Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Tìm hiểu thực trạng môi trường và đề xuất giải pháp khắc phục ở làng nghề miến dong Việt Cường xã Hóa Thượng huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.92 KB, 49 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




ĐINH PHÚ NAM

Tên đề tài:

TÌM HIỂU THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI
PHÁP KHẮC PHỤC Ở LÀNG NGHỀ MIẾN DONG VIỆT CƯỜNG


XÃ HÓA THƯỢNG, HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN”



KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khoa học Môi trường
Khoa : Môi Trường
Khoá học : 2010 – 2014

Giảng viên hướng dẫn: Th.S Nguyễn Ðình Thi
Khoa Môi trường – Trường Đại học Nông Lâm





THÁI NGUYÊN - 2014

LỜI CẢM ƠN
Được sự nhất trí của Khoa Tài nguyên và Môi trường, Trường Đại học
Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên, sự hướng dẫn của thầy giáo Th.S Nguyễn Đình

Thi tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:“ Tìm hiểu thực trạng môi trường và đề xuất
giải pháp khắc phục ở làng nghề miến dong Việt Cường xã Hóa Thượng
huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên.”.
Để đạt được kết quả như ngày hôm nay, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ,
dạy bảo tận tình của các thầy cô giáo trong Ban Giám hiệu nhà trường, Ban Chủ
nhiệm Khoa Môi trường cùng các thầy cô giáo. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn
thầy giáo Th.S Nguyễn Đình Thi đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá
trình thực hiện đề tài tốt nghiệp của em.
Qua thời gian thực tập tại UBND xã Hóa Thượng em đã rút ra được nhiều
kinh nghiệm thực tế mà khi ngồi trên ghế nhà trường em chưa được biết đến. Em
xin chân thành cảm ơn UBND xã cùng các Ban ngành địa phương tại địa điểm
thực tập đã tạo điều kiện giúp đỡ, chỉ bảo cho em suốt quá trình thực tập tốt

nghiệp.
Do thời gian thực tập ngắn, em còn hạn chế về kiến thức cũng như kinh
nghiệm thực tế nên khoá luận không tránh khỏi những sai sót. Kính mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để bản báo cáo khoá luận tốt
nghiệp của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!





Thái Nguyên, tháng 05năm 2014


Sinh viên
Đinh Phú Nam


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Các từ viết tắt Diễn giải nội dung
BOD Nhu cầu oxy sinh hóa
KH & CNMT
Khoa Học và Công Nghệ Môi Trường
BTNMT Bộ Tài nguyên Môi trường

COD Nhu cầu oxy hóa học
TTCN Tiểu Thủ Công Nghiệp
CNH-HĐH Công Nghiệp Hóa-Hiện Đại Hóa
NSTP Nông Sản Thực Phẩm
KHCN&MT Khoa Học Công Nghệ và Môi Trường
QCVN Quy chuẩn Việt Nam
SXCN Sản Xuất Công Nghiệp
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
LTTP&VLXD
Lương Thực Thực Phẩm và Vật Liệu
Xây Dựng
PTSXTTCN

Phương Thức Sản Xuất Tiểu Thủ Công
Nghiệp
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
SXCN Sản Xuất Công Nghiệp





PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề

Trong sự nghiệp xây dựng Nông thôn mới hiện nay, sự phát triển làng
nghề đã có những đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế nông thôn. Nó đã
giải quyết việc làm cho hơn 11 triệu lao động lúc nông nhàn, đóng góp cho xuất
khẩu 600 triệu USD. Với tốc độ phát triển 8%/ năm tính theo giá trị đầu ra, sự
phát triển làng nghề đã nâng cao thu nhập của người dân nông thôn gấp 3 - 4 lần
so với hoạt động sản xuất nông nghiệp, đồng thời góp phần cải thiện cơ sở hạ
tầng nông thôn. Các làng nghề nông thôn đóng một vai trò quan trọng trong lịch
sử phát triển Việt Nam. Phần lớn các làng nghề đã hình thành lâu đời có giá trị
văn hóa lịch sử của địa phương. Trong khu vực nông thôn các hoạt động làng
nghề đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo
đời sống nhân dân, làm tăng quan hệ làng xóm láng giềng, góp phần đảm bảo an
ninh trật tự nông thôn. Ngoài ra các sản phẩm làng nghề cũng góp phần truyền

bá giá trị văn hóa, lịch sử của Việt Nam ra nước ngoài.
Tuy nhiên bên cạnh mặt tích cực kể trên thì các làng nghề nước ta hiện
nay đang phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Theo kết
quả phân tích của Viện KH & CNMT Trường Đại học Bách khoa Hà Nội năm
2002 thì 100% mẫu nước thải ở các làng nghề đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép,
nước mặt, nước ngầm đều có dấu hiệu ô nhiễm, ở các làng nghề chế biến nông
sản, dệt nhuộm nước thải cống chung từ khu vực sản xuất chứa hàm lượng COD
rất cao có khi lên đến 2003 mg/l vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 3 - 4 lần, ở các
làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ, sơn mài ước tính tải lượng ô
nhiễm không khí do đốt than để nung gốm sứ lên tới hàng triệu m
3
khí độc. Sống

trong điều kiện môi trường như vậy, người dân ở các làng nghề phải đối mặt với
những căn bệnh mang tính nghề nghiệp, sức khoẻ bị ảnh hưởng. ở làng nghề
giấy Phong Khê (Bắc Ninh) có 30% dân số bị mắc bệnh về da liễu, hô hấp và

đường ruột. Tại làng nghề Bát Tràng qua khảo sát 223 người dân thì có 76 người
mắc bệnh đường hô hấp, 23 người bị lao. Còn tại làng nghề tái chế kim loại tỷ lệ
người mắc bệnh hiểm nghèo như ung thư, dị tật bẩm sinh tương đối cao.
Trong cơ cấu làng nghề nói chung, làng nghề miến dong là 1 trong những
làng nghề có vị trí quan trọng. Hoạt động của các làng nghề miến dong tạo ra giá
trị về mặt kinh tế, xã hội . Sự đổi mới trong chính sách kinh tế xã hội của đất
nước đã tạo điều kiện cho nhiều làng nghề miến dong có cơ hội phát triển, mở
rộng sản xuất, mở rộng thị trường trong và ngoài nước.

Làng nghề với những hoạt động phát triển đã gây ra tác động tích cực và
tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội , môi trường và mang đặc thù đa dạng, các
loại chất thải đặc biệt là nước thải gây ô nhiễm nặng nề trong một số khu vực.
Đối với nước thải từ các cơ sở miến dong thông thường còn chứa nhiều hóa chất
còn lại trong đó. Vì vậy nước thải có pH, COD, TS, SS, BOD
5
, độ màu cao đến
rất cao.
Làng nghề miến dong Việt Cường xã Hóa Thượng huyện Đồng Hỷ tỉnh
Thái Nguyên là một làng nghề miến dong điển hình về xây dựng nông thôn mới
tỉnh Thái Nguyên. Hiện nay các cơ sở miến dong ở Việt Cường đã được tập
trung lại. Tuy nhiên hệ thống hạ tầng kỹ thuật và xử lí ô nhiễm môi trường ở đây

còn rất lạc hậu. Hàng ngày các cơ sở nghiền bột xả ra môi trường khoảng 900 m
3

nước thải với hàm lượng COD lên đến hàng trăm mg/l. Các loại hóa chất tẩy
trắng còn lại trong nước thải đã gây ô nhiễm trầm trọng cho môi trường nước
trong khu vực xóm Việt Cường. của xã Hóa Thượng. Ô nhiễm môi trường đã
gây tác động tiêu cực rõ rệt đến sức khỏe cộng đồng và ảnh hưởng xấu đến điều
kiện xã hội của xóm .
Trước thực trạng bức xúc về vấn đề môi trường của làng nghề miến dong
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Tìm hiểu thực trạng môi trường và đề xuất giải
pháp khắc phục ở làng nghề miến dong Việt Cường xã Hóa Thượng huyện
Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên.



1.2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng môi trường đất, nước, không khí ở làng nghề miến
dong Việt Cường và xây dựng giải pháp quy hoạch môi trường làng nghề để cải
thiện môi trường góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Điều tra, đánh giá hiện trạng môi trường làng nghề miến dong Việt Cường
xã Hóa Thượng.
Xây dựng giảI pháp quy hoạch môi trường làng nghề miến dong Việt
Cường.
1.4. Mục tiêu cụ thể

- Tìm hiểu hiện trạng môi trường làng nghề miến dong Việt Cường
- Đánh giá chất lượng môi trường làng nghề sản xuất miến dong Việt
Cường
- Đưa ra phương hướng mục tiêu đề xuất quy hoạch môi trường làng nghề
miến dong Việt Cường
1.5. Yêu cầu của đề tài
- Yêu cầu số liệu thu thập phải chính xác, khách quan, trung thực.
- Các kiến nghị đưa ra phải phù hợp với tình hình phát triển tại địa phương
và có tính khả thi cao.
1.6. Ý nghĩa của đề tài
- Vận dụng và phát huy kiến thức lí thuyết đã học vào thực tiễn.
- Nâng cao năng lực, rèn luyện kỹ năng và rút kinh nghiệm thực tế phục

vụ cho công tác sau này.


PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Quy hoạch môi trường
2.1.1. Khái niệm và tiêu chí làng nghề
“Làng nghề” là các làng nông thôn Việt Nam có ngành nghề tiểu thủ công,
phi nông nghiệp chiến ưu thế về số hộ, số lao động và thu nhập so với nghề
nông. Có nhiều hình thức làng nghề: Làng một nghề làng nhiều nghề, làng nghề
truyền thống, làng nghề mới.

Có nhiều ý kiến khác nhau nhưng nói chung đều thống nhất một số điểm
chủ yếu sau [2]:
- Giá trị sản xuất và thu nhập từ nghề phi nông nghiệp ở làng nghề đạt trên
50% so với tổng giá trị sản xuất và thu nhập chung của làng nghề trong năm.
- Số hộ và số lao động tham gia thường xuyên hoặc không thường xuyên,
trực tiếp hoặc gián tiếp đối với nghề phi nông nghiệp ở làng ít nhất từ 50% so
với tổng số hộ và lao động ở làng nghề.
- Sản phẩm phi nông nghiệp do làng nghề sản xuất mang tính đặc thù của
làng và do người làng tham gia.
2.1.2 Đặc điểm chung của làng nghề
Mỗi làng nghề tuy có sự khác nhau về quy mô sản xuất, quy trình công
nghệ, tính chất sản phẩm nhưng đều có chung một số đặc điểm sau:

-Quy mô sản xuất nghề nhỏ (gia đình, thôn, xóm), trình độ thủ công, thiết
bị chắp vá, lạc hậu, cơ sở sản xuất xen lẫn trong khu dân cư.
- Lực lượng lao động không phân biệt tuổi tác, giới tính, phần lớn có quan
hệ gia đình dòng họ, được đào tạo theo kiểu kinh nghiệm “cha truyền con nối”.
- Phát triển không theo quy hoạch, không ổn định, có tính thời vụ, thăng trầm
phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất, nhu cầu thị trường trong và ngoài nước.
- Các làng nghề từ Bắc đến Nam có nhiều tính chất tương đồng về nghề, về
sản phẩm, tính văn hoá nghệ thuật do hiện tượng di dân, di nghề và sự bành
trướng tự nhiên của hiện tượng kinh tế xã hội làng nghề.[1]

2.1.3. Phân loại làng nghề
Theo Đặng Kim Chi, viện KH&CNMT, ĐHBK, Hà Nội có nhiều cách

khác nhau để phân loại các làng nghề,theo ngành sản xuất và loại hình sản xuất,
thì hiện nay làng nghề nước ta có thể phân thành 6 ngành chính như sau:
- Ươm tơ, dệt vải và may đồ da
- Chế biến lương thực thực phẩm, dược liệu
- Tái chế phế liệu (giấy, nhựa, kim loại…)
- Thủ công mỹ nghệ, thêu ren.
- Vật liệu xây dựng, khai thác và chế tác đá
- Nghề khác. [1]
2.1.4. Vai trò của hoạt động sản xuất tại các làng nghề đối với phát triển
kinh tế - xã hội
Ngày nay, trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước nói chung, khu vực
nông thôn nói riêng, các làng nghề có tác dụng rất lớn đối với sự chuyển đổi cơ

cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Trong nông thôn Việt Nam, số hộ, cơ sở ngành nghề nông thôn chiếm
11,29%. Sự phát triển của các làng nghề gắn liền với sự hình thành và phát triển
của cơ chế thị trường có sự định hướng của Nhà nước, biểu hiện ở sự đa dạng
của cơ cấu ngành nghề và cơ cấu sản phẩm.
Có hơn 90% sản phẩm của ngành nghề nông thôn tiêu thụ ở trong nước,
sản phẩm tham gia xuất khẩu chủ yếu là hàng thủ công mỹ nghệ, hiện nay đã có
mặt ở 100 nước. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và đồ gia dụng
năm 2000 ước đạt khoảng 300 triệu USD, năm 2006 ước đạt khoảng 600 triệu
USD.
Hiện nay, trong nông thôn có khoảng 11 triệu lao động ngành nghề phi
nông nghiệp, chiếm 30,45% lực lượng lao động nông thôn. Các ngành nghề nông

thôn phát triển đã tạo thêm việc làm mới, thu hút thêm lao động. Do đó ngành

nghề nông thôn được coi là động lực trực tiếp giải quyết việc làm cho lao động ở
nông thôn,
Với tốc độ phát triển 8% tính theo giá trị đầu ra, sự phát triển làng nghề đã
nâng cao thu nhập của người dân làng nghề gấp 3- 4 lần so với hoạt động sản
xuất nông nghiệp. Trên cơ sở tạo ra việc làm, tăng thêm thu nhập, làng nghề
nông thôn được coi là động lực làm chuyển dịch cơ cấu xã hội nông thôn theo
hướng tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo, nâng cao phúc lợi cho người dân.
Các làng nghề ở nông thôn phát triển đã tạo ra một khối lượng hàng hoá
đáng kể, đáp ứng kịp thời nhu cầu đa dạng của đời sống nhân dân, góp phần
quan trọng vào việc phát triển kinh tế địa phương và tăng kim ngạch xuất khẩu.

Thị trường trong nước và ngoài nước được mở rộng đã có tác dụng kích thích
sản xuất và phát triển. Nhiều doanh nghiệp và hộ sản xuất trong làng nghề đã
kinh doanh đúng pháp luật, có hiệu quả và tạo ra nhiều loại sản phẩm đảm bảo
chất lượng, có uy tín cao trên thị trường trong và ngoài nước như đồ gỗ Đồng
Kỵ, tái chế sắt Đa Hội, chạm bạc Đồng Xâm,… Mặt khác, hàng năm các làng
nghề tạo ra việc làm tại chỗ cho hàng vạn lao động và thu hút hàng trăm lao
động nông nhàn ở các vùng phụ cận.
Các làng nghề đã góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế mở rộng nông thôn và xoá đói giảm nghèo. Nhiều vùng nông thôn có
làng nghề phát triển đã có nhiều thay đổi về đời sống. Gần như 100% các xã có
làng nghề đều có điện lưới, đường ô tô tới trung tâm xã, có điện thoại, trạm y tế
xã, phổ cập giáo dục tiểu học,… nhà ngói, nhà mái bằng. Đời sống nhân dân

được cải thiện rõ rệt so với nhân dân ở vùng thuần nông.
Như vậy, làng nghề phát triển là động lực làm chuyển dịch cơ cấu xã hội
nông thôn theo hướng tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo, nâng cao phúc lợi cho người
dân, góp phần vào công cuộc CNH nông thôn.[4]
2.2. Những vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề

2.2.1. Khái niệm ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường là hiện tượng suy giảm chất lượng môi trường quá một
giới hạn cho phép, đi ngược lại với mục đích sử dụng môi trường, ảnh hưởng tới
sức khoẻ con người và sinh vật ( Lê Huy Bá,2005)
Theo tổ chức y tế thế giới: Ô nhiễm môi trường là việc chuyển các chất thải
hoặc nguyên liệu vào môi trường đến mức có khả năng gây hại cho sức khoẻ con

người và sự phát triển của sinh vật hoặc giảm chất lượng môi trường sống.
Tóm lại, ô nhiễm môi trường là hiện tượng làm giảm chất lượng môi trường
và tác động tiêu cực đến sức khoẻ con người và sự phát triển của sinh vật.
Mỗi một môi trường sinh thái đều có mức giới hạn về các thành phần, quá
giới hạn đó sẽ gọi là ô nhiễm. Để đảm bảo môi trường được trong sạch các tổ
chức quốc tế và các chính phủ các nước đã xây dựng các tiêu chuẩn môi trường
không giống nhau giữa các nước khác nhau và nhằm những mục đích khác
nhau.[5]
2.2.2. Hiện trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề
Trong khi các nước công nghiệp hiện đại đang quan tâm lo lắng đến sự ô
nhiễm môi trường từ các nhà máy điện, hoá chất, từ các lò phản ứng hạt nhân
hoặc các chất thải công nghiệp thì ở Việt Nam nỗi lo đó lại bắt đầu từ các làng

nghề. Trong những năm qua, nhờ có chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước,
các làng nghề Việt Nam từng bước khôi phục và phát triển mạnh, góp phần thay
đổi bộ mặt kinh tế nông thôn Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh đó, môi trường
làng nghề cũng đã trở thành vấn đề bức xúc và tập trung sự chú ý nghiên cứu của
nhiều nhà khoa học và quản lí môi trường.
Theo nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy tình hình ô nhiễm tại các làng
nghề diễn ra khá nghiêm trọng, các chỉ tiêu phân tích nước thải như COD, BOD,
SS hàm lượng các chất khí thải CO
2
, SO
2
, bụi, tiếng ồn đều vượt quá tiều chuẩn

cho phép. Tuy nhiên mức độ ô nhiễm các môi trường nước, không khí, đất do

sản xuất ngành nghề gây ra là không giống nhau giữa các phân ngành. Mức độ ô
nhiễm diễn ra phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất tính chất sản phẩm và thành phần
chất thải ra môi trường
Để tìm hiểu vấn đề ô nhiễm môi trường do sản xuất ngành nghề một cách
đầy đủ hơn chúng tôi tìm hiểu theo các nhóm nghề. Theo cách này hiện trạng ô
nhiễm ở các làng nghề được thể hiện như sau:
- Hiện trạng ô nhiễm môi trường làng nghề chế biến NSTP
Chế biến nông sản thực phẩm là ngành có nhu cầu nước rất lớn và thải ra
một lượng nước không nhỏ giàu chất hữu cơ gây ô nhiễm môi trường, như nước
thải của quá trình sản xuất tinh bột từ sắn có hàm lượng ô nhiễm rất cao (COD =

13.300 - 20.000mg/l; BOD
5
= 5.500 - 125.000mg/l). Nước thải cống chung của
các làng này đều vượt tiêu chuẩn cho phép từ 5-32 lần. Đặc trưng nước thải của
một số làng nghề chế biến NSTP cho thấy chất lượng môi trường nước tại các
làng nghề là rất đáng lo ngại.
Cho đến nay phần lớn nước thải tại các làng nghề hầu hết đều thải thẳng ta
ngoài không qua bất kỳ khâu xử lí nào. Nước thải này tồn đọng ở cống rãnh
thường bị phân huỷ yếm khí gây ô nhiễm không khí và ngấm xuống lòng đất gây
ô nhiễm môi trường đất và suy giảm chất lượng nước ngầm. Chất lượng nước
ngầm tại các làng nghề chế biến NSTP phần lớn đều có dấu hiệu ô nhiễm với
hàm lượng COD, TS, NH

4
+
trong nước giếng cao. Nước giếng của làng Tân Độ
và Ninh Vân còn nhiễm vi khuẩn Colifom, đặc biệt nước giếng của làng nghề
sản xuất nước mắm Hải Thanh (Thanh Hoá) đã bị ô nhiễm nghiêm trọng (COD =
186 mg/l), người dân trong làng phải mua nước ngọt ở nơi khác để sử dụng.
Nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí đặc trưng nhất của các làng nghề
CBNSTP là mùi hôi do sự phân huỷ yếm khí các chất hữu cơ dạng rắn và chất
hữu cơ tồn đọng trong nước thải sinh ra, các khí ô nhiễm gồm H
2
S, CH
4

, NH
3

Mặt khác tại các làng nghề CBNSTP sử dụng than và củi làm chất đốt đã thải

vào không khí bụi và các chất khí CO
2
, SO
2
, NO
2
, NO tuy nhiên do được phát

tán nên các chỉ tiêu về bụi và các chất khí này trong khu vực sản xuất đều nhỏ
hơn TCCP. Tại 16 làng nghề chế biến NSTP được khảo sát thuộc đề tài KC 08-
09 đều có hàm lượng H
2
S vượt TCCP, trong đó tại làng nghề tinh bột, rượu sắn
Tân Độ, miến Yên Ninh nồng độ H
2
S trong không khí gấp từ 25-33 lần TCCP.
Xỉ than có mặt ở hầu hết các làng nghề chế biến nông NSTP, là nguồn chất
thải rắn tạo bụi. Ở làng nghề bún Phú Đô mỗi năm sử dụng 5250 tấn than. Như
vậy theo ước tính của viện KHCN&MT cứ một tấn than cháy tạo ra 0,2 tấn xỉ
than thì chỉ riêng 2 tháng làng nghề đã thải ra 1050 tấn xỉ than/ năm. Tại các địa

phương một phần xỉ than được dùng làm vật liệu xây dựng, san lấp đường đi,
đóng gạch… phần còn lại thải không đúng quy định vào môi tường, điều này sẽ
ảnh hưởng đến môi trường. [8]
- Hiện trạng ô nhiễm môi trường các làng nghề sản xuất vật liệu xây
dựng và khai thác đá
Các làng sản xuất vật liệu xây dựng ở nước ta hiện nay, công nghệ sản xuất
còn thô sơ, tỷ lệ cơ khí hoá thấp, lao động giản đơn là chủ yếu, sản xuất vật liệu
tiêu thụ một lượng rất lớn nhiên liệu là than và củi.
Ở các làng này mức độ ô nhiễm không khí là nghiêm trọng nhất. Bụi phát
sinh từ các quá trình khai thác, gia công nguyên liệu , vận chuyển vào lò, ra lò và
bốc dỡ sản phẩm, hoạt động giao thông là rất lớn. Khói độc và sức nóng toả ra từ
các lò nung, tiếng ồn do hoạt động giao thông làm cho môi trường không khí bị

ô nhiễm nặng ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ người dân, cây cối và hoa màu.
Đề tài KC 08-09 đã tiến hành khảo sát tại một số làng nghề điển hình và
đã cho thấy hàng năm các làng nghề thải ra môi trường một số lượng lớn các
chất gây ô nhiễm không khí. Nồng độ bụi ở các khu vực khai thác chế biến đá ở
Tràng Thạch - Đà Nẵng thường xuyên vượt TCCP từ 3-5 lần và tiếng ồn thường
xuyên ở mức cao từ 80 – 95dBA.

Tại làng Hương Vĩ (Bắc Giang) là nơi có 320 lò nung vôi hoạt động, hàm
lượng khói, bụi tại đây cao hơn tới 12,7 lần TCCP, khí NO
2
, CO
2

cao hơn TCCP
0,4 lần, hầu hết nguồn nước sinh hoạt đều không đạt TCCP, do hoạt động của
các phương tiện giao thông chuyên chở ở đây cũng gây ta tiếng ồn khó chịu.
Ở khu lò gạch Khai Thái (Hà Tây) nồng độ bụi vượt TCCP từ 3 – 5 lần
SO
2
, NO
x
, CO vượt TCCP hàng chục lần, ngoài ra còn có ô nhiễm nhiệt làm ảnh
hưởng đến hoa màu.
` Trong quá trình khai thác nguyên liệu cho sản xuất gạch ngói thiếu quy
hoạch đã gây huỷ hoại thảm thực vật, tạo ra các vùng trũng ảnh hưởng lớn tới

quá trình tưới tiêu và làm giảm diện tích canh tác.[2]
- Hiện trạng ô nhiễm môi trường các làng nghề tái chế chất thải
Làng nghề tái chế chất thải gồm: tái chế giấy, tái chế kim loại, tái chế
nhựa… là một ngành mới được hình thành tuy nhiên trong những năm qua đã
khá phát triển. Tuy nhiên hiện nay tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng
nghề này đang diễn ra hết sức nghiêm trọng ở tất cả ba thành phần: đất, nước,
không khí.
Làng nghề tái chế giấy Phong Khê (Bắc Ninh), nơi có hơn 100 dây chuyền
sản xuất giấy có công suất 400 tấn/năm và toàn bộ dây chuyền đều sử dụng than
đốt, bình quân 1 ngày hết 40 ngàn tấn than. Do cộng hưởng của bụi và khói than
nên nguồn “khí thải” của người dân cứ cạn dần. Các loại hoá chất như phèn,
nhựa thông, phẩm màu được pha lẫn trong nước trong quá trình sản xuất và được

thải ra một cách bừa bãi dẫn đến những con mương dẫn nước đặc mùi hôi thối,
hậu quả làm nguồn nước sinh hoạt bị ô nhiễm nặng. Theo thống kê của xã cho
thấy hàng tháng các dây chuyền này thải ra hàng trăm mét khối các chất thải rắn
như xỉ than, nilon
Tại làng nghề tái chế chì Đông Mai (Hưng Yên) nơi có 25 lò nấu tái chế
chì, hàng ngày lượng chì thải vào không khí hơn 500 kg chì, lượng chì thải trong

nguồn nước là 0,77 mg/l vượt TCCP 15 lần, lượng chì trong nước ở ao đãi chì và
đổ xỉ hàm lượng 3,278 mg/l vượt TCCP 65 lần, bụi chì trong không khí biến
động từ 26,332 – 46,414 mg/m
3
gấp 7,7 – 15,4 lần so với TCCP.

Làng nghề tái chế nhựa Minh Khai hàng năm thải ra khoảng 455000 m
3

nước thải; hàm lượng COD 120 mg/l (vượt TCCP 1,2 lần); BOD
5
68 mg/l (vượt
TCCP 1,3 lần). [1]
- Hiện trạng ô nhiễm môi trường làng nghề dệt nhuộm
Cũng như các làng nghề chế biến NSTP, vấn đề ô nhiễm môi trường nước
là vấn đề lớn nhất đối với các làng nghề dệt nhuộm. Đây là ngành sử dụng nhiều
nước, nhiều hoá chất, thuốc nhuộm. Thông thường khoảng 30% thuốc nhuộm và
85-90% hoá chất còn lại trong nước thải vì vậy nước thải có pH, COD, TS,

BOD, độ màu rất cao.[1]
- Làng nghề thủ công mỹ nghệ
Trong cơ cấu làng nghề nói chung, làng nghề thủ công mỹ nghệ chiếm một
vị trí quan trọng. Hoạt động của các làng này không chỉ tạo ra những giá trị về
mặt kinh tế xã hội, mà còn tạo ra những giá trị văn hoá tinh thần sâu sắc. Tuy
nhiên, hiện nay vấn đề ô nhiễm môi trường ở một số làng nghề thủ công mỹ
nghệ đang là vấn đề hết sức bức xúc, đặc biệt là tình trạng ô nhiễm môi trường
nước và không khí.
Đối với môi trường nước, loại hình gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
nhất là các làng nghề sơn mài và chạm bạc. Lượng nước tiêu thụ tuy không lớn,
nhưng có chứa hàm lượng chất ô nhiễm cao. Làng nghề sơn mài Hạ Thái (Hà
Tây), nơi có 60% số hộ làm nghề sơn mài truyền thống, hàm lượng COD, BOD

5

và SS đo được tại các điểm trong làng đều cao hơn TCCP từ 1,8 - 3,5 lần. Làng
nghề chạm bạc Đồng Xâm - Thái Bình hàm lượng một số chỉ tiêu đo được trong
n ước th ải nh ư sau: CN
-
là 0,753 mg/l (gấp 1,5 lần TCCP), Zn
2+
4,75 mg/l (gấp
2,4 lần), Hg
2+
0,035 mg/l (gấp 7 lần TCCP).


Tình trạng ô nhiễm không khí đang xảy ra ở các làng nghề gốm sứ và chế
tác đá. Ô nhiễm bụi từ các làng nghề sản xuất gốm sứ và chế tác đá mỹ nghệ do
sử dụng nguyên liệu là đất đá. Ô nhiễm các khí thải lò đốt như CO, CO
2
, SO
2
,
NO
x
do sử dụng các lò đốt thủ công có hiệu suất đốt thấp và không có hệ thống
xử lí khói lò. Ở khu vực sản xuất làng gốm sứ Bát Tràng, Kim Lan, Văn Đức và

Đa Tốn lượng xỉ và tro hàng năm ở khu vực này lên tới 15 ngàn tấn và có tới 480
tấn nguyên liệu sản xuất bị rơi vãi. Lượng bụi, tro và xỉ thải ra trung bình là 43,7
tấn/ngày đêm, lượng khí CO và CO
2
xấp xỉ 73,8 triệu tấn/năm, lượng khí SO
2

629 ngàn m
3
/năm, lượng oxy tiêu hao cho quá trình đốt cháy tới 5,966 triệu
tấn/năm.[1]
2.2.3 Ảnh hưởng của sản xuất làng nghề tới sức khoẻ cộng đồng

Các chất thải phát sinh từ hoạt động sản xuất ở các làng nghề đã và đang
gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường, làm suy thoái môi trường và tác
động trực tiếp đến sức khoẻ của người nhân dân.
Có thể tóm tắt một số bệnh tật điển hình đối với dân cư làng nghề như sau:
+ Bệnh điếc nghề nghiệp
+ Bệnh tai - mũi - họng nghề nghiệp
+ Bệnh hô hấp nghề nghiệp
+ Bệnh ngoài da nghề nghiệp
+ Bệnh mắt nghề nghiệp
+ Bệnh thần kinh nghề nghiệp
Các làng nghề khác nhau, các triệu chứng bệnh nghề nghiệp và tỷ lệ số
người mắc bệnh nghề nghiệp thường rất khác nhau. Ở các làng nghề cơ khí, đúc,

sản xuất nguyên, vật liệu,… do sử dụng lượng than lớn nên tỷ lệ người mắc các
bệnh phổi, phế quản cao; làng nghề tẩy nhuộm vải sợi, mạ kim loại sử dụng
nhiều hoá chất độc hại, kim loại nặng thì tỷ lệ người bị bệnh ung thư cao, tuổi
thọ giảm; làng nghề gây ô nhiễm nguồn nước như chế biến lương thực, mây tre

đan, chế biến gỗ thì tỷ lệ người mắc các bệnh ngoài da, bệnh mắt hột, bệnh phụ
khoa tăng; làng nghề gây tiếng ồn lớn thì tỷ lệ người mắc bệnh thần kinh, bệnh
não cao, tuổi thọ giảm.
Theo kết quả điều tra của Bộ y tế năm 2003 tại 30 cơ sở làng nghề thuộc 3
tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định phổ biến là mỹ nghệ, mây tre đan, dệt
may, chế biến LTTP và VLXD, bệnh tật trong các hộ gia đình làng nghề là đau
lưng, đau cột sống, đau bụng, hội chứng dạ dày, viêm phế quản, viêm phổi, viêm

da, dị ứng, đau mắt,… Các nguy cơ mà người lao động tiếp xúc tại làng nghề ở
Bắc Ninh: 95% tiếp xúc với bụi, 85,9% với nóng, 59,65% với hoá chất, 58,9%
tai nạn.Tại làng nghề đúc nhôm, chì, kẽm Văn Môn, bệnh hô hấp (44,4%) bệnh
da liễu (13,45) trong tổng số người điều tra.
Theo số liệu của Trạm Y tế xã Chỉ Đạo ( Văn Lâm - Hưng Yên), nơi có
làng nghề tái chế chì Đông Mai, thì tỷ lệ người dân mắc bệnh về thần kinh chiếm
khoảng 71%, bệnh về đường hô hấp chiếm khoảng 65,6% và chứng hồng cầu
giảm chiếm 19,4%. Trong số 7.523 nhân khẩu toàn xã có 537 ca bệnh, hầu hết ở
độ tuổi 15-49, trong đó có 249 ca bệnh phải gửi lên tuyên trên, tử vong 3 người.
Qua số liệu khảo sát sức khoẻ người dân Bát Tràng 223 người dân Bát
Tràng thì có tới 76 người mắc bệnh về đường hô hấp, 23 người bị bệnh lao.
Trong năm 1995 có 23 người làng này chết vì bệnh ung thư. Cư dân làng gốm

này chiếm 70% số bệnh nhân bị bênh ung thư ở các viện ở Hà Nội năm 1996. [2]

2.2.4. Các nhân tố tác động đến môi trường tại các làng nghề
- Quy mô sản xuất
Phần lớn các làng nghề ở nước ta ở quy mô hộ gia đình, sản xuất tự phát,
không theo một quy hoạch nhất định. Do vậy trong quá trình sản xuất đã ảnh
hưởng trực tiếp tới môi trường tại nơi sản xuất và môi trường xung quanh khu
vực sản xuất. Số liệu điều tra ngành nghề của Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn làng nghề nông thôn đồng bằng sông Hồng năm 2004 cho thấy, đa số
các hộ sản xuất kinh doanh ngay trên diện tích đất ở, nhà ở; mặt bằng sản xuất
chật hẹp: diện tích ở bình quân mỗi hộ chỉ khoảng 150 - 200 m

2
. Gần 80% số hộ
có nhà xưởng sản xuất thô sơ, nhà tạm và bán kiên cố. Ở những làng nghề phát
triển như Mẫn Xá, Đa Hội (Bắc Ninh)l, Vân Chàng (Nam Định), Vũ Hội,
Nguyên Xá (Thái Bình) gần như 100% số hộ ngành nghề sử dụng nhà ở, sân,
vườn làm nơi sản xuất hoặc chứa vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu, sản phẩm, thậm
chí cả chất thải.
Việc tận dụng triệt để đất ở của các hộ và đất đai trong khu dân cư để làm
nhà xưởng sản xuất, bãi chứa vật tư nguyên liệu…cũng làm suy thoái môi trường
đất, môi trường cảnh quan và điều kiện vệ sinh của các hộ cũng như của các khu
dân cư nói chung trong làng. Sự thiếu hụt, yếu kém của hệ thống thoát nước thải
của các hộ và khu dân cư làm cho tình trạng ô nhiễm, suy thoái này trở nên trầm

trọng hơn.[6]
- Công nghệ sản xuất và thiết bị
Các loại công nghệ và các thiết bị được sử dụng tại các làng nghề hiện nay
phần lớn ở trình độ thủ công, lạc hậu, chắp vá, tay nghề thấp. Theo điều tra của
Viện khoa học và Công nghệ môi trường thì hiện nay hầu hết các thiết bị để sản
xuất của các làng nghề đều được chế tạo từ những năm 1950 - 1960 và chủ yếu
đều được mua lại từ các doanh nghiệp đã thanh lí. Ví dụ tại làng nghề Vạn Phúc,
gần 100% là máy sản xuất và chế tạo tại Việt Nam từ những năm 1950 vẫn còn
tồn tại đến ngày nay.
Công nghệ sản xuất nêu trên không chỉ làm hạn chế năng suất chất lượng
sản phẩm của các cơ sở ngành nghề mà còn trực tiếp gây ra các hệ quả xấu về
môi trường. Hiệu suất sử dụng nhiên liệu không cao, trung bình khoảng 60% (

50% đối với ngành nghề chế biến NSTP, 60% đối với ngành tái chế chất thải,
80% đối với ngành dệt nhuộm và may mặc, 90% đối với ngành thủ công mỹ

nghệ xuất khẩu). Các loại vật liệu không được tận dụng, điển hình là ở các làng
nghề chế biến lương thực thực phẩm, bã thải rắn sau sản xuất vẫn chứa một
lượng lớn tinh bột, vừa gây lãng phí vật liệu, vừa gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng do thải ra một lượng lớn các chất hữu cơ.[4]
- Vốn đầu tư
Một mặt, do sản xuất tự phát nên không có kế hoạch lâu dài khó khăn
trong việc huy động tài chính và vốn đầu tư từ các nguồn lớn (Quỹ tín dụng,
ngân hàng.Mặt khác, tình trạng thiếu vốn đầu tư vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Số
hộ thiếu vốn hoặc có nhu cầu vay vốn ở nhiều xã nghề, làng nghề chiếm tới 60 -

70%. Tuy nhiên, khả năng, nhu cầu và điều kiện về tài chính, vốn đầu tư của các
hộ là rất khác nhau giữa các loại hình ngành nghề giữa các xã nghề, làng nghề. Ở
các làng nghề phát triển nhu cầu vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh của các hộ
ngành nghề kiêm nông nghiệp thường khoảng 25-30 triệu đồng. Còn ở các làng
nghề làm đồ mây tre, đan lát, chế biến nhỏ thực phẩm, thêu ren, dệt chiếu
cói,…nhu cầu về vốn đầu tư là 5 triệu đồng/ 1 hộ. Do vậy, không chủ động sản
xuất và đầu ra sản phẩm nên khó thay đổi công nghệ mới và đặc biệt là không
muốn và không thể đầu tư cho bảo vệ môi trường.[4]
- Trình độ người lao dộng
Đa số lao động trong các hộ gia đình, hộ ngành nghề ở nông thôn nói
chung cũng như ở các làng nghề, trình độ học vấn và chuyên môn, kỹ thuật thấp,
học nghề theo kinh nghiệm, kiến thức nghề nghiệp không toàn diện. Theo thống

kê lao động ở nông thôn khoảng 83,3% không qua đào tạo các lớp chuyên môn,
trình độ văn hoá hết cấp 2 khoảng 85%.Mặc dù tỷ lệ lao động có trình độ học
vấn phổ thông trung học và lao động có chuyên môn, kỹ thuật ở các hộ chuyên
ngành nghề cao hơn đáng kể so với các kiêm ngành nghề và hộ thuần nông
nhưng số lao động không có chuyên môn, kỹ thuật vẫn còn chiếm tỷ lệ cao. Các
số liệu thống kê cho thấy 6,75% thợ giỏi và 54,81% lao động không có chuyên

môn kỹ thuật ở những hộ chuyên sản xuất và con số này là 78,76% lao động
không chuyên ở các hộ kiêm ngành nghề ( sản xuất theo thời vụ).[7]
- Trình độ của chủ hộ
Phần lớn chủ các cơ sở sản xuất tại các làng nghề là xuất từ các chủ gia
đình sản xuất nông nghiệp nên mang nhiều tư tưởng tư hữu, chạy đua theo lợi

nhuận trước mắt được thể hiện qua việc lựa chọn quy trình sản xuất đơn giản,
thủ công để có điều kiện thuê lao động có trình độ thấp, để trả công lao động nên
dẫn tới tốn nguyên vật liệu trong sản xuất và phát sinh nhiều chất thải. Trình độ
quản lí của chủ hộ ảnh hưởng tới việc sắp xếp, bố trí mặt bằng sản xuất, sao cho
phù hợp và đảm bảo vệ sinh môi trường. Thông thường các hộ gia đình thường
không quan tâm tới vấn đề này, họ chú trọng nhiều hơn đến việc làm sao để
thuận lợi cho sản xuất, mà ít quan tâm dến vấn đề môi trường.[7]
- Tồn tại về cơ chế, chính sách trong quản lí môi trường làng nghề
Công cụ quản lí môi trường là hệ thống luật pháp, các chính sách, quy
định, các văn bản pháp quy được áp dụng để bảo vệ môi trường tại các làng
nghề.
Các chính sách, quy định vĩ mô hiện hành của Nhà nước thì hoặc là

không, hoặc là chỉ gián tiếp liên quan tới môi trường làng nghề. Bên cạnh sự
thiếu hụt về chính sách quản lí vĩ mô chuyên biệt về bảo vệ môi trường đối với
làng nghề là sự thiếu hụt các quy định cụ thể về bảo vệ môi trường làng nghề
trong các chính sách quản lí hiện hành đối với nghề phi nông nghiệp ở nông
thôn.
Bộ máy quản lí môi trường làng nghề với nhân lực còn mỏng, trình độ
quản lí chuyên môn của cán bộ quản lí còn nhiều hạn chế, cơ sở vật chất, trang
thiết bị còn thiếu, sự phối hợp và trao đổi thông tin không kịp thời, công tác
thanh tra kiểm tra chưa triệt để, do vậy hiệu quả thực thi công tác quản lí chưa
cao chưa cao.[7]

- Cộng đồng dân cư tại các làng nghề

Sự ô nhiễm môi trường tại các làng nghề đang diễn ra ngày một gia tăng
đã ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt hàng ngày và sức khoẻ của cộng đồng dân
cư tại các làng nghề. Nhiều người đã nhận thức rõ điều này và đã có những hoạt
động cụ thể nhằm ngăn ngừa sự ô nhiễm môi trường làng nghề nhưng còn gặp
nhiều khó khăn cụ thể là:
+ Thiếu những bằng chứng để chứng minh sự ô nhiễm môi trường làng
nghề, do họ không có phương tiện, kinh phí để thu thập các tài liệu minh chứng
cho sự phát thải không đảm bảo tiêu chuẩn cho phép của các cơ sở sản xuất.
+ Có sự nể nang về các mối quan hệ họ hàng, làng xã…
+ Một số người có trình độ thấp chưa cảm nhận được sự nguy hại của ô
nhiễm môi trường, nên họ xem việc ô nhiễm môi trường là chuyện bình thường
và không có phản ứng gì.

+ Mức thu nhập thấp của các hộ gia đình tại các làng nghề, nên hàng ngày
họ phải lo làm ăn kiếm sống, không có thời gian để tố cáo các hành vi vi phạm
về bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất.
+ Việc tố giác các hành vi vi phạm về bảo vệ môi trường của các cơ sở sản
xuất của công dân nên chính quyền các cấp và cơ quan quản lí môi trường địa
phương cũng chưa được giải quyết kịp thời và triệt để do nhiều lí do đã nói ở
phần trên.[7][6]
2.3. Cơ sở pháp lí
Trong những năm qua nước ta đã có nhiều biện pháp cả về mặt quản lí và
kỹ thuật để khắc phục tình hình ô nhiễm môi trường tại các làng nghề.
Để làng nghề phát triển đồng thời đảm bảo các vấn đề xã hội, Chính phủ
ta đã ban hành một số chính sách về môi trường, nhằm tạo khuôn khổ pháp lí

bình đẳng cho các thành viên hoạt động. Cụ thể:

Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005 và Chủ tịch nước kí sắc lệnh ban
hành ngày 01/07/2006.
Luật Bảo vệ môi trường ra đời đáp ứng yêu cầu thực tế, góp phần đáng kể
vào việc bảo vệ môi trường của đất nước. Các hoạt động bảo vệ môi trường được
xúc tiến nhanh, các cơ sở sản xuất kinh doanh và cộng đồng nhận thức cao hơn,
có trách nhiệm hơn đối với công tác bảo vệ môi trường chung.
Nghị định 175/CP ngày 18/10/1994 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành
Luật bảo vệ môi trường nông thôn. Đây là cơ sở quan trọng để tiến hành công
tác điều tra, khảo sát môi trường nông thôn thể hiện qua các điều 4,5 của Nghị

định.
Nghị định 26/CP ngày 26/04/1996 của Chính phủ về quy đinh xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Chỉ thị số 36/CT-TƯ ngày 25/06/1998 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng về việc tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là động lực, là định hướng quan trọng giúp cho
cán bộ ngành tăng cường hơn nữa trong công tác bảo vệ môi trường ở các làng
nghề.
Quyết định 132/200/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ
về một số chính sách khuyến khích phát triển làng nghề nông thôn gắn với bảo
vệ môi trường như:
Nhà nước có quy hoạch và định hướng phát triển các cơ sở ngành nghề

nông thôn đảm bảo phát triển bền vững, giữ gìn tốt vệ sinh môi trường nông
thôn. Nhà nước có chính sách khuyến khích việc tiêu thụ và sử dụng các sản
phẩm từ nguồn nguyên liệu tự nhiên trong nước nhằm hạn chế một phần tác hại
đến môi trường của các sản phẩm, chất thải, hoá chất, nhựa công nghiệp.

UBND tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm quy hoạch chi
tiết phát triển làng nghề, chỉ đạo huyện xây dựng các cụm tiểu thủ công nghiệp
quy mô nhỏ để tạo mặt bằng cho các cơ sở ngành nghề nông thôn phát triển đảm
bảo vệ sinh môi trường.
Chỉ thị số 200/1994/CT-TTg ngày 29/04/1994 của Thủ tướng Chính phủ
về đảm bảo nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.
Quyết định 237/QĐ-TTg ngày 03/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ về

việc phê duyệt chương trình mục tiêu Quốc gia nước sạch vệ sinh môi trường
nông thôn và bản chiến lược Quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông
thôn đến 2020 do Bộ xây dựng và Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn soạn
thảo được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo quyết định số 104/2000/QĐ -
TTg ngày 25/08/2000.
Nghị định 80/2006/NĐ- CP ngày 09/08/2006 của Thủ tướng Chính phủ
về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi
trường.
Nghị định 81/2006/NĐ- CP ngày 09/08/2006 của Thủ tướng Chính phủ về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
31 Tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường bắt buộc áp dụng, ban hành theo
quyết định số 35/2002/QĐ - BKHCNMT ngày 25/6/2002 của Bộ trưởng Bộ

Khoa học công nghệ và Môi trường.
Ngoài ra còn một số văn bản khác liên quan đến việc cải thiện môi trường
ở các làng nghề như:
Luật Đất đai được ban hành theo sắc lệnh số 24L/CTN ngày 24/07/1993
của Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và Luật Đất đai sửa đổi
bổ sung ngày 11/12/1998.
Nghị định số 04/1999/ NĐ - CP ngày 30/01/1999 của chính phủ về quy
định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) số 03/1998/

QH10 ngày 20/05/1998 về thuế tài nguyên theo quy định của pháp luật thuế tài
nguyên.
Quyết định số 132/2001/QĐ - TTg ngày 07/09/2001 của Thủ tướng Chính

phủ về cơ chế tài chính thực hiện chương trình phát triển đường giao thông, cơ
sở hạ tầng thuỷ sản, cơ sở hạ tầng làng nghề nông thôn.
Quyết định số 64/2003/QĐ - TTg ngày 22/4/2003 của Thủ tướng chính
phủ về kế hoạch xử lí triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng.
Chỉ thị của ban thường vụ tỉnh uỷ về việc thực hiện nghị quyết số 41 – NQ
- TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về BVMT trong thời kỳ CNH - HĐH
đất nước.[5]













PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Địa điểm và thời gian
- Địa điểm: Làng nghề miến dong Việt Cường - Xã Hóa Thượng - Huyện

Đồng Hỷ - Tỉnh Thái Nguyên.
- Thời gian: 10/01/2010 đến 10/01/2015
3.2. Đối tượng
- Môi trường làng nghề miến dong Việt Cường.
3.3. Nội dung
3.3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
• Đặc điểm điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lí:
- Địa hình:
- Khí hậu:
• Đặc điểm kinh tế, xã hội
- Thực trạng phát triển kinh tế

- Dân số, lao động và việc làm
3.3.2. Quá trình hình thành và phát triển làng nghề miến dong Việt Cường
- Hiện trạng sản xuất miến dong
- Quy mô sản xuất
- Quy trình và công nghệ sản xuất
3.3.3. Những ảnh hưởng của làng nghề tới môi trường
- Nước thải
- Rác thải
- Khí thải
3.3.4. Hiện trạng môi trường

• Hiện trạng môi trường nước

- Nước mặt
- Nước ngầm
• Hiện trạng môi trường đất
• Hiện trạng môi trường không khí
3.3.5. Định hướng quy hoạch môi trường làng nghề miến dong Việt Cường
- Một số dự báo liên quan đến phát triển khu dân cư làng nghề miến dong
Việt Cường giai đoạn 2013 - 2020.
- Đề xuất giải pháp về môi trường làng nghề miến dong Việt Cường giai
đoạn 2013 - 2020.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập và phân tích các thông tin hữu quan về thực trạng hoạt động
của các cơ sở chế biến trong xóm Việt Cường

- Kế thừa các kết quả nghiên cứu có liên quan về môi trường làng nghề từ
trước đến nay, phân tích và rút ra kinh nghiệm để áp dụng thực hiện.
- Khảo sát thực địa
Trên cơ sở thông tin ban đầu về tình hình hoạt động của làng nghề tiến
hành khảo sát thực tế nhằm đánh giá và kiểm chứng lại các vấn đề liên quan










×