ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN THỊ HƯNG
Tên đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA LƯỢNG PHÂN HỮU CƠ ĐẾN
SINH TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CÂY ĐẬU TRẠCH
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo :
Chính quy
Chuyên ngành :
Khoa học cây trồng
Khoa :
Nông học
Lớp :
K42-Trồng trọt
Khoá học :
2010 - 2014
THÁI NGUYÊN - 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN THỊ HƯNG
Tên đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA LƯỢNG PHÂN HỮU CƠ ĐẾN
SINH TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CÂY ĐẬU TRẠCH
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo :
Chính quy
Chuyên ngành :
Khoa học cây trồng
Khoa :
Nông học
Lớp :
K42-Trồng trọt
Khoá học :
2010 - 2014
Giảng viên hướng dẫn :
TS. Nguyễn Thúy Hà
Khoa Nông học - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
THÁI NGUYÊN - 2014
i
LỜI CẢM ƠN
Được sự nhất trí của nhà trường, của khoa Nông học em đã tiến hành
và hoàn thành đề tài tốt nghiệp: “Ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ đến
sinh trưởng và phát triển cây đậu trạch tại trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên”.
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu
trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm Khoa Nông học, các
thầy cô giáo tham gia giảng dạy lớp 42TT và các giảng viên trong khoa đã tạo
điều kiện giúp đỡ em trong thời gian học tập cũng như quá trình nghiên cứu
để em có thể hoàn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo hướng dẫn trực tiếp TS.
Nguyễn Thúy Hà người trực tiếp hướng dẫn, dịnh hướng đề tài, cũng như tận
tình chỉ bảo cho em trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện khóa luận.
Em xin gửi lời biết ơn tới gia đình, bạn bè và những người thân đã
động viên và ủng hộ em trong suốt thời gian qua.
Do điều kiện thời gian và trình độ còn hạn chế, mặc dù đã cố gắng
nhưng không thể tránh được những thiếu xót, em rất mong nhận được những
ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn để khóa luận này được hoàn
thiện tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên , ngày 15 tháng 05 năm 2014
Người thực hiện khóa luận
Nguyễn Thị Hưng
ii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN i
MỤC LỤC ii
DANH MỤC CÁC BẢNG v
DANH MỤC CÁC HÌNH vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT vii
Phần 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.1.1. Mục đích 3
1.1.2. Yêu cầu 3
1.1.3. Ý nghĩa 3
Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1. Cơ sở khoa học 4
2.1.1. Giá trị của cây rau 5
2.1.2. Vai trò của phân bón trong sản xuất nông nghiệp 7
2.2. Tình hình sản xuất rau trên thế giới và Việt Nam 9
2.2.1. Tình hình sản xuất rau trên thế giới 9
2.2.2. Tình hình sản xuất rau ở Việt Nam 11
2.3. Tình hình sản xuất sử dụng phân bón trên thế giới và Việt Nam 13
2.3.1 Tình hình sản xuất sử dụng phân bón trên thế giới 13
2.3.2 Tình hình sản xuất sử dụng phân bón ở Việt Nam 13
Phần 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 17
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 17
3.1.1. Vật liệu nghiên cứu 17
3.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 17
3.1.3 Đặc điểm đất đai thí nghiệm 17
iii
3.2. Nội dung nghiên cứu 17
3.3. Phương pháp nghiên cứu 17
3.4. Chỉ tiêu nghiên cứu và phương pháp theo dõi 18
3.4.1. Các chỉ tiêu về sinh trưởng, phát triển 18
3.4.2. Đánh giá tình hình sâu bệnh hại ở các công thức 18
3.4.3. Các chỉ tiêu về năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất 19
3.4.4. Các chỉ tiêu chất lượng quả 20
3.4.5. Sơ bộ hạch toán kinh tế 20
3.5. Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây đậu trạch 20
3.6. Phương pháp xử lý số liệu 22
Phần 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 23
4.1 Ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ đến sinh trưởng
và phát triển cây đậu trach. 23
4.1.1. Ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ
đến tỷ lệ nảy mầm cây đậu trạch 23
4.1.2. Ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ đến thời gian sinh trưởng
và phát triển cây đậu trạch 23
4.2. Ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ đến chiều cao cây đậu trạch 26
4.2.1. Động thái tăng trưởng chiều cao cây đậu trạch 26
4.2.2. Tốc độ tăng trưởng chiều cao cây đậu trạch 29
4.3. Ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ
đến động thái ra lá cây đậu trạch 30
4.4. Ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ đến sâu, bệnh hại cây đậu trạch 32
4.5. Ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ
đến một số chỉ tiêu theo dõi quả dậu trạch 34
4.6. Ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ đến các yếu tố cấu thành năng
suất và năng suất quả đậu trạch 36
iv
4.7. Sơ bộ hạch toán hiệu quả kinh tế 38
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 40
5.1. Kết luận 40
5.2. Đề nghị 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO 41
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Thành phần chất dinh dưỡng trong 100g rau ở một số loại rau 6
Bảng 2.2: Tình hình sản xuất rau trên thế giới từ 2008 - 2012 9
Bảng 2.3: Tình hình sản xuất rau Châu Á 10
Bảng 2.4: Tình hình sản xuất rau Trung Quốc 10
Bảng 2.5: Tình hình sản xuất rau ở Việt Nam 2008 - 2012 12
Bảng 4.1. Ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ
đến tỷ lệ nảy mầm cây đậu trạch 23
Bảng 4.2. Ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ đến thời gian sinh trưởng
và phát triển cây đậu trạch 24
Bảng 4.3. Ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ đến động thái tăng trưởng
chiều cao cây đậu trạch 26
Bảng 4.4. Ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ
đến tốc độ tăng trưởng chiều cao cây đậu trạch 29
Bảng 4.5. Ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ
đến động thái ra lá cây đậu trạch 31
Bảng 4.6. Tỷ lệ sâu, bệnh hại ở các công thức thí nghiệm 33
Bảng 4.7. Ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ
đến một số chỉ tiêu theo dõi quả đậu trạch 34
Bảng 4.8. Ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ
đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất quả đậu trạch 36
Bảng 4.9. Ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ
đến hiệu quả kinh tế cây đậu trạch 39
vi
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1: Đồ thị năng suất cây trồng và hiệu quả kinh tế
của lượng phân bón sử dụng 5
Hình 4.1: Biểu đồ ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ
đến động thái tăng trưởng chiều cao cây đậu trạch 27
Hình 4.2: Biểu đồ ảnh hưởng của lượng phân hữu cơ
đến một số chỉ tiêu theo dõi quả đậu trạch 35
Hình 4.3: Biểu đồ NSLT và NSTT cây đậu trạch trong vụ Đông - Xuân
năm 2013 - 2014 tại Đại học Nông Lâm Thái Nguyên 38
vii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CV (%) : Coefficient of variance (hệ số biến động)
Cs : Cộng sự
CT : Công thức
FAO : Food Agriculture Organization (tổ chức Nông - Lương thế giới)
ha : hecta
IPM : Phòng trừ dịch hại tổng hợp
LSD : Least significant difference (sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa)
NSLT : Năng suất lý thuyết
NSTT : Năng suất thực thu
Nxb : Nhà xuất bản
P : Probabllity (xác suất)
PTNT : Phát triển nông thôn
STT : Số thứ tự
1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay khi đời sống xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu đòi hỏi
của con người ngày càng tăng, đặc biệt là nhu cầu về thực phẩm chất lượng
đảm bảo an toàn. Để đáp ứng được phần nào nhu cầu đó, con người luôn phải
tìm tòi nghiên cứu nhằm đưa ra những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới cho
nông nghiệp, trong đó có những tiến bộ mới cho nghề trồng rau.
Từ lâu nhân dân ta có câu “Cơm không rau như đau không thuốc” cho
thấy giá trị dinh dưỡng của cây rau. Bởi vì, cây rau chứa nhiều chất dinh
dưỡng, là thực phẩm không thể thiếu trong mỗi bữa ăn hằng ngày của con
người, chúng không chỉ cung cấp các loại dinh dưỡng thiết yếu như vitamin,
lipit, protein mà còn cung cấp nhiều chất khoáng quan trọng như canxi, phốt
pho, sắt v.v. rất cần thiết cho sự phát triển của cơ thể con người. Ngoài ra rau
còn cung cấp cho con người một lượng lớn các chất xơ, có khả năng làm tăng
nhu mô ruột và hệ tiêu hoá, là thành phần hỗ trợ sự di chuyển thức ăn qua
đường tiêu hoá bằng cách giúp cho hoạt động co bóp của đường ruột được dễ
dàng. Rau còn là nguyên liệu quan trọng cho ngành chế biến. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế - xã hội, đời sống của con người được nâng lên thì
nhu cầu rau “sạch” càng tăng lên, do đó việc nghiên cứu sản xuất rau an toàn,
phục vụ cho nhu cầu nhân dân là rất cần thiết.
Đối với cây rau, nguồn dinh dưỡng cung cấp từ đất không đáng kể so
với yêu cầu của rau nên phải bổ sung phần lớn qua phân bón. Việc sử dụng
nhiều phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật làm cho đất ngày càng suy thoái
nghiêm trọng ảnh hưởng đến tính chất vật lý và hóa học đất như: đất trồng
ngày càng chua, chứa nhiều chất độc hại, khả năng giữ nước giảm,… nhằm
cải thiện tình trạng trên người ta đã sử dụng phân hữu cơ để bón cho cây
trồng. Nó có tác dụng cải tạo tính chất đất, cung cấp chất dinh dưỡng cho
cây. Từ đó làm tăng năng suất và chất lượng cây trồng một cách ổn định, bền
vững, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường. Đây cũng là nội dung mục tiêu
của nền nông nghiệp hữu cơ bền vững.
2
Thái Nguyên là một trong những tỉnh trung du miền núi phía Bắc, ở
đây có những điều kiện thuận lợi cho sản xuất rau phát triển, nhưng sự phát
triển của nó vẫn chưa tương xứng với tiềm năng đó. Về diện tích, năng suất,
sản lượng còn thấp mới chỉ cung cấp được nhu cầu rau trong tỉnh và một phần
rất nhỏ cho các tỉnh lân cận chưa có giá trị xuất khẩu, bên cạnh đó chất lượng
sản phẩm chưa được đảm bảo.
Đậu trạch là cây sinh trưởng mạnh, phù hợp với điều kiện canh tác ở
nhiều nơi, cho thu hoạch quả 60-70 ngày sau khi gieo, thời gian thu hoạch kéo
dài 30-35 ngày. Đậu trạch là cây ưa ánh sáng, rất cần giàn leo. Cây có bộ rễ
khỏe, ăn sâu nên khả năng chịu hạn tốt.
Người nông dân thường sử dụng phân không cân đối giữa phân hữu cơ
và phân vô cơ, có nhiều nơi họ không còn sử dụng phân hữu cơ nữa mà chỉ
dùng phân vô cơ.
Sử dụng nhiều phân vô cơ cho rau đặc biệt là phân đạm với liều lượng
ngày càng cao, do vậy mà nền nông nghiệp nước ta đang phải đối mặt với
những khó khăn như: chất lượng nông sản ngày càng giảm sút, nhiều loại
nông sản không đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu, nhiều loại rau quả bị dư thừa
nitrat, gây độc và không bảo quản chế biến được.
Sử dụng ít phân hữu cơ chủ yếu là tận dụng nguồn phân tự có trong gia
đình dẫn đến năng suất không cao và chất lượng rau không đảm bảo.
Hiện nay nước ta gia nhập vào WTO nhà nước càng quan tâm đến
chất lượng sản phẩm nhiều hơn, đặc biệt là chất lượng rau. Do vậy nhà
nước đã kêu gọi sự đầu tư từ trong nước cũng như nước ngoài về vốn,
giống, khoa học kỹ thuật. Để cây đậu trạch sinh trưởng phát triển tốt, đạt
năng suất cao nhất, đòi hỏi phải cung cấp nguồn dinh dưỡng đầy đủ hợp lý.
Vậy cần phải có nhiều nghiên cứu về dinh dưỡng cho cây rau nói chung và
cây đậu trạch nói riêng.
Xuất phát từ các vấn đề trên để đáp ứng yêu cầu của thực tế sản xuất để
góp phần vào việc tìm hiểu nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón nói chung và
phân hữu cơ nói riêng tôi được giao nhiệm vụ tiến hành đề tài: “ Ảnh hưởng
của lượng phân hữu cơ đến sinh trưởng và phát triển cây đậu trạch tại
trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên”.
3
1.1.1. Mục đích
Xác định được lượng phân bón hữu cơ thích hợp cho đậu trạch sinh
trưởng, phát triển tốt và đạt hiệu quả cao.
1.1.2. Yêu cầu
- Đánh giá ảnh hưởng của phân bón đến động thái tăng trưởng chiều
cao cây đậu trạch.
- Đánh giá ảnh hưởng của phân bón đến tốc độ tăng trưởng chiều cao
cây đậu trạch.
- Đánh giá ảnh hưởng của phân bón đến động thái ra lá của đậu trạch.
- Đánh giá ảnh hưởng của phân bón đến tình hình sâu, bệnh hại đậu trạch.
- Đánh giá ảnh hưởng của phân bón đến chỉ tiêu theo dõi quả đậu trạch.
- Đánh giá ảnh hưởng của phân bón đến các yếu tố cấu thành năng suất
và năng suất cây đậu trạch.
- Đánh giá ảnh hưởng của phân bón đến hiệu quả kinh tế cây đậu trạch.
1.1.3. Ý nghĩa
- Ý nghĩa trong học tập: Giúp học viên vận dụng kiến thức lý thuyết
vào thực tiễn sản xuất. Giúp học viên biết cách hoàn thành một khóa luận
tốt nghiệp.
- Ý nghĩa trong nghiên cứu khoa học: Giúp học viên tiếp cận với công
tác nghiên cứu khoa học, nâng cao kiến thức chuyên môn. Đồng thời, học
viên học được tác phong làm việc nghiêm túc, sáng tạo, hiệu quả, tiếp thu
được những kinh nghiệm mà chỉ có thể có được trong thực tiễn.
- Ý nghĩa trong sản xuất: Việc thực hiện đề tài là cơ sở để xác định mức
phân bón thích hợp cho đậu trạch sinh trưởng, phát triển tốt, đạt năng suất cao
và đảm bảo chất lượng. Thay đổi một phần tập quán canh tác của nông dân tại
địa phương. Tạo điều kiện phát triển hơn về cây đậu trạch nói riêng và cây rau
nói chung tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Từ đó mở rộng sản
xuất sang các tỉnh lân cận.
4
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học
Quá trình sinh trưởng, phát triển và khả năng cho năng suất của cây
trồng phụ thuộc chủ yếu vào tác dụng tổng hợp của 4 yếu tố: ánh sáng, nhiệt
độ, nước và dinh dưỡng. Trong điều kiện sản xuất, việc điều khiển các yếu tố
để tăng cường sự sinh trưởng, phát triển của cây trồng rất khác nhau. Điều
khiển chế độ nước, dinh dưỡng dễ dàng hơn và thực tế người ta coi phân bón
là đòn bẩy tăng năng suất cây trồng.
Tuy nhiên, bón nhiều phân chưa hẳn đã tốt, nồng độ hóa học cao có thể
gây hại đối với cây trồng đồng thời ảnh hưởng xấu tới môi trường và sức khỏe
con người. Cây trồng cũng như các sinh vật khác, cơ thể có những giới hạn
chịu đựng nhất định, vượt quá giới hạn đó cơ thể bị hủy hoại. Bón một lượng
phân lớn vượt quá nhu cầu của cây còn gây ra lãng phí, tồn dư trong đất và
sản phẩm tăng.
Trong nhiều trường hợp, năng suất cây trồng cao chưa hẳn đảm bảo
hiệu quả kinh tế, chất lượng sản phẩm giảm. Phân bón thường mang lại hiệu
quả kinh tế cao khi lượng phân sử dụng hợp lý. Trong những giới hạn xác
định, năng suất cây trồng tăng khi phân bón tăng. Tiếp tục tăng lượng phân,
năng suất tiếp tục tăng nhưng hiệu quả kinh tế bắt đầu giảm xuống, đến một
giới hạn nào đó, cả năng suất và hiệu quả kinh tế giảm xuống đến lúc không
còn hiệu quả nữa.
Bón phân hợp lý là tìm ra lượng phân bón thích hợp để vừa đạt năng
suất cao, vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế của việc sử dụng phân bón (hình 1.1).
Mỗi một nguyên tố dinh dưỡng có những vai trò nhất định đối với quá
trình sinh trưởng, phát triển và năng suất cây trồng.
5
Hình 1.1: Đồ thị năng suất cây trồng và hiệu quả kinh tế
của lượng phân bón sử dụng
Nguồn: Đường Hồng Dật [3]
Mặt khác, chi phí phân bón trong nông nghiệp chiếm đến 30% - 50% .
trong đó, mục đích của người sản xuất không chỉ nhằm đặt năng suất tối đa
mà còn tìm lợi nhuận cao nhất, cho nên con người phải tìm đến những biện
pháp kỹ thuật bón phân cân đối hợp lý cho từng loại cây trồng khác nhau.
Vì vậy, trong việc sử dụng phân hữu cơ hay bất cứ loại phân nào khác
ta phải sử dụng hợp lý cho từng loại cây trồng, giai đoạn sinh trưởng, loại đất,
nước, vi sinh vật và mùa vụ khác nhau…đồng thời, bón đúng chủng loại,
đúng lúc, đúng cách, đúng nông độ, liều lượng, đảm bảo hời gian cách ly.
Như vậy, sẽ góp phần tăng hiệu suất sử dụng phân bón, tránh lãng phí và bảo
vệ môi trường.
2.1.1. Giá trị của cây rau
2.1.1.1. Giá trị dinh dưỡng
Khi xã hội ngày một phát triển thì việc dùng rau trong bữa ăn ngày
càng tăng. Trong khẩu phần ăn của người dân hiện nay rau cung cấp khoảng
95% - 99% nguồn vitamin A, 60 - 70% nguồn vitamin B
2
, gần 100% vitamin
C và các loại vitamin khác (Bùi Bảo Hoàn, Đào Thanh Vân, 2000) [6]. Theo
Năng su
ất
-
Hi
ệu quả
Lượng phân bón
Năng suất cây trồng
Hiệu quả kinh tế
Lượng phân hợp lý
6
quan điểm của các nhà dinh dưỡng học để đáp ứng cho nhu cầu thực phẩm
bình thường, mỗi người cần 250 - 300g rau xanh/ngày, khoảng 80 -
100kg/năm. Trong khi đó theo thống kê ở nước ta mới cung cấp được
60g/người/ngày (Trần Khắc Thi, 2006) [8]. Như vậy, mới đáp ứng được 20 -
30% nhu cầu về rau. Đậu trạch là một thức ăn rất thông dụng và còn là một vị
thuốc có giá trị. Thành phần dinh dưỡng gồm Protein (đạm) 0,8g; glucid
(đường) 3,0g; xenlulo (xơ) 0,7g; năng lượng 16 calo; Canxi 23mg; Phospho
27mg; Sắt 1mg; Caroten 0,30 mg; Vitamin B1 0,03mg; Vitamin C 5,0mg.
Thành phần dinh dưỡng trong 100g rau của một số loại rau ở nước ta được thể
hiện qua bảng sau:
Bảng 2.1: Thành phần chất dinh dưỡng trong 100g rau ở một số loại rau
(theo bảng thành phần hóa học thức ăn ở nước ta)
TT
Loại rau
Thành phần hoá học
(g%)
Calo
cho
100g
Muối
khoáng
(mg%)
Vitamin (mg%)
Pr
H
2
O
Glu
Xenlulo
Ca
P Fe
Caroten
B1 B2 C
1 Bầu 6,0
91,5
2,9
1,0 14 21
25
0,2
0,02 0,02
0,03
12
2 Cà rốt 1,5
88,0
8,0
1,2 39 43
39
0,8
1,90 0,06
0,06
8
3 Cà chua 6,0
94,0
4,2
0,8 20 12
26
1,4
2,00 0,06
0,04
10
4 Đậu đũa 6,0
83,0
8,3
12,0 59 47
26
1,6
0,50 0,29
0,18
3
5 Cải bắp 1,8
90,0
5,4
1,6 30 48
31
1,1
0,01 0,06
0,05
36
6 Rau muống
3,2
92,0
2,5
1,5 23 100
37
1,4
2,90 0,04
0,09
3
7 Su hào 2,8
88,0
6,3
1,7 37 46
50
0,6
0,15 0,06
0,05
40
8 Súp lơ 2,5
90,9
4,9
0,9 30 26
51
1,4
0,05 0,11
0,10
70
9 Dưa chuột 0,8
95,0
3,0
0,7 16 23
27
1,0
0,30 0,03
0,04
5
Nguồn: Bảng thành phần hóa học thức ăn Việt Nam năm 1972
(Nguyễn Thúy Hà, 2010) [5]
2.1.1.2. Giá trị kinh tế
Rau là một mặt hàng xuất khẩu giá trị và có ý nghĩa chiến lược.
Rau là cây trồng đem lại nhiều lợi nhuận góp phần phát triển kinh tế
quốc dân đáng kể, ngoài ra rau còn là mặt hàng có giá trị xuất khẩu có giá
trị cao. Trong những năm gần đây thị trường rau được mở rộng năm 2000
7
tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta là 200 triệu USD. Năm 2003 là 150
triệu USD.
Các loại rau chính xuất khẩu của Việt Nam là dưa chuột, cà chua, cà
rốt, hành, ngô rau, đậu rau , ớt cay, nấm Trong đó dưa chuột và cà chua có
nhiều triển vọng và chúng có thị trường tương đối ổn định. Thị trường xuất
khẩu rau chủ yếu của Việt Nam là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản,
Australia, Singapore, Hàn Quốc, Mỹ Hàng năm lượng rau được xuất khẩu
rất nhiều cả về số lượng và chủng loại.
Rau góp phần phát triển các nghành kinh tế khác như: Ngành chăn
nuôi, rau là nguồn thức ăn cho chăn nuôi.
2.1.1.3.Giá trị khác
- Giá trị y học
Rau không những có giá trị dinh dưỡng cao mà còn được sử dụng như
cây dược liệu quý: hành hoa, gừng, nghệ, tía tô… Đặc biệt là cây tỏi ta được
xem là cây dược liệu quý trong nền y học cổ truyền của nhiều nước. Người ta
cho rằng nếu ăn mướp đắng và bí ngô thường xuyên thì có thể phòng chống
bệnh đái tháo đường.
- Giá trị xã hội
Khi ngành sản xuất rau được phát triển một cách nhanh chóng và vững
chắc sẽ góp phần làm tăng thu nhập cho người dân lao động, thỏa mãn nhu
cầu ngày càng cao của con người, đồng thời đáp ứng yêu cầu của công cuộc
xây dựng đất nước.
Khi sản xuất rau được coi là một nghề thì những khu chuyên canh rau
sẽ được mở rộng, sẽ có điều kiện để sắp xếp lao động một cách hợp lý, giải
quyết việc làm cho người nông dân lúc nông nhàn.
2.1.2. Vai trò của phân bón trong sản xuất nông nghiệp
Bằng kinh nghiệm sản xuất của mình nông dân Việt Nam đã đúc kết
“nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Câu nông dao trên đã khẳng định
vai trò của phân bón trong hệ thống liên hoàn tăng năng suất cây trồng. Phân
hữu cơ không chỉ có nhiệm vụ cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng sinh
trưởng và phát triển, mà còn có tác dụng tăng chất hữu cơ cho đất thông qua
việc làm tăng sinh khối cây trồng.
8
Trong mấy thập kỷ vừa qua năng suất cây trồng đã không ngừng tăng
lên, ngoài vai trò của giống mới, phân bón cũng có vai trò quyết định. Giống
mới chỉ có thể phát huy được tiềm năng, cho năng suất cao nhất khi được bón
đầy đủ và hợp lý. FAO đã tổng kết bón phân không cân đối làm giảm hiệu
suất sử dụng 20-50%.
Cây trồng hút chất dinh dưỡng từ đất và từ phân bón để tạo nên sản
phẩm của mình sau khi kết hợp với sản phẩm của qúa trình quang hợp, cho
nên sản phẩm nông nghiệp phản ánh tình hình đất đai và việc cung cấp thức
ăn cho cây. Nhờ có phân bón mà phẩm chất nông sản được nâng cao. Bón
phân không cân đối làm giảm chất lượng nông sản.
Phân hữu cơ vi sinh là loại phân bón bao gồm nhiều chủng vi sinh vật
hữu ích như: Vi sinh vật cố định đạm, vi sinh vật phân giải lân, phân giải
xelluloza, và các chất khó tan, vi sinh vật kích thích quá trình quang hợp, vi
sinh vật kháng bệnh Kết hợp với các sản phẩm hữu cơ có nguồn gốc tự
nhiên như: Than bùn, bùn thải từ các ao hồ, rác thải trong sinh hoạt, các sản
phẩm phụ nông nghiệp Qua quá trình phân giải tạo mùn và cung cấp các
nguyên tố cần thiết cho cây trồng, đồng thời có tác dụng cải thiện độ phì cho
đất, bảo vệ môi trường.
Nền nông nghiệp thế kỷ 21 là nền nông nghiệp sạch, nền nông nghiệp
sinh thái. Nhiệm vụ của loài người là phải tạo nên một nền nông nghiệp bền
vững trong đó giảm tối đa các chất phế thải, cũng như giảm tối đa việc mất
chất dinh dưỡng để không làm ô nhiễm môi sinh, ngăn chặn việc thải nitotrat
vào nguồn nước uống, ngăn việc thải các chất oxit nito bắt nguồn từ quá trình
khử đạm trong nông nghiệp để làm phá hoại tầng ozon. Nông nghiệp thế kỷ
21 cùng với việc sử dụng tối thích phân hóa học phải làm cho đất phát huy
tích cực hơn. Đất trở thành nơi đồng hóa chất thải, biến chất thải thành nguồn
các chất dinh dưỡng. Trong việc nghiên cứu phân bón không chỉ chú ý đến
việc tăng năng suất mà phải đánh giá chất lượng sản phẩm. Biện pháp bón
phân đưa ra phải không gây ô nhiễm môi trường sống, để vừa đảm bảo tăng
được sản lượng mà vẫn đảm bảo chất lượng cũng như môi trường. Ta phải
bón phân hợp lý phù hợp cho mỗi loại cây trồng, mỗi giai đoạn sinh trưởng,
mỗi loại đất, nước và mùa vụ khác nhau…Tuy nhiên cũng phải bón đúng
9
chủng loại, đúng lúc, đúng đối tượng, đúng thời vụ, đúng cách bón và bón
theo nhu cầu của cây. Ngoài ra để tăng năng suất cây trồng với hiệu quả kinh
tế cao nhất thì chúng ta cũng phải có những biện pháp làm hạn chế tối đa
lượng phân bón dư thừa trong đất do bón quá liều. Như vậy sẽ góp phần tăng
hệu suất sử dụng phân bón, tránh lẵng phí và ô nhiễm môi trường.
2.2. Tình hình sản xuất rau trên thế giới và Việt Nam
2.2.1. Tình hình sản xuất rau trên thế giới
Hiện nay trên thế giới có nhiều chủng loại rau được gieo trồng, diện
tích trồng rau ngày càng gia tăng để đáp ứng nhu cầu về rau của người dân
(Mai Phương Anh và cs, 1996) [1]. Năm 1961-1965 tổng lượng rau của thế
giới là 200.234 tấn, nhưng từ năm 1971-1975 tổng lượng rau đạt 293.657 tấn
và từ năm 1981-1985 là 392.060 tấn, đến năm 1996 đã lên đến 565.523 tấn.
Như vậy chúng ta thấy sản lượng rau trên thế gới tăng lên rất nhanh, điều đó
chứng tỏ nhu cầu rau của con người ngày càng tăng.
Trong nhiều năm gần đây, tình hình sản xuất rau trên thế giới không
ngừng phát triển cả về diện tích và sản lượng, số liệu FAO được thống kê và
được trình bày tại bảng 2.2.
Bảng 2.2: Tình hình sản xuất rau trên thế giới từ 2008 - 2012
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
2008 52,81 188,413 994,98
2009 54,03 188,629 1019,10
2010 55,72 188,210 1048,71
2011 56,81 191,371 1087,12
2012 57,27 193,133 1106,13
(Nguồn: FAOSTAT, 2014)[12]
Theo thống kê của FAO, diện tích trồng rau năm 2008 là 52,81 triệu ha
nhưng đến năm 2012 đã mở rộng lên tới 57,27 triệu ha, tăng so với năm 2008
là 4,46 triệu ha, tăng 8,45% so với năm 2008. Như vậy, diện tích trồng rau
trên thế giới đang tăng lên, nguyên nhân là do người nông dân đang chuyển
một phần diện tích trồng cây ngũ cốc và cây lấy sợi sang trồng rau.
10
Năng suất rau bình quân trên thế giới không biến động nhiều đạt từ
188,413 - 193,133 ta/ha qua 5 năm, bởi diện tích trồng rau hiện nay không tập
trung về tăng năng suất mà chú trọng hơn đến viêc tăng chất lượng sản phẩm.
Về sản lượng rau hàng năm thu được theo chiều hướng tăng dần tính
đến năm 2012 đạt 110,61 triệu tấn, tăng hơn so với năm 2008 là 111,15 triệu
tấn, tương đương 11,17%. Sở dĩ trong những năm từ 2008 đến năm 2011 sản
lượng rau tăng nhanh như vậy là do diện tích trồng trong những năm gần đây
tăng lên và do người trồng rau đã ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên
tiến đến phục vụ sản xuất.
Bảng 2.3: Tình hình sản xuất rau Châu Á
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
( ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
( tấn)
2008 38.072.963 197 750.126.706
2009 38.843.676 197 765.562.963
2010 40.410.736 197 799.541.157
2011 41.582.219 200 832.464.119
2012 41.970.062 202 850.229.687
(Nguồn: FAOSTAT, 2014)[12]
Bảng 2.4: Tình hình sản xuất rau Trung Quốc
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
( ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
( tấn)
2010 23.621.416 230 545.437.622
2011 24.358.417 231 562.710.572
2012 24.698.349 233 576.658.849
(Nguồn: FAOSTAT, 2014)[12]
Trung Quốc là nước có sản lượng rau cao nhất thế giới, cao hơn nhiều
so với Mỹ, Nhật, Pháp, Thái Lan, Việt Nam và nhiều nước khác. Ở Châu Á,
Trung Quốc là nước có sản lượng rau cao nhất, tiếp đến là Ấn Độ, còn ở nước
11
ta sản lượng rau ở mức thấp nhất. Bên cạnh sự gia tăng về năng suất và sản
lượng thì chất lượng rau cũng được nhiều nước trên thế giới quan tâm, nhiều
công nghệ tiên tiến ra đời và việc kiểm soát dư lượng hóa chất tồn đọng trong
rau ngày càng được thực hiện triệt để hơn.
Về tiêu thụ rau trên thế giới theo FAO dự báo trong thời gian tới hàng
năm tăng bình quân 3,6%, trong khi tốc độ tăng trưởng chỉ khoảng 2,8%, như
vậy thị trường rau trên thế giới chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ. Trong
những năm qua nhu cầu nhập khẩu rau bình quân trên thế giới tăng 1,8% mỗi
năm. Các nước và vùng lãnh thổ có nhu cầu nhập khẩu rau cao đó là Pháp,
Đức, Canada. Một số nước có lượng rau xuất khẩu lớn nhất trên thế giới đó là
Trung Quốc, Italia, Hà Lan. Theo dự báo cảu FAO ước tính đến năm gần đây
giá xuất khẩu rau tươi tăng cao, như vậy rau tươi là một trong những mặt
hàng nông nghiệp xuất khẩu có giá trị, hơn nữa nhu cầu rau trên thế giới ngày
một tăng, bởi vậy rau có vị trí lớn trên thị trường thế giới.
2.2.2. Tình hình sản xuất rau ở Việt Nam
Tác giả Tạ Thu Cúc cho biết, nước ta có lịch sử trồng rau từ lâu đời,
ngay từ đời vua Hùng người ta đã phát hiện thấy bầu, bí được trồng trong
vườn gia đình. Theo sổ sách ghi chép rau được nhập vào nước ta từ thế kỷ X.
Thế kỷ X các vùng trồng chuyên canh rau đã được hình thành và phát triển.
Mặc dù nghề trồng rau ở nước ta ra đời từ rất sớm, trước cả nghề trồng lúa
nước nhưng sản xuất rau còn manh mún, các chủng loại rau còn nghèo nàn,
diện tích và sản lượng rau thấp so với tiềm năng đất đai khí đất đai, khí hậu
Việt Nam.
So với các loại cây trồng khác thì sản xuất rau đem lại hiệu quả kinh tế
khá cao. Theo các kết quả nghiên cứu của đề tài cấp nhà nước KC.06.10 NN
trong giai đoạn 2001 - 2004, mỗi ha trồng lúa nước ở đồng bằng sông Hồng
thu nhập bình quân 10,2 - 11,6 triệu đồng/ha/2 vụ, nếu trồng thêm một vụ rau
đông với thu nhập bình quân 21 triệu đồng sẽ gần gấp đôi hai vụ lúa (Trần
Khắc Thi, 2003) [8].
12
Bảng 2.5: Tình hình sản xuất rau ở Việt Nam 2008 - 2012
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
( tấn)
2008 690.620 111 7.724.502
2009 787.890 115 9.064.085
2010 818.088 109 8.975.534
2011 835.918 107 9.014.988
2012 848.200 111 9.439.000
(Nguồn: FAOSTAT, 2014)[12]
Qua bảng 2.5 cho thấy:
Theo số liệu thống kê của FAO những năm gần đây diện tích trồng rau
của ta ngày càng được mở rộng từ 690.620 ha năm 2008 lên 848.200 ha năm
2012. Diện tích tăng nhanh từ năm 2008 đến năm 2010 qua 5 năm diện tích
tăng 157.58 ha.
Theo tài liệu của tác giả Phạm Thị Thùy rau ở nước ta năng suất còn
thấp và bấp bênh năm 1998 năng suất cao nhất chỉ đạt 144,8 ta/ha bằng 80%
so với mức trunhg bình của toàn thế giới (xấp xỉ 180 ta/ha). Nếu so với năm
1990 là 123,5 ta/ha thì năng suất bình quân cả nước trong 10 năm cũng chỉ
tăng 11,5 ta/ha. Hà Nội,Vĩnh Phúc, Hải Phòng, TP.Hồ Chí Minh, Đà Lạt là
các tỉnh có năng suất rau cao hơn cả nhưng cũng chỉ đạt năng suất bình quân
ở mức 160 tạ/ha. Năng suất trung bình thấp nhất ở các tỉnh miềm Trung, chỉ
bằng một nửa so với năng suất trung bình cả nước. Số liệu thống kê của FAO
những năm gần đây năng suất tương đối ổn định đạt 115 tạ/ha.
Sản lượng rau có chiều hướng ra tăng, năm 2000 đạt hơn 6 triệu tấn
tăng 81% so với năm 1990, mức tăng sản lượng trung bình hằng năm từ 1990-
2000 là xấp xỉ 260 nghìn tấn. Do diện tích tăng nhanh dẫn đến sản lượng rau
ở nước ta tăng lên đáng kể từ 7.724.502 tấn, năm 2008 tăng lên 9.064.085 tấn
năm 2009, đến năm 2010 lại giảm xuống 8.975.534 tấn, năm 2012 sản lượng
rau lại tăng lên 9.439.000 tấn. Sản lượng rau của nước ta được thu chủ yếu từ
2 vùng chính đó là vùng chuyên canh rau ven thành phố và vùng rau luân
canh với cây lương thực.
13
Tuy nhiên, cùng với sự hình thành và phát triển của các thành phố, khu
công nghiệp, khu dân cư thì các vùng trồng rau mới cũng được hình thành và
phát triển nhằm cung cấp thực phẩm cho người tiêu dùng.
2.3. Tình hình sản xuất sử dụng phân bón trên thế giới và Việt Nam
2.3.1 Tình hình sản xuất sử dụng phân bón trên thế giới
Phân bón có vai trò vô cùng quan trọng trong sản xuất nông nghiệp.
Ngay từ thời cổ đại, người Trung Quốc và Hi lạp đã biết sử dụng tro đốt và
phân chăn nuôi để bón cho cây trồng.
Trên thế giới việc xử lý phế thải chăn nuôi được quan tâm đáng kể,
hiện nay phương pháp khí sinh học sản xuất từ phế thải chăn nuôi được sử
dụng tương đối rộng rãi tại các cơ sở chăn nuôi nhỏ ở các nước như Trung
Quốc, Ấn Độ, Nêpan hoặc các trang trại tập trung ở Đức, Mỹ. Ưu điểm của
phương pháp là dễ làm, đầu tư ít ở quy mô nhỏ 9 (www. vnexpress.net) [14].
Trước năm 1970, công ty Groeikraga Organic Fertilizea ở Nam Phi đã
sản xuất phân ủ (compost) từ nguồn nguyên liệu là phân chim và amoni
carbonat. Năm 1982, Công ty Dickerson Composting Plant ở Mỹ đã sản xuất
100.000 tấn compost trị giá 7.000.000 USD. Theo T.C Juang, từ năm 1986 ở
Đài Loan đã phát triển sản xuất compost. Hàng chục loại compost được tung
ra thị trường phục vụ cho sản xuất thuốc lá, chè, ngô Cũng như Đài Loan,
các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Philippin, Indonesia đã sản xuất
và sử dụng compost rộng rãi cho nhiều loại cây trồng: cọ dầu, cao su, mía,
lúa Tại ấn Độ sản lượng phân hữu cơ từ các nguồn phế thải khác nhau là
1750 triệu tấn đạt giá trị hàng hoá 536 triệu USD. Tại Thái Lan số lượng phân
hữu cơ do các cơ sở nhà nước sản xuất là 24.000 tấn cùng với 100.000 tấn do
các công ty tư nhân sản xuất. (Phạm Văn Toản, Trần Huy Lập, Nguyễn Kim
Vũ, Bùi Huy Hiền (2004) [9]. Công ty Farmatic Biotech Energy, Đức xây
dựng nhà máy phân huỷ kỵ khí, nhà máy khí sinh vật có công suất xử lý cao
nhất 146.000 tấn phân trâu bò, gia cầm, kể cả phế thải lương thực hữu cơ
(Trần Cẩm Vân, Bạch Phương Lan (1995) [10].
2.3.2 Tình hình sản xuất sử dụng phân bón ở Việt Nam
Trong những năm qua, phân bón vi sinh vật đã thể hiện vai trò quan
trọng trong sản xuất nông nghiệp.
14
Tuy nhiên do hệ vi sinh vật rất đa dạng và mỗi vi sinh vật trong đất đều
chịu nhiều tác động qua lại của các vi sinh vật khác cũng như điều kiện môi
trường nên hiệu quả của các sản phẩm vi sinh trong các điều kiện khác nhau
không giống nhau. Tại nhiều quốc gia như Ấn Độ, Trung Quốc; Đức; Nhật,
Mỹ, Anh, Úc người ta ngày càng chú ý nhiều đến các sản phẩm phân vi sinh
vật hỗn hợp bao gồm tập hợp các nhóm vi sinh vật cố định nitơ, phân giải.
lân, kích thích sinh trưởng thực vật, đối kháng vi sinh vật gây bệnh vùng rễ
cây trồng do tác dụng tổng hợp của nó đối với đất, cây trồng và môi trường
sinh thái. Các sản phẩm phân bón vi sinh vật chuyên tính như cố định nitơ hay
phân giải lân đang dần dần được thay bằng sản phẩm vi sinh vật hỗn hợp.
Thực tế sử dụng ở nhiều nơi cho thấy, phân vi sinh vật đa chủng trên nền hữu
cơ đang là nhân tố quan trọng trong sản xuất nông phẩm hữu cơ. Việt Nam là
đất nước nông nghiệp có nhiều lợi thế về điều kiện khí hậu, đất đai, sự đa
dạng sinh học cũng như nhân lực sản xuất. Nông nghiệp Việt Nam đã có
nhiều phát triền vượt bậc, song lợi nhuận do sản xuất nông nghiệp mang lại
vẫn còn rất thấp. Để phù hợp với cơ chế thị trường nông sản Việt Nam cần
nâng cao chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường
trong nước và quốc tế. Nông sản hữu cơ đang là sản phẩm được người tiêu
dùng ở các nước công nghiệp ưa chuộng và có tiềm năng mở rộng thị trường
ngày càng lớn. Quản lý dinh dưỡng tổng hợp cây trồng kết hợp với quản lý
dịch hại tổng hợp là điều kiện tiên quyết cho sản xuất bền vững các nông sản
an toàn. Kết hợp các tiến bộ kỹ thuật về phân bón vi sinh vật, phân bón sinh
học và kiểm soát sinh học dịch hại cây trồng, tạo ra giải pháp tổng hợp chăm
bón cây và đất trồng là xu hướng phát triển chính của nền nông nghiệp hữu cơ
bền vững, trong đó phân vi sinh vật là yếu tố cơ sở quan trọng.(Nguyễn Minh
Hưng và cs, 2007) [7].
Sản phẩm phân bón vi sinh vật trong tương lai không xa sẽ được tạo ra
từ tổ hợp các vi sinh vật nhiều hoạt tính. Khi đó vi sinh vật trong phân bón
vừa có nhiệm vụ cung cấp, chuyển hóa chất dinh dưỡng, tạo điều kiện cho cây
trồng sử dụng dinh dưỡng hiệu quả hơn, vừa có tác dụng nâng cao độ phì của
đất trồng, giảm thiểu các tác động sinh học và không sinh học bất lợi đối với
cây và đất trồng.
15
Mặt khác, môi trường ở nước ta hiện nay đang là vấn đề cấp thiết cần
được quan tâm, đặc biệt phế thải chăn nuôi, ngoài việc gây ô nhiễm môi
trường thì việc giảm năng suất chăn nuôi là điều không tránh khỏi. Chính vì
vậy, các nghiên cứu của Viện Chăn nuôi, Viện Công nghệ Môi trường kết hợp
Viện Thú y Quốc gia và chương trình Asia ProEco của liên minh Châu Âu tại
Việt Nam đã tập trung vào việc đánh giá mức độ ô nhiễm trong chăn nuôi và
xác định hầu hết phế thải chăn nuôi của Việt Nam không được xử lý.
Trong số các phế thải chăn nuôi chỉ có khoảng 50% được xử lý bằng
các biện pháp truyền thống, số còn lại được người dân sử dụng trực tiếp
không qua xử lý. Nồng độ khí H
2
S và NH
3
tổng số vi sinh vật, bào tử nấm, vi
trùng gây bệnh cho gia súc và người trong đất, nước, không khí tại các khu
vực chăn nuôi và vùng phụ cận đều cao hơn mức cho phép từ vài lần đến
hàng chục lần, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng (www. vnexpress.net)
[14]. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra sự bùng phát của các loại
dịch bệnh cho gia súc, gia cầm trong những năm qua và tác động tiêu cực đến
ngành chăn nuôi ở Việt Nam. Các vấn đề về môi trường ở các khu vực chăn
nuôi đã và đang xuất hiện với xu hướng ngày càng tăng về quy mô và mức độ
nghiêm trọng. Phế thải chăn nuôi, đặc biệt là các vùng chăn nuôi tập trung đã
và đang là những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường đất, nước và không
khí, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng.
Xử lý phế thải chăn nuôi chỉ được quan tâm trong thời gian gần đây,
khi chăn nuôi trang trại ở quy mô tập trung được hình thành và phát triển.
Công nghệ biogas đã được triển khai ứng dụng tại các hộ chăn nuôi mang lại
hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường tương đối rõ rệt. "Kỹ thuật hầm ủ
Biogas" của Hội làm vườn Việt Nam đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công
nhận là tiến bộ kỹ thuật và cho áp dụng vào sản xuất từ tháng 10/2002 (QĐ
414-BNN-KHCN) (www.baohatay.com.vn) [13]. Tuy nhiên công nghệ này
được xây dựng trên cơ sở công nghệ biogas của Trung Quốc ở quy mô nhỏ
16
nên vẫn còn một số hạn chế như hiệu suất thu hồi khí chưa cao và khả năng ô
nhiễm từ chất lỏng và chất lắng cặn sau sản xuất biogas vẫn còn tồn tại, trong
đó phân bón hữu cơ vi sinh vật trên cơ sở bã thải của hầm biogas đang là giải
pháp xử lý bã cặn của hầm ủ biogas được Liên hiệp các hội khoa học Việt
Nam nghiên cứu và triển khai vào sản xuất (www. vnexpress.net) [14].
Tại Việt Nam, trong khuôn khổ dự án sản xuất thử nghiệm KC 04 -
DA11, năm 2005 Bộ môn Vi sinh vật - Viện Thổ nhưỡng Nông hóa đã sản
xuất thử nghiềm thành công 2500 kg chế phẩm Compost Maker phục vụ cho
sản xuất hàng nghìn tấn phân bón hữu cơ sinh học từ nguồn phế thải chăn
nuôi (Phạm Văn Toản, 2005) [9].