viện Đa khoa huyện
Quế Phong 52
PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 54
5.1. Kết luận 54
5.2. Đề nghị 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 56

1

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, việc khai thác tài
nguyên thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội càng nhiều,

dẫn đến tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt. Qua đó, con người đã nhận ra
mối quan hệ tác động qua lại giữa hoạt động kinh tế – xã hội – môi trường tự nhiên.
Con người do hoạt động của mình đã làm biến đổi môi trường và sự biến đổi đó đã
tác động trở lại sự sống của con người. Vì vậy, bảo vệ môi trường là trách nhiệm
chung của toàn xã hội.
Việt Nam tuy là một nước đang phát triển, nền kinh tế sản xuất còn lạc hậu
tuy nhiên không vì thế mà Đảng và Nhà nước coi nhẹ vấn đề môi trường. Nhà nước
có chủ trương loại bỏ các dự án đầu tư gây nguy cơ ô nhiễm cao, bên cạnh đó đưa ra
các chính sách nhằm bảo vệ môi trường, một trong những mục tiêu quan trọng đó là
việc quản lý về cơ bản các chất thải độc hại trong đó có chất thải y tế, đặc biệt đó là
chất thải rắn y tế nguy hại.
Theo thống kê của Cục môi trường Việt Nam năm 2004 về chất thải nguy hại
mỗi năm của nước ta thải ra ngoài môi trường 10946 tấn/năm, riêng tại TP. HCM
mỗi năm thải ra môi trường chiếm tới 42% tổng lượng thải của cả nước. Theo đánh
giá của tổ chức Y tế thế giới, trong thành phần chất thải bệnh viện có tới 20% đến
25% là chất thải y tế nguy hại, trong đó có khoảng 15% là chất thải lâm sàng có khả
năng gây lây nhiễm và truyền bệnh cao như: kim tiêm, dao mổ, các mô bệnh, bông
băng dính máu của bệnh nhân, nhau thai sau khi sinh đẻ…
Vì vậy, việc đánh giá hiệu quả công tác thu gom, quản lý chất thải rắn y tế tại
bệnh viện cần cụ thể hơn, kết hợp với quá trình giám sát thực tế giúp tìm hiểu
những thiếu sót còn tồn tại trong công tác thu gom và quản lý hiện nay của bệnh
viện, góp phần làm tăng hiểu biết và nâng cao ý thức cũng như chất lượng điều trị.
Từ đó, nâng cao chất lượng quản lý chất thải rắn y tế tại bệnh viện Đa khoa huyện
Quế Phong – tỉnh Nghệ An.
Từ những thực tế đó, được sự đồng ý và giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường,
Ban chủ nhiêm khoa Môi trường, dưới sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Ths. Nguyễn
Thị Huệ, em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp
quản lý chất thải rắn y tế tại bệnh viện Đa khoa huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An”,
2


nhằm góp phần làm rõ hơn về hiện trạng quản lý chất thải rắn của bệnh viện, tìm ra giải
pháp và nâng cao hiệu quả quản lý chất thải rắn cho bệnh viện và có các giải pháp xử
lý và khắc phục hợp lý, phù hợp với các tiêu chuẩn môi trường cho phép, tránh tác
động đến môi trường.
1.2. Mục đích đề tài
- Đánh giá công tác thu gom và xử lý chất thải rắn y tế tại bệnh viện Đa khoa
huyện Quế Phong.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác thu gom và quản lý
chất thải rắn y tế tại bệnh viện Đa khoa huyện Quế Phong.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Nắm chắc các Nghị định, Thông tư, Quyết định, Văn bản hướng dẫn hiện
hành về công tác thu gom và quản lý chất thải rắn y tế.
- Số liệu thu thập phải khách quan, trung thực, chính xác.
- Phản ánh đầy đủ, đúng đắn công tác thu gom và quản lý chất thải rắn y tế tại
bệnh viện Đa khoa huyện Quế Phong.
- Số liệu điều tra, thu thập phải bảo đảm chính xác, khách quan.
- Các giải pháp đưa ra phải có tính khả thi, phù hợp với điều kiện thực tế của
cơ sở.
- Nâng cao kiến thức thực tế của bản thân phục vụ cho công tác sau khi ra trường.
1.4. Ý nghĩa đề tài
- Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học: Bổ sung những kiến thức đã
học trên lớp, học hỏi, tiếp cập những kiến thức, kinh nghiệm ngoài thực tế và hiểu
rõ hơn về hiện trạng chất lượng môi trường cũng như là thành phần, tính độc hại,
nguy hiểm của các chất thải rắn trong y tế hiện này.
- Ý nghĩa trong thực tế: Đánh giá được các mặt tích cực, hạn chế trong công
tác thu gom, quản lý, vận chuyển và xử lý chất thải rắn y tế. Từ đó đưa ra những
giải pháp có tính khả thi, rút ra những bài học kinh nghiệm cho công tác quản lý,
thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn trong ý tế hiện nay.
3


PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Một số khái niệm về chất thải rắn y tế
- Chất thải y tế (CTYT): Theo qui định về quản lý chất thải y tế của Bộ Y tế
ban hành, chất thải y tế là chất thải phát sinh trong các cơ sở y tế, từ hoạt động
khám chữa bệnh, chăm sóc, phòng bệnh, nghiên cứu, đào tạo, chất thải y tế có thể ở
dạng rắn, lỏng, khí.(Bộ Y tế, 2007)[6]
- Chất thải y tế nguy hại (CTYTNH): Là chất thải y tế chứa yếu tố nguy hại
cho sức khỏe con người và môi trường như dễ lây nhiễm, gây ngộ, phóng xạ, dễ
cháy nổ, dễ ăn mòn hoặc có đặc tính nguy hại khác nếu những chất thải này không
được tiêu hủy an toàn.
- Rác y tế (RYT): Là phần chất thải y tế ở dạng rắn, không tính chất thải
dạng lỏng và khí, được thu gom và xử lý riêng.
- Rác sinh hoạt y tế: Là chất thải không xếp vào chất thải nguy hại, không có
khả năng gây độc, không cần lưu giữ, xử lý đặc biệt; là chất thải phát sinh từ các
khu vực bệnh viện: giấy, plastic, thực phẩm, chai lọ…
2.1.2. Phân loại chất thải rắn y tế
2.1.2.1. Chất thải thông thường
Chất thải thông thường là chất thải không chứa các yếu tố lây nhiễm, hóa học
nguy hại, phóng xạ, dễ cháy, nổ, bao gồm:
- Chất thải sinh hoạt phát sinh từ các buồng bệnh (trừ các buồng bệnh cách ly).
- Chất thải phát sinh từ các hoạt động chuyên môn y tế như các chai lọ thủy tinh,
chai huyết thanh, các vật liệu nhựa, các loại bột bó trong gãy xương kín. Những chất thải
này không dính máu, dịch sinh học và các chất hóa học nguy hại.
- Chất thải phát sinh từ các công việc hành chính: giấy, báo, tài liệu, vật liệu
đóng gói, thùng các tông, túi nylon, túi đựng phim…
- Chất thải ngoại cảnh: lá cây và rác từ các khu vực ngoại cảnh. (Bộ Y tế,
2008)[7]
2.1.2.2. Chất thải lây nhiễm

- Chất thải sắc nhọn (loại A): Là chất thải có thể gây ra các vết cắt hoặc chọc
thủng, có thể nhiễm khuẩn, bao gồm: bơm kim tiêm, đầu sắc nhọn của dây truyền,
lưỡi dao mổ, đinh mổ, cưa, các ống tiêm, mảnh thủy tinh vỡ và các vật sắc nhọn
khác sử dụng trong các hoạt động y tế.
4

- Chất thải lây nhiễm không sắc nhọn (loại B): Là chất thải bị thấm máu,
thấm dịch sinh học của cơ thể và các chất thải phát sinh từ buồng bệnh cách ly.
- Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao (loại C): Là chất thải phát sinh trong các
phòng xét nghiệm như: bệnh phẩm và dụng cụ đựng, dính bệnh phẩm.
- Chất thải giải phẫu (loại D): Bao gồm các mô, cơ quan, bộ phận cơ thể
người: rau thai, bào thai và xác động vật thí nghiệm
2.1.2.3. Chất thải phóng xạ
Tại các cơ sở y tế, chất thải phóng xạ phát sinh từ các hoạt động chuẩn đoán, hóa
trị liệu, và nghiên cứu. Chất thải phóng xạ gồm: dạng rắn, lỏng và khí.
- Chất thải phóng xạ rắn bao gồm: Các vật liệu sử dụng trong các xét
nghiệm, chuẩn đoán, điều trị như ống tiêm, bơm tiêm, kim tiêm, kính bảo hộ, giấy
thấm, gạc sát khuẩn, ống nghiệm, chai lọ đựng chất phóng xạ…
- Chất thải phóng xạ lỏng bao gồm: Dung dịch có chứa chất phóng xạ phát
sinh trong quá trình chuẩn đoán, điều trị như nước tiểu của người bệnh, các chất bài
tiết, nước súc rửa các dụng cụ có chất phóng xạ…
- Chất thải phóng xạ khí bao gồm: Các chất khí thoát ra từ kho chứa chất
phóng xạ…
2.1.2.4. Chất thải hóa học nguy hại
Chất thải hóa học bao gồm các hóa chất có thể không gây nguy hại như
đường, axit béo, axit amin, một số loại muối… và hóa chất nguy hại như
Formaldehit, hóa chất quang học, các dung môi, hóa chất dùng để tiệt khuẩn y tế và
dung dịch làm sạch, khử khuẩn, các hóa chất dùng trong tẩy uế, thanh trùng…
Chất thải hóa học nguy hại gồm:
- Dược phẩm quá hạn, kém phẩm chất không còn khả năng sử dụng

- Formaldehit: Đây là hóa chất thường được sử dụng trong bệnh viện, nó
được sử dụng để làm vệ sinh, khử khuẩn dụng cụ, bảo quản bệnh phẩm hoặc khử
khuẩn các chất thải lỏng nhiễm khuẩn. Nó được sử dụng trong các khoa giải phẫu
bệnh, lọc máu, ướp xác…
- Các chất quang hóa: Các dung dịch dùng để cố định phim trong khoa
Xquang.
- Các dung môi: Các dung môi dùng trong cơ sở y tế gồm các hợp chất của
halogen như metyl clorit, chloroform, các thuốc mê bốc hơi như halothane; các hợp
chất không chứa halogen như xylene, axeton, etyl axetat…
5

- Các chất hoá học hỗn hợp: Bao gồm các dung dịch làm sạch và khử khuẩn
như phenol, dầu mỡ và các dung môi làm vệ sinh…
- Chất gây độc tế bào, gồm: Vỏ các chai thuốc, lọ thuốc, các dụng cụ dính
thuốc gây độc tế bào và các chất tiết từ người bệnh được điều trị bằng hóa trị liệu.
- Chất thải chứa kim loại nặng: Thủy ngân (từ nhiệt kế, huyết áp kế thủy
ngân bị vỡ, chất thải từ hoạt động nha khoa), cadimi (Cd) (từ pin, ắc quy), chì (từ
tấm gỗ bọc chì hoặc vật liệu tráng chì sử dụng trong ngăn tia xạ từ các khoa chẩn
đoán hình ảnh, xạ trị).
2.1.2.5. Các bình chứa có khí áp xuất
Nhóm này bao gồm các bình chứa khí nén có áp suất như bình đựng oxy,
CO
2
, bình gas, bình khí dung, các bình chứa khí sử dụng một lần… Đa số các bình
chứa khí nén này thường dễ nổ, dễ cháy nguy cơ tai nạn cao nếu không được tiêu
hủy đúng cách. (Bộ Y tế, 2007)[6]
2.1.3. Nguồn phát sinh và khối lượng chất thải rắn y tế
2.1.3.1. Nguồn phát sinh chất thải rắn y tế
Xác định nguồn phát sinh chất thải có quan hệ chặt chẽ tới việc quản lý
chung vì trong nhiều trường hợp nếu xử lý ngay ở đầu nguồn hiệu quá sẽ cao hơn.

Căn cứ vào sự phân loại ở trên có thể thấy chất thải bệnh viện gồm 2 phần
chính: Phần không độc hại (chiếm khoảng 85% tổng số chất thải bệnh viện) loại chất
thải này chỉ cần xử lý như những chất thải công cộng và sinh hoạt khác. Phần còn lại
(chiếm 15%) là những chất thải độc hại nguy hiểm, cần có biện pháp xử lý thích hợp.

Hình 2.1: Nguồn phát sinh chất thải y tế bệnh viện
6

2.1.3.2. Khối lượng chất thải rắn y tế phát sinh
Khối lượng rác thải phát sinh trong bệnh viện tuỳ thuộc vào đặc điểm của
bệnh viện (chuyên khoa, số giường bệnh, trình độ công nghệ y tế áp dụng và chất
lượng đánh giá về trình độ sức khoẻ )
Năm 2005, ở Việt Nam tổng lượng chất thải rắn phát sinh là 300 tấn/ngày,
trong đó 40 tấn là CTYTNH và chất thải được xử lý kém. ( Bộ Y tế, 2009)[8]
Theo PGS.TS Nguyễn Huy Nga, Cục trưởng Cục Quản lý Môi trường y tế
cho biết, mỗi ngày các cơ sở y tế trong cả nước thải ra 380 tấn chất thải rắn và
lượng chất thải lỏng lên đến 150.000 m
3
/ngày đêm. (Đông Bích, 2010)[3]
Khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) có tổng số 1.742 cơ sở khám
chữa bệnh với 139 bệnh viện, 140 phòng khám khu vực, 2 bệnh viện và 2 khu phục
hồi chức năng, 1.454 trạm y tế phường xã với tổng số giường bệnh trong toàn khu
vực là 27.668 giường, khối lượng CTRYT từ bệnh viện có quy mô cấp huyện và
bệnh viện đa khoa thải ra môi trường là 41,7 tấn/ngày, trong đó có 8,3 tấn/ngày là
CTRYTNH,
Theo Bảng 2.1 đã cung cấp thông tin về việc phát sinh CTYT tại các bệnh viện
và các khoa thuộc bệnh viện trung ương, tỉnh và quận. Do tổng số giường bệnh tại các
bệnh viện đa khoa, chuyên ngành chiếm tới 150.000 giường bệnh nên lượng chất thải y
tế từ các cơ sở này cũng chiếm tới 70% tổng lượng phát sinh. Khối lượng CTYT mỗi
ngày trong năm 2010 khoảng 380 tấn/ngày, trong đó 45 tấn/ngày là CTYTNH.

Bảng 2.1: Lượng chất thải y tế phát sinh tại các bệnh viện và các khoa trong
bệnh viện tại Việt Nam
Bệnh viện/
khoa
Tổng lượng chất thải y tế phát sinh
(kg/giường/ngày)
Lượng chất thải nguy hại phát sinh
(kg/giường/ngày)
BV
TW
BV cấp
tỉnh
BV cấp
huyện
TB
BV
TW
BV cấp
tỉnh
BV cấp
huyện
TB
Khám bệnh

0.97 0.88 0.73 0.86 0.16 0.14 0.11 0.14
Chăm sóc
đặc biệt
1.08 0.27 1.00 1.11 0.30 0.31 0.18 0.26
Khoa dược 0.64 0.47 0.45 0.52 0.04 0.03 0.02 0.03
Trẻ em 0.50 0.41 0.45 0.45 0.04 0.05 0.02 0.04

Phẫu thuật 1.02 0.87 0.73 0.87 0.26 0.21 0.17 0.21
Phụ sản 0.82 0.95 0.73 0.83 0.21 0.22 0.17 0.20
Khoa mắt/
khoa tai
0.66 0.68 0.34 0.56 0.12 0.10 0.08 0.10
khoa bệnh
học
0.11 0.10 0.08 1.00 0.03 0.03 0.03 0.03
( Nguồn: Bộ Y tế, 2009)
7

2.1.4. Thành phần của chất thải rắn y tế
2.1.4.1. Thành phần vật lý
Thành phần vật lý của chất thải rắn y tế gồm các dạng:
- Đồ bông vải sợi: Gồm bông gạc, băng, quần áo cũ, khăn lau, vải trải…
- Đồ giấy: Hộp đựng dụng cụ, giấy gói, giấy thải từ nhà vệ sinh…
- Đồ thủy tinh: Chai lọ, ống tiêm, bông tiêm, thủy tinh, ống nghiệm,…
- Đồ nhựa, hộp đựng, bơm tiêm, dây truyền máu, túi đựng,…
- Đồ kim loại: Kim tiêm, dao mổ, hộp đựng,…
- Bệnh phẩm, máu mủ dính ở băng gạc,…
- Rác rưởi, lá cây, đất đá,…
2.1.4.2. Thành phần hóa học
Thành phần hóa học của chất thải rắn y tế gồm các dạng:
- Những chất vô cơ, kim loại, bột bó, chai lọ thủy tinh, sỏi đá, hóa chất,
thuốc thử,…
- Những chất hữu cơ: Đồ vải sợi, giấy, phần cơ thể, đồ nhựa,
Nếu phân tích nguyên tố thì thấy gồm những thành phần C, H, O, N, S, Cl và
một phần tro,
Trong đó:
- Thành phần hữu cơ: Phần vật chất có thể bay hơi sau khi được nung ở nhiệt

độ 950
o
C.
- Thành phần vô cơ (tro) là phần tro còn lại sau khi nung rác ở 950
o
C.
(Nguyễn Thị Xuân Thu, 2007)[12]
Theo một số thống kê kết quả điều tra năm 1998 - 1999 của các đơn vị
nghiên cứu. Đặc biệt là dự án hợp tác giữa Bộ Y tế và WHO, thành phần một số rác
thải bệnh viện tại Việt Nam như sau:
Bảng 2.2: Thành phần chất thải rắn bệnh viện ở Việt Nam
Thành phần rác thải bệnh viện Tỷ lệ %
Kim loại, vỏ hộp 0.7
Thuỷ tinh, ống tiêm, chai lọ thuốc, bơm kim tiêm nhựa 3.2
Bông băng, bột bó gãy chân 8.8
Chai, túi nhựa các loại 10.1
Bệnh phẩm 0.6
Rác hữu cơ 52.57
Đất đá và các vật rắn khác 21.03
Giấy các loại 3
(Nguồn: Bộ Y tế, 2006)
8

2.1.5. Một số phương pháp xử lý chất thải rắn y tế
Có nhiều phương pháp có thể áp dụng để xử lý và tiêu hủy chất thải y tế. Mỗi
phương pháp đều có ưu và nhược điểm nhất định. Việc áp dụng các phương pháp
này còn tùy thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện của mỗi quốc gia, địa phương, các cơ
sở y tế.
Mục đích của việc xử lý chất thải rắn y tế là loại bỏ những đặc tính nguy
hiểm như lây nhiễm, truyền bệnh để biến chúng thành rác thải thông thường và có

thể xử lý giống như các loại chất thải thông thường khác.
* Phương pháp khử trùng
Phương pháp này được áp dụng để khử trùng đối với chất thải rắn y tế có
nguy cơ lây nhiễm cao nhằm hạn chế xảy ra tai nạn cho nhân viên thu gom, vận
chuyển và xử lý chất thải rắn trong bệnh viện.
- Khử trùng bằng hóa chất: Clo, Hypoclorite… Đây là phương pháp rẻ tiền,
đơn giản nhưng có nhược điểm là thời gian tiếp xúc ít không tiêu hủy hết vi khuẩn
trong chất thải. Vi khuẩn có khả năng bền vững với hóa chất, nên xử lý không hiệu
quả. Hóa chất bản thân đã nguy hiểm, cần nghiền nhỏ hóa chất thải để giảm thể tích.
- Khử trùng bằng nhiệt ở áp suất cao: Đây là phương pháp đắt tiền, đòi hỏi
chế độ vận hành, bảo dưỡng cao, xử lý kim tiêm khi nghiền nhỏ, làm biến dạng.
Nhược điểm của phương pháp là tạo mùi hôi nên với bệnh viện có lò đốt thì kim
tiêm đốt trực tiếp.
- Khử trùng bằng siêu cao tần: Phương pháp có hiệu quả khử trùng tốt, năng
suất cao. Tuy nhiên, đòi hỏi kỹ thuật cao, thiết bị đắt tiền và yêu cầu có chuyên
môn, là phương pháp chưa phổ biến.
* Phương pháp chôn lấp
Trong hầu hết các bệnh viện huyện chất thải rắn y tế được chôn lấp tại bãi
công cộng hay chôn lấp trong khu đất của một số bệnh viện. Trường hợp chôn lấp
trong bệnh viện, chất thải được chôn vào trong các hố đào và lấp đất lên, nhiều lớp
đất phủ trên quá mỏng không đảm bảo vệ sinh.
Tại các bệnh viện không có lò đốt tại chỗ, bào thai, nhau thai và bộ phận cơ
thể bị cắt bỏ sau phẫu thuật được thu gom để đem chôn trong khu đất bệnh viện
hoặc chôn trong nghĩa trang tại địa phương. Nhiều bệnh viện hiện nay gặp khó khăn
trong việc tìm kiếm diện tích đất để chôn.
9

Vật sắc nhọn cũng được chôn lấp cùng với các chất thải y tế khác tại khu đất
bệnh viện hay tại bãi rác công cộng, dễ gây rủi ro cho nhân viên thu gom, vận
chuyển chất thải và cộng đồng.

Hiện tại, còn một số bệnh viện, chất thải nhiễm khuẩn nhóm A vẫn được trộn
lẫn với chất thải sinh hoạt mà không được xử lý đặc biệt gì trước khi tiêu hủy và
được thải ra bãi rác của huyện, gây ô nhiễm nghiêm trọng cho môi trường của cộng
đồng sống gần bãi rác.
* Thiêu đốt chất thải rắn y tế
Phương pháp thiêu đốt là một kỹ thuật được áp dụng khi một lượng lớn các
chất thải nguy hại cần được thiêu hủy. Phương pháp này đảm bảo khả năng phân
hủy chất thải có hiệu quả cao đối với hầu hết các chất thải hữu cơ và lượng khí thải
sinh ra với lượng nhỏ có thể kiểm soát được.
Đốt chất thải là quá trình oxy hóa chất thải bằng oxy của không khí ở nhiệt
độ cao bằng oxy không khí. Bằng cách đốt chất thải nguy hại ta có thể giảm thể tích
của nó đến 80-90%. Nếu nhiệt độ lò đốt < 800
o
C dioxin và furan sẽ hình thành.
Nhiệt độ lò đốt từ 900-1200
o
C hợp chất PCB là hợp chất hữu cơ chứa Cl sẽ cháy
hết. Sản phẩm cuối cùng của quá trình đốt phải là các chất không nguy hại như
H
2
O, CO
2

Xử lý bằng phương pháp đốt có ý nghĩa quan trọng là làm giảm tới mức nhỏ
nhất chất thải cho khâu xử lý cuối cùng, nếu xử lý công nghệ tiên tiến còn có ý
nghĩa cao bảo vệ môi trường. Đây là phương pháp xử lý rác tốn kém nhất so với
phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh thì chi phí đốt 1 tấn rác cao hơn khoảng 10 lần.
Tuy nhiên, đốt rác y tế bao gồm nhiều chất khác nhau sinh khói độc và dễ sinh
dioxin nếu giải quyết việc xử lý khói không tốt (phần xử lý khói là phần đắt nhất
trong công nghệ đốt rác).

Năng lượng phát sinh có thể tận dụng cho các lò hơi, lò sưởi hoặc các công
nghiệp cần nhiệt và phát điện. Mỗi lò đốt phải được trang bị một hệ thống xử lý khí
thải rất tốn kém nhằm khống chế ô nhiễm không khí do quá trình đốt có thể gây ra.
Công nghệ đốt có ưu điểm:
- Loại trừ các chất độc hại có thể gây bệnh ung thư (carcinogens), một số
chất thải có các mầm bệnh mà chúng có thể gây ra các bệnh truyền nhiễm, các chất
thải có hoạt tính sinh học có khả năng gây ra những tác động bất lợi đến các quá
trình xử lý khác.
10

- Công nghệ này cho phép xử lý được toàn bộ chất thải mà không cần nhiều
diện tích đất sử dụng làm bãi chôn lấp rác.
- Một lượng lớn nhiệt lượng sinh ra có thể sử dụng cho các mục đích khác.
Nhược điểm chủ yếu của phương pháp này là:
- Vận hành dây chuyền phức tạp, đòi hỏi năng lực kỹ thuật và tay nghề cao.
- Giá thành đầu tư lớn, chi phí tiêu hao năng lượng và chi phí xử lý cao.
Những tiềm năng tác động đến con người và môi trường có thể xảy ra.
- Một số chất ô nhiễm không khí có thể hình thành trong quá trình đốt như: HCl,
SO
2
, CO, NO
x
, kim loại nặng và bụi có thể gây ra các tác động bất lợi.
* Xử lý bằng công nghệ sinh học
Hình thức xử lý nào đang dần phát triển. Quy trình xử lý có việc sử dụng
chất vi sinh để tiêu diệt vi trùng. Về cơ bản quy trình xử lý này khá giống với việc xử
lý bằng hóa chất vì tận dụng các tính năng của vi sinh (hóa chất) để tiêu diệt vi trùng.
* Xử lý bằng chất phóng xạ
Hình thức xử lý này chỉ phù hợp với một số loại rác thải đặc biệt. Nguyên lý
là sử dụng chất phóng xạ nhằm tiêu diệt vi khuẩn, mầm bệnh. Phương pháp này đòi

hỏi việc xử lý phải được cách ly để tránh bị nhiễm phóng xạ. Việc sử dụng phương
pháp này cần phải được nghiên cứu kỹ càng để đảm bảo an toàn cho người sử dụng.
(Bộ KHCN&MT, Cục môi trường, 1997)[4]
2.1.6. Tác động của chất thải rắn y tế tới môi trường và sức khỏe cộng đồng
2.1.6.1. Đối với môi trường
* Đối với môi trường đất
Khi chất thải y tế được xử lý giai đoạn trước khi thải bỏ vào môi trường
không đúng cách thì các vi sinh vật gây bệnh, hóa chất độc hại, các vi khuẩn có thể
ngấm vào môi trường đất gây nhiễm độc cho môi trường sinh thái, các tầng sâu
trong đất, sinh vật kém phát triển… làm cho việc khắc phục hậu quả về sau lại gặp
khó khăn.
* Đối với môi trường không khí
Chất thải bệnh viện từ khi phát sinh đến khâu xử lý cuối cùng đều gây ra
những tác động xấu đến môi trường không khí. Khi phân loại tại Nguồn, thu gom,
vận chuyển chúng phát tán bụi rác, bào tử vi sinh vật gây bệnh, hơi dung môi, hóa
chất vào không khí. Ở khâu xử lý (đốt, chôn lấp) phát sinh ra các khí độc hại, NO
x
,
đioxin, furan HX… từ lò đốt và CH
4
, NH
3
, H
2
S… từ bãi chôn lấp. Các khí này nếu
11

không được thu hồi và xử lý sẽ gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của cộng đồng dân
cư xung quanh.
* Đối với môi trường nước

Đặc trưng của chất thải bệnh viện là bị nhiễm BOD, COD, kim loại nặng và
các vi khuẩn gây bệnh Do đó nếu không được quản lý nghiêm ngặt, khi mưa nước
chảy tràn sẽ cuốn nước thải bệnh viện đi vào nguồn nước mặt như: Ao, hồ, sông,
ngòi Các chất này sẽ gây ô nhiễm Nguồn nước mặt, một phần ngấm xuống đất
mang theo các chất ô nhiễm, vi khuẩn gây bệnh vào nguồn nước ngầm gây ảnh
hưởng xấu đến chất lượng nguồn nước. Gây ra các bệnh truyền nhiễm đường ruột
như: Thương hàn, tả, Tulare, Brucella (Bùi Thanh Tâm, 2002)[11]
Nước thải bệnh viện chứa nhiều hóa chất độc hại, phóng xạ, tác nhân gây
bệnh các khả lây nhiễm cao như Samonella, coliform, tụ cầu, liên cầu… Nếu không
được xử lý trước khi thải bỏ vào hệ thống thoát nước chung của thành phố thì có thể
gây ra tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước. Khi chôn lấp chất thải y tế
không đúng kỹ thuật và không hợp vệ sinh. Đặc biệt là chất thải y tế được chôn lấp
chung với chất thải sinh hoạt có thể gây ô nhiễm nguồn nước ngầm.
2.1.6.2. Đối với sức khỏe cộng đồng
* Đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp chất thải rắn y tế
Tất cả các cá nhân tiếp xúc với chất thải y tế nguy hại là những người có
nguy cơ tiềm tàng, bao gồm những người làm việc trong các cơ sở y tế, những
người ở ngoài các cơ sở y tế làm nhiệm vụ vận chuyển các chất thải y tế và những
người trong cộng đồng bị phôi nhiễm với chất thải do hậu quả của sự sai sót trong
khâu quản lý chất thải. Dưới đây là những nhóm chính có nguy cơ cao:
- Bác sĩ, y tá, hộ lý và các nhân viên hành chính của bệnh viện.
- Bệnh nhân điều trị nội trú hoặc ngoại trú.
- Khách tới thăm hoặc người nhà bệnh nhân.
- Những công nhân làm việc trong các dịch vụ hỗ trợ phục vụ cho các cơ sở khám
chữa bệnh và điều trị như: Giặt là, lao công, vận chuyển bệnh nhân…
- Những người làm việc trong các cơ sở xử lý chất thải (tại các bãi đổ rác
thải, các lò đốt rác) và những người bới rác, thu gom rác…
* Tác động từ chất thải rắn y tế
+ Từ chất thải truyền nhiễm và các vật sắc nhọn
Các vật thể trong thành phần của CTRYT có thể chứa đựng một lượng rất lớn

bất kỳ tác nhân vi sinh vật gây bệnh truyền nhiễm nào. Một mối nguy cơ rất lớn hiện
12

nay đó là virus gây hội chứng suy giảm miễn dịch (HIV) cũng như các virus lây qua
đường máu như viêm gan B, C có thể lan truyền ra cộng đồng qua con đường rác thải
y tế. Những virus này thường lan truyền qua vết tiêm hoặc các tổn thương do kim
tiêm có nhiễm máu người bệnh. Các tác nhân gây bệnh này có thể xâm nhập vào cơ
thể người thông qua các cách thức:
- Qua da (qua một vết thủng, trầy xước hoặc vết cắt trên da).
- Qua các niêm mạc (màng nhầy).
- Qua đường hô hấp (do xông, hít phải).
- Qua đường tiêu hoá
Theo Bộ Y tế năm 2006 thống kê, một số bệnh có nguy cơ lây nhiễm từ chất
thải y tế được thể hiện ở bảng 2.3 như sau:
Bảng 2.3. Một số loại bệnh có nguy cơ lây nhiễm từ chất thải y tế
Các dạng
nhiễm khuẩn
Ví dụ về tác nhân gây bệnh Chất truyền
Nhiễm khuẩn đường
tiêu hoá
Vi khuẩn đường tiêu hoá:
Salmonella, shigella, trứng giun
Phân và chất nôn
Nhiễm khuẩn hô hấp Herpes Chất tiết ở mắt
Nhiễm khuẩn da Phế cầu khuẩn Mủ
Bệnh than Trực khuẩn than Chất tiết qua da
AIDS HIV Máu, dịch tiết sinh dục

Nhiễm khuẩn huyết Tụ cầu Máu
Viêm gan A Virus viêm gan A Phân

Viêm gan B và C Virus viêm gan B và C Máu và dịch thể
(Nguồn: Bộ Y tế, 2006)
+ Ảnh hưởng của hoá chất thải và dược phẩm
Nhiều loại hoá chất và dược phẩm được sử dụng trong các cơ sở y tế là những
mối nguy cơ đe dọa sức khoẻ con người (các độc dược, các chất gây độc gen, chất ăn
mòn, chất dễ cháy, các chất gây phản ứng, gây nổ…). Các loại chất này thường
chiếm số lượng nhỏ trong chất thải y tế, với số lượng lớn hơn có thể tìm thấy khi
chúng quá hạn, dư thừa hoặc hết tác dụng cần vứt bỏ. Những chất này có thể gây
nhiễm độc khi tiếp xúc cấp tính và mãn tính, gây ra các tổn thương như bỏng, ngộ
độc. Sự nhiễm độc này có thể là kết quả của quá trình hấp thụ hóa chất hoặc dược
phẩm qua da, qua niêm mạc, qua đường hô hấp hoặc đường tiêu hóa. Việc tiếp xúc
13

với các chất dễ cháy, chất ăn mòn, các hóa chất gây phản ứng (formaldehyd và các
chất dễ bay hơi khác) có thể gây nên những tổn thương tới da, mắt hoặc niêm mạc
đường hô hấp. Các tổn thương phổ biến hay gặp nhất là các vết bỏng.
+ Chất thải phóng xạ
Loại bệnh gây ra do chất thải phóng xạ được xác định bởi loại chất thải và
phạm vi tiếp xúc. Nó có thể là đau đầu, hoa mắt chóng mặt, buồn nôn và nhiều bất
thường khác. Bởi chất thải phóng xạ, cũng như loại chất thải dược phẩm, là một loại
độc hại gen, nó cũng có thể ảnh hưởng đến các yếu tố di truyền. Tiếp xúc với các
nguồn phóng xạ có hoạt tính cao, ví dụ như các nguồn phóng xạ của các phương
tiện chẩn đoán (máy Xquang, máy chụp cắt lớp…), có thể gây ra một loạt các tổn
thương (chẳng hạn như phá huỷ các mô, từ đó đòi hỏi phải dẫn đến việc xử lý loại
bỏ hoặc cắt cụt các phần cơ thể).(BộY tế, 2006)[5]
2.2. Cơ sở pháp lý
- Luật Bảo vệ môi trường 2005 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2006.
- Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 6706 - 2000 về chất thải nguy hại.

- Quyết định số 155/1999/QĐ-TTg ngày 16/07/1999 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành Quy chế quản lý chất thải nguy hại.
- Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến
lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
- Quyết định số 33/2006/QĐ-BYT ngày 24 tháng 10 năm 2006 của Bộ
trưởng Bộ Y tế về thuốc phóng xạ và hợp chất đánh dấu dùng trong chẩn đoán và
điều trị.
- Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày 30 tháng 11 năm 2007 của Bộ
trưởng Bộ Y tế về việc ban hành quy chế quản lý chất thải y tế.
- QCVN 02:2008/BTNMT quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải lò đốt
chất thải rắn y tế.
2.3. Tình hình quản lý chất thải rắn y tế trên thế giới và Việt Nam
2.3.1. Hiện trạng quản lý chất thải rắn y tế trên thế giới
Trên thế giới, quản lý chất thải rắn bệnh viện được nhiều quốc gia quan tâm
và tiến hành một cách triệt để từ rất lâu. Về quản lý, một loạt những chính sách quy
định, đã được ban hành nhằm kiểm soát chặt chẽ loại chất thải này. Các hiệp ước
quốc tế, các nguyên tắc, pháp luật và quy định về chất thải nguy hại, trong đó có cả
14

chất thải bệnh viện cũng đã được công nhận và thực hiện trên hầu hết các quốc gia
trên thế giới.
Công ước Basel: Được ký kết bởi hơn 100 quốc gia, quy định về sự vận
chuyển các chất độc hại qua biên giới, đồng thời áp dụng, cả với chất thải y tế.
Công ước này đưa ra nguyên tắc chỉ vận chuyển hợp pháp chất thải nguy hại từ các
quốc gia không có điều kiện và công nghệ thích hợp sang các quốc gia có điều kiện
vật chất kỹ thuật để xử lý an toàn một số chất thải đặc biệt.
Nguyên tắc pollutor pay: Nêu rõ mọi người, mọi cơ quan làm phát sinh chất
thải phải chụi trách nhiệm về pháp luật và tài chính trong việc đảm bảo an toàn và
giữ cho môi trường trong sạch.
Nguyên tắc proximitry: Quy định rằng việc xử lý chất thải nguy hại cần được

tiến hành ngay tại nơi phát sinh càng sớm càng tốt. Tránh tình trạng chất thải bị lưu
giữ trong thời gian dài gây ô nhiễm môi trường.
Xử lý chất thải bệnh viện, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế và khoa học công
nghệ, nhiều nước trên thế giới đã có những biện pháp khác nhau để xử lý loại chất
thải nguy hại này.(Trần Mỹ Vy, 2011)[14]
* Các nước phát triển:
Hiện tại trên thế giới ở hầu hết các quốc gia phát triển, trong các bệnh viện,
cơ sở chăm sóc sức khỏe, hay những công ty đặc biệt xử lý phế thải đều có thiết lập
hệ thống xử lý loại phế thải y tế. Đó là các loại lò đốt ở nhiệt độ cao tùy theo loại
phế thải từ 1000
o
C đến trên 4000
o
C. Tuy nhiên phương pháp này hiện nay vẫn còn
đang tranh cãi về việc xử lý khí bụi sau khi đốt đã được thải hồi vào không khí.
Các phế thải y tế trong khi đốt, thải hồi vào không khí có nhiều hạt bụi li ti
và các hóa chất độc hại phát sinh trong quá trình thiêu đốt như axit clohidric,
đioxin/furan, và một số kim loại độc hại như thủy ngân, chì hoặc asen, cadmi. Do
đó, tại Hoa kỳ vào năm 1996, đã bắt đầu có các điều luật về khí thải của lò đốt và
yêu cầu khí thải phải được giảm thiểu bằng hệ thống lọc hóa học và cơ học tùy theo
loại phế thải.
Ngoài ra còn có phương pháp khác để giải quyết vấn đề này đã được các
quốc gia lưu tâm đến vì phương pháp đốt đã gây ra nhiều bất lợi do lượng khí độc
hại phát sinh thải vào không khí, do đó các nhà khoa học hiện đang áp dụng một
phương pháp mới. Đó là phương pháp nghiền nát phế thải và xử lý dưới nhiệt độ và
áp suất cao để tránh việc phóng thích khí thải.
15

Dựa theo phương pháp này rác thải y tế nguy hại được chuyển qua một máy
nghiền nát. Phế thải đã được nghiền xong sẽ được chuyển qua một phòng hơi có

nhiệt độ 138
o
C và áp suất 3,8 bar. Ở điều kiện nhiệt độ và áp suất trên là điều kiện
tối ưu cho hơi nước bão hòa. Phế thải được xử lý trong vòng 40 – 60 phút. Sau cùng
phế thải rắn đã được xử lý sẽ được chuyển đến các bãi rác thông thường vì đã đạt
được tiêu chuẩn tiệt trùng. Phương pháp này còn có ưu điểm là làm giảm được khối
lượng phế thải vì được nghiền nát, chi phí ít tốn kém hơn lò đốt, cũng như không
tạo ra khí thải vào không khí.
* Các nước đang phát triển:
Đối với các nước đang phát triển, việc quản lý môi trường nói chung vẫn còn
rất lơ là, nhất là đối với phế thải bệnh viện. Tuy nhiên trong khoảng 5 năm trở lại
đây, các quốc gia như Ấn Độ, Trung Quốc đã bắt đầu chú ý đến việc bảo vệ môi
trường, và có nhiều tiến bộ trong việc xây dựng các lò đốt ở bệnh viện. Đặc biệt ở
Ấn Độ từ năm 1998, chính phủ đã ban hành luật về “Phế thải y tế: Lập thủ tục và
Quản lý”. Trong bộ luật này có ghi rõ rang phương pháp tiếp nhận phế thải, phân
loại phế thải, cùng việc xử lý và di dời đến các bãi rác… Do đó, vấn đề phế thải y tế
độc hại của quốc gia này đã được cải thiện rất nhiều.
2.3.2. Hiện trang quản lý chất thải rắn y tế tại Việt Nam
* Tình hình chung
Theo thống kê của Tổng cục Môi trường, tính đến năm 2012, cả nước hiện
có hơn 1.087 bệnh viện với tổng số hơn 140.000 giường bệnh. Tổng lượng chất thải
rắn phát sinh từ các sơ sở y tế vào năm 2012 khoảng hơn 500 tấn/ngày, trong đó có
60-70 tấn/ngày là chất thải rắn y tế nguy hại phải xử lý. Và cả nước chỉ có hơn 200
chiếc lò đốt chuyên dụng (nhiệt độ cao và có 2 buồng) nhưng chỉ có 80 lò đột 2
buồng đạt tiêu chuẩn môi trường, với công suất từ 300 – 450 kg/ngày, trong đó có
02 xí nghiệp đốt rác tập trung tại Hà Nội và TP. HCM, còn lại là đốt rác cỡ trung
bình và nhỏ.
Trong khi đó, vấn đề môi trường y tế chưa được các địa phương quan tâm
đúng mức. Theo kết quả khảo sát của Cục Quản lý Môi trường y tế - Bộ Y tế vào năm
2012 hiện mới có khoảng 44% các bệnh viện có hệ thống xử lý chất thải y tế nhưng

nhiều nơi đã rơi vào tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Đáng nói, ngay ở các bệnh
viện tuyến TW vẫn còn tới 25% cơ sở chưa có hệ thống xử lý chất thải y tế, bệnh viện
tuyến tỉnh là gần 50%, còn bệnh viện tuyến huyện lên tới 60%, có tới 60% bệnh viện
16

còn xử lý chất thải rắn bằng lò đốt thủ công hoặc chôn lấp và trên 62% bệnh viện
chưa có hệ thống chưa có hệ thống xử lý chất thải lỏng tại các bệnh viện.
Đa số các bệnh viện tuyến huyện các tỉnh miền núi, vùng đồng bằng đều
chưa có cơ sở hạ tầng để xử lý chất thải y tế nguy hại, vì vậy người ta chủ yếu tự
thiêu đốt bằng các lò thủ công hoặc chôn lấp trong khu đất của bệnh viện.
Qua thực tế kiểm tra, Bộ Y tế đã chỉ ra 6 bất cập đang tồn tại tại các bệnh
viện trong vấn đề quả lý chất thải đó là:
- Việc phân loại chất thải rắn y tế còn chưa đúng quy định
- Phương tiện thu gom như túi, thùng đựng chất thải còn thiếu và chưa đồng
bộ, hầu hết chưa đạt tiêu chuẩn
- Xử lý và tiêu hủy gặp nhiều khó khăn
- Thiếu các cơ sở tái chế chất thải
- Thiếu nguồn kinh phí đầu tư xây dựng và vận hành hệ thống xử lý chất thải
rắn và nước thải bệnh viện
- Vấn đề quản lý chất thải y tế thông thường có thể tái chế còn bất cập: Một
số bệnh viện lơi lỏng công tác quản lý giám sát để nhân viên hợp đồng cung cấp rác
thải y tế cho các cơ sở tái chế tư nhân chưa qua xử lý.
Phần lớn các bệnh viện ở Việt Nam được xây dựng trong giai đoạn đất nước
còn chưa phát triển, nhận thức về vấn đề môi trường chưa cao nên các bệnh viện
đều không có hệ thống xử lý chất thải nghiêm túc, đúng quy trình kỹ thuật. Cơ sở
vật chất kỹ thuật để xử lý triệt để các loại chất thải độc hại còn bị thiếu thốn. Bên
cạnh đó, công tác quản lý còn lỏng lẻo và chưa có quy trình xử lý triệt để.
Mặt khác, số lượng bệnh viện và cơ sở khám chữa bệnh rất lớn, lại thiếu vốn,
nên số lượng bệnh viện đạt tiêu chuẩn môi trường còn rất ít. Bảo vệ môi trường tại
các bệnh viện không chỉ là vấn đề của riêng các bệnh viện mà cần có sự quan tâm

của Chính phủ và toàn xã hội.
Trong những năm qua các cơ quan quản lý môi trường đã tổ chức nhiều đợt
tuyên truyền, vận động cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn, nhân viên y tế, bệnh nhân
và thân nhân để thấy rõ trách nhiệm trong vấn đề thu gom, phân loại và xử lý sơ bộ,
giảm thiểu độc hại gây ra do chất thải y tế. Tuy nhiên, nhận thức của cộng đồng về
những nguy cơ tiềm ẩn trong chất thải y tế vẫn còn yếu.
Chất thải y tế được các Công ty Môi trường Đô thị thu gom, xử lý hoặc được
xử lý bằng các lò đốt thô sơ, không đạt tiêu chuẩn vệ sinh môi trường rồi tập trung
chôn lấp tại các nghĩa trang, trong các khuôn viên bệnh viện. Rất nhiều loại chất
17

thải lây nhiễm, độc hại được xả trực tiếp ra bãi rác mà không qua bất kỳ một khâu
xử lý cần thiết nào.
Thấy rõ được yêu cầu cấp thiết phải hoàn thiện công tác thu gom và quản lý
chất thải y tế tại các cơ sở khám chữa bệnh của ngành, năm 1998 Bộ Y tế đã thành
lập ban chỉ đạo xử lý chất thải bệnh viện với nhiệm vụ giúp Bộ trưởng trong công
tác chỉ đạo, xây dựng quy hoạch hệ thống xử lý chất thải bệnh viện trong phạm vi
toàn quốc.
Trên cơ sở đó, ngày 27/08/1999 Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành “Quy chế
quản lý chất thải y tế” (sau được điều chỉnh lại ngày 30 tháng 11 năm 2007 của Bộ
trưởng Bộ Y tế về việc ban hành quy chế quản lý chất thải y tế), đến năm 2002 Bộ
Trưởng Bộ Y tế ban hành tiếp “Quy chế bảo vệ môi trường tại các cơ sở y tế”.
Theo niên giám thống kê năm 2007, ngành y tế cả nước có 13.438 cơ sở
khám chữa bệnh với 136.542 giường bệnh, trong đó 956 bệnh viện từ tuyến huyện
trở lên, khối y tế tư nhân có 1.631 cơsở y tế từ phòng khám tới bệnh viện tư hoạt
động. Số lượng và mạng lưới y tế như vậy là lớn so với các nước trong khu vực,
song vấn đề đảm bảo vệ sinh môi trường, xử lý chất thải tại các cơ sở từ trung
ương tới địa phương còn quá yếu, hầu hết chưa có hệ thống xử lý chất thải, một
vài nơi tuy có hoạt động nhưng chưa đạt yêu cầu kỹ thuật.
Bảng 2.4: Khối lượng chất thải rắn y tế nguy hại ở các bệnh viện

của một số tỉnh thành phố
Tỉnh, Thành phố
Chất thải YTNH
( T/năm)
Tỉnh, Thành phố
Chất thải YTNH
( T/năm)
Hải Phòng 547 TP. Hồ Chí Minh 4730
Phú Thọ 70 Đồng Nai 180
Cần Thơ 110 Bình Dương 368
Hà Nội 410 Bà Rịa – Vũng Tàu 288
Quảng Ninh 190 Thái Nguyên 215
Hưng Yên 73 Hải Dương 132
(Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trườngcủa các tỉnh thành trên cả nước, 2003)
+ Quản lý chất thải rắn
92,5% số bệnh viện có thu gom rác thường kỳ, 14% số bệnh viện có phân
loại rác y tế để xử lý. Tuy nhiên phân loại rác từ khoa phòng khám và điều trị bệnh
nhân chưa trở thành phổ biến.

×