Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

So sánh một số giống lúa cạn vụ mùa năm 2013 tại huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.51 MB, 78 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM


ĐẶNG VĂN ĐỨC

Tên đề tài:

“SO SÁNH MỘT SỐ GIỐNG LÚA CẠN VỤ MÙA NĂM 2013
TẠI HUYỆN ÐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN”


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo : Chính quy

Chuyên ngành : Trồng trọt
Khoa : Nông học
Khóa học: : 2010 - 2014
Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Ðức Thạnh






Thái Nguyên, năm 2014

i


LỜI CẢM ƠN
Bước chân vào giảng đường đại học em thấy mình thật may mắn. Đặc
biệt, được khoác trên mình dòng chữ “Sinh viên trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên”, một ngôi trường đã gắn bó với biết bao thế hệ đi trước, có trên
bốn mươi năm kinh nghiệm giảng dạy và đào tạo đội ngũ cán bộ trong lĩnh
vực Nông – Lâm – Ngư nghiệp cho các tỉnh Trung du và Miền núi phía Bắc
Việt Nam.
Thực tập tốt nghiệp là khâu cuối cùng của tất cả các sinh viên trước khi
ra trường, nó như là trang giấy cuối cùng tổng kết lại tất cả những gì đã viết
trong một cuốn sách cũng như là bài tổng kết lại quá trình học tập, rèn luyện
về đạo đức, kỹ năng và tư cách của một người sinh viên.
Được sự nhất trí của Ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa
Nông học, em đã tiến hành thực hiện đề tài: “So sánh một số giống lúa cạn
vụ mùa năm 2013 tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên”. Qua đây, em xin
được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới toàn thể các thầy giáo, cô
giáo trong nhà trường, gia đình, bạn bè đã cùng em đi suốt chặng đường vừa
qua. Đặc biệt, em muốn cảm ơn tới thầy giáo TS. Nguyễn Đức Thạnh đã tận
tình hướng dẫn trong suốt thời gian em thực tập tại trường.
Do kiến thức và thời gian còn hạn chế nên trong khóa luận không tránh
khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em hy vọng rằng sẽ nhận được những ý kiến
đóng góp chân thành từ các thầy, các cô và các bạn để khóa luận của em ngày
một hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái nguyên, ngày tháng năm 2014
Sinh viên


Đặng Văn Đức
ii
MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU i
MỤC LỤC ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT iv
DANH MỤC CÁC BẢNG v
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Ý nghĩa của đề tài 3
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4
1.2. Một số khái niệm về lúa cạn 5
1.3. Nguồn gốc và phân loại lúa cạn 6
1.3.1. Nguồn gốc lúa cạn 6
1.3.2. Phân loại lúa cạn 8
1.4. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới và ở Việt Nam 9
1.4.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới 9
1.4.2. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam 13
1.5. Tình hình nghiên cứu, sản xuất lúa cạn trên thế giới và ở Việt Nam 16
1.5.1. Tình hình nghiên cứu, sản xuất lúa cạn trên thế giới 16
1.5.2. Tình hình nghiên cứu, sản xuất lúa cạn ở Việt Nam 27
Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 33
2.1. Đối tượng nghiên cứu 33
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 33
2.3. Nội dung nghiên cứu 33
iii

2.4. Phương pháp bố trí thí nghiệm 33
2.5. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi, đánh giá 35

2.5.1. Thời gian sinh trưởng, phát triển 35
2.5.2. Các đặc tính nông học 36
2.5.3. Khả năng chống chịu của các giống lúa thí nghiệm 40
2.5.4. Chỉ tiêu về chất lượng hạt gạo 43
2.5.5. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất 44
2.5.6. Phương pháp xử lý số liệu 45
Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 46
3.1. Thời gian sinh trưởng của các giống lúa thí nghiệm 46
3.2. Một số đặc điểm nông học của các giống lúa thí nghiệm 47
3.3. Một số đặc điểm hình thái của các giống lúa thí nghiệm 49
3.4. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa thí nghiệm 50
3.5. Khả năng chống chịu sâu bệnh của các giống lúa thí nghiệm 53
3.6. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất
của các giống lúa thí nghiệm 55
3.7. Chất lượng gạo của các giống lúa tham gia thí nghiệm 60
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 63
1. Kết luận 63
2. Đề nghị 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO 64
I. Tài liệu tiếng Việt 64
II. Tài liệu nước ngoài 65
PHỤ LỤC 68



iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CIAT : Central International Agriculture Tropical
FAO : Food and Agriculture Organisation

IITA : International Institute of Tropical Agriculture
IRRI : International Rice Research Institute
WARDA : West Africa Rice Development Association





















v
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới trong vài thập kỷ gần đây 9

Bảng 1.2. Tình hình sản xuất lúa gạo của 10 nước đứng đầu thế giới 2012 11


Bảng 1.3. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam qua các thời kỳ 1970-2012 14

Bảng 3.1. Thời gian sinh trưởng của các giống lúa thí nghiệm 46

Bảng 3.2. Đặc tính nông học của các giống lúa thí nghiệm 47

Bảng 3.3. Các đặc điểm hình thái của các giống lúa thí nghiệm 49

Bảng 3.4. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa thí nghiệm 51

Bảng 3.5. Khả năng chống chịu sâu bệnh của các giống lúa thí nghiệm 53

Bảng 3.6. Các yếu tố cấu thành năng suất của các giống lúa thí nghiệm 56

Bảng 3.7. Năng suất các giống lúa tẻ điển hình 57

Bảng 3.8. Năng suất các giống lúa nếp điển hình 58

Bảng 3.9. Một số chỉ tiêu chất lượng gạo 61








1
MỞ ĐẦU


1. Đặt vấn đề
Việt Nam là một trong những nước rất phong phú, đa dạng về các hệ
sinh thái, về các loài và về tài nguyên di truyền. Hàng ngàn năm qua và ngay cả
hiện nay cũng như một số thập kỷ sắp tới người dân Việt Nam sống chủ yếu phải
dựa vào tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên sinh học. Không chỉ ở Việt
Nam mà ở hầu hết các nước trên thế giới, các sản phẩm nông nghiệp, lâm
nghiệp, thuỷ sản v.v thực chất là khai thác từ nguồn đa dạng sinh học.
Theo số liệu của FAO, trong khi 75% đa dạng sinh học cây trồng nông
nghiệp đã bị mất trong thời gian từ năm 1900 đến 2000 và 22% đa dạng sinh
học của một số loài cây nông nghiệp khác có thể biến mất vào năm 2055, cho
đến nay, hơn 7 triệu mẫu gen thực vật đã được thu thập, lưu trữ và bảo tồn
trong 1.750 ngân hàng gen trên toàn cầu. Theo FAO, sự đa dạng về thực vật
đang bị đe dọa do việc mất dần nguồn gen mà một trong những lý do chính là
việc thay thế những giống địa phương bằng các giống hiện đại.
Với “Kế hoạch hành động toàn cầu thứ hai đối với các nguồn gen
lương thực và nông nghiệp”, FAO cho rằng một cam kết mới của cộng đồng
quốc tế nhằm bảo đảm quản lý hiệu quả sự đa dạng về thực vật là một thành
phần quan trọng trong cuộc chiến chống đói nghèo và nâng cao an ninh lương
thực trong bối cảnh thế giới đang phải đối mặt với vấn đề biến đổi khí hậu.
Lúa là loài cây trồng rất mẫn cảm với các điều kiện ngoại cảnh và là
cây chịu hạn kém. Những yếu tố sinh thái bất lợi tác động lên quá trình sinh
trưởng và phát triển của cây lúa như lượng mưa, nhiệt độ, ánh sáng không
thuận lợi. Trên thế giới, hàng năm hạn có thể làm giảm tới 70% năng suất cây
trồng nói chung. Ở Việt Nam, hàng năm trung bình mất khoảng 30 vạn tấn
lương thực do thiên tai, trong đó hạn được xem là nhân tố chính làm giảm
năng suất lúa.
2
Bên cạnh lúa nước, lúa cạn cũng chiếm một vị trí quan trọng đối với
nông dân, đặc biệt là dân miền núi. Lúa cạn phân bố ở vùng núi, địa hình đồi

dốc. Việt Nam lúa cạn phân bố chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Đông Bắc Bộ và Tây
Nguyên, nơi có địa hình đồi núi, mưa nhiều nhưng lượng mưa phân bố không
đều dẫn đến hạn cục bộ xảy ra thường xuyên. Do đó việc nghiên cứu tính chịu
hạn và nâng cao khả năng chịu hạn cho cây lúa cạn là một thực tiễn quan
trọng được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu.
Năng suất của các giống lúa cạn thấp do hai nguyên nhân chủ yếu:
Giống xấu và đất nghèo dinh dưỡng, phát triển trên những vùng dân trí thấp
và điều kiện canh tác kém [2]. Tuy năng suất lúa cạn không cao nhưng cây lúa
cạn đã góp phần vào tổng sản lượng lúa một cách đáng kể (từ 20 - 40% ở những
vùng sản xuất lương thực khó khăn), góp phần giải quyết lương thực tại chỗ cho
nhân dân, giảm được công vận chuyển và chủ động lương thực trong một
khoảng thời gian nhất định, phù hợp với điều kiện của nhiều địa phương.
Vấn đề cải tiến giống và kỹ thuật canh tác đã và đang được đặt ra, việc sử
dụng giống lúa có khả năng thích nghi và chống chịu cao là một biện pháp tiết
kiệm chi phí hữu hiệu nhất. Chính vì vậy, để nâng cao và ổn định sản lượng lúa
trong điều kiện khô hạn, nhằm làm giảm thiểu thiệt hại do hạn hán gây ra, việc
thu thập, bảo tồn giống địa phương và chọn tạo ra các giống lúa cải tiến có khả
năng chịu hạn đã trở thành một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay.
Xuất phát từ những vấn đề trên, nhằm bảo tồn nguồn gen và phát triển
canh tác lúa cạn, đồng thời góp phần vào việc ứng phó với biến đổi khí hậu,
chúng tôi tiến hành đề tài: “So sánh một số giống lúa cạn vụ mùa năm 2013
tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
So sánh đánh giá đặc điểm nông học một số giống lúa cạn.

3
3. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa khoa học:
Đánh giá đặc điểm nông học của các giống lúa cạn thu thập được tại
một số tỉnh miền núi phía Bắc là cơ sở cho việc duy trì và bảo tồn nguồn gen

lúa cạn, bảo vệ sự đa dạng sinh học của cây lúa.
* Ý nghĩa thực tiễn:
- Lựa chọn được một số giống lúa cạn có chất lượng khuyến cáo ra sản
xuất với điều kiện đất đai miền núi phía Bắc.
- Làm đa dạng hóa thêm bộ giống lúa.















4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Việt Nam được biết đến như là một trung tâm đa dạng sinh học của thế
giới với các hệ sinh thái tự nhiên phong phú và đa dạng. Các hệ sinh thái
rừng, đất ngập nước, biển, núi đá vôi, v.v… với những nét đặc trưng của vùng
bán đảo nhiệt đới, là nơi sinh sống và phát triển của nhiều loài hoang dã đặc
hữu, có giá trị, trong đó có những loài không tìm thấy ở nơi nào khác trên thế

giới. Tuy nhiên, đa dạng sinh học ở nước ta đang bị suy thoái nhanh. Diện
tích các khu vực có các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị thu hẹp dần. Số
loài và số lượng cá thể của các loài hoang dã bị suy giảm mạnh. Các nguồn
gen hoang dã cũng đang trên đà suy thoái nhanh và thất thoát nhiều. Suy thoái
đa dạng sinh học dẫn đến mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến môi
trường sống của con người, đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước.
Nghề trồng lúa ở Việt Nam có từ cổ xưa và là trung tâm đa dạng về cây
lúa trồng hiện nay [11]. Hiện hay hơn 60% dân số nước ta sống bằng nghề
trồng lúa, nên lúa không chỉ có ý nghĩa về mặt an ninh lương thực mà còn có
giá trị về mặt kinh tế cho nông dân trồng lúa và đặc biệt quan trọng đối với
những bà con dân tộc miền núi. Nước ta có địa hình phức tạp 3/4 lãnh thổ là
đồi núi, địa hình chia cắt và diễn biến khí hậu phức tạp, lượng mưa phân bố
không đều giữa các vùng và các miền trong năm, nên hạn có thể xảy ra bất cứ
mùa nào, vùng nào trong năm.
Nước là thành phần chủ yếu của cây lúa, nếu lấy 100g lá lúa tươi đem
sấy thì lượng lá khô chỉ còn lại 12g (còn 88g là lượng nước bốc hơi), đem
phần lá khô đốt cháy hoàn toàn thì lượng tro còn lại là 1,5g. Với 88% trọng
lượng cây lúa, nước là thành phần chủ yếu và cực kỳ quan trọng đối với đời
sống cây lúa. Sự khan hiếm về nước tưới phục vụ cho nông nghiệp đã được báo
động trong nhiều hội nghị khoa học của thế giới gần đây. Khô hạn sẽ là yếu tố
5
quan trọng bậc nhất ảnh hưởng đến an toàn lương thực của thế giới. Tài nguyên
nước phục vụ cho nông nghiệp không phải là vô tận, bên cạnh đó là áp lực dân
số kèm theo sự phát triển đô thị, sự kiện ấy sẽ làm gia tăng nhu cầu nước phục
vụ dân sinh và cho phát triển công nghiệp. Do đó, sự khan hiếm nước phục vụ
nông nghiệp là vấn đề đang được dự báo rất cấp thiết trên quy mô toàn cầu. Hạn
hán được xem như là một trong những hậu quả nghiêm trọng do sự suy giảm của
nguồn nước. Với tầm quan trọng như vậy, người ta đã hoạch định một thứ tự ưu
tiên trong đầu tư nghiên cứu tính chống chịu khô hạn trong lĩnh vực cải tiến
giống cây trồng trên toàn thế giới.

Cây lúa cạn năng suất thấp nhưng lại thể hiện tính ưu việt về khả năng
chống chịu hạn tốt, thích nghi cao với điều kiện sinh thái khó khăn, có chất
lượng gạo tốt, thơm, dẻo, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng và có tiềm năng
phát triển để phục vụ cho xuất khẩu. Hiện nay các giống lúa được canh tác phân
tán, tự phát, chưa có khoanh vùng và định hướng phát triển làm cho nhiều giống
lúa cạn có chất lượng bị mất dần, diện tích trồng lúa bị thu hẹp. Vì vậy sưu tập
và tuyển chọn các giống lúa cạn có chất lượng tốt, khả năng chống chịu cao
không những bảo tồn được nguồn gen đa dạng sinh học mà còn làm cơ sở cho
chọn tạo giống chịu hạn, góp phần vào việc ứng phó với biến đổi khí hậu.
1.2. Một số khái niệm về lúa cạn
Trên thế giới có nhiều cách định nghĩa về lúa cạn. Theo định nghĩa tại
Hội thảo nghiên cứu lúa cạn ở Bonake, Bờ Biển Ngà (1982): “Lúa cạn được
trồng trên đất thoát nước, không có sự tích trữ nước trên bề mặt, không được
cung cấp nước và không đắp bờ, chỉ được tưới nhờ mưa tự nhiên” [23].
Theo Garrity D.P [24] lúa cạn được coi là lúa trồng trong mùa mưa trên
đất cao, đất thoát nước tự nhiên, trên những chân ruộng được đắp bờ hoặc
không có bờ và không có lượng nước dự trữ thường xuyên trên bề mặt. Lúa
cạn được hình thành từ lúa nước, nhờ quá trình thích ứng với những vùng
trồng lúa thường gặp hạn mà xuất hiện các biến dị chịu hạn ngày càng cao. Vì
vậy lúa cạn có khả năng sinh trưởng bình thường khi ở ruộng nước.
6
Huke R.E (1982) [28] dùng thuật ngữ “Lúa khô” (dryland rice) thay
cho lúa cạn (upland rice) và định nghĩa: “Lúa cạn được trồng trong những
thửa ruộng được chuẩn bị đất và gieo hạt dưới điều kiện khô, cây lúa sống
phụ thuộc hoàn toàn vào nước trời”.
Theo Nguyễn Gia Quốc (1994) [9] chia lúa cạn thành 2 dạng:
- Lúa cạn thực sự hay còn gọi là lúa nương (rẫy), là loại trồng trên các
triền dốc của đồi núi, không có bờ ngăn nước, luôn không có nước ở chân,
cây lúa sống nhờ nước trời.
- Lúa cạn không hoàn toàn hay lúa nước trời là loại lúa trồng ở triền

thấp không có hệ thống tưới tiêu chủ động, cây sống hoàn toàn bằng lượng
nước mưa tại chỗ, có thể có nước dự trữ trên bề mặt ruộng và cung cấp nước
cho cây lúa vào một thời điểm nào đó.
Theo Arraudeau M.A, Xuân V.T (1995) [16] thì ở Việt Nam từ “upland
rice” có nghĩa là lúa rẫy ở Miền Nam, lúa cạn ở Trung bộ và lúa nương ở
miền Bắc.
1.3. Nguồn gốc và phân loại lúa cạn
1.3.1. Nguồn gốc lúa cạn
Lúa nói chung và lúa cạn nói riêng là một trong những cây trồng cổ xưa
nhất của loài người. Có nhiều ý kiến khác nhau về sự xuất hiện của lúa trồng.
Nhiều ý kiến thống nhất cho rằng lúa trồng xuất hiện ở Châu Á cách đây 8000
năm (Lu.B.R và cộng sự) [31], tổ tiên trực tiếp của lúa trồng Châu Á (Oryza
sativa L.) vẫn còn chưa có những kết luận chắc chắn. Một số tác giả như
Sampath và Rao (1951) [37], Sampath và Govidaswami (1958) [38], Oka
(1974) [35] cho rằng O.sativa được tiến hóa từ lúa dại lâu năm O.rufipogon,
còn các tác giả khác như Chatterjee (1951) [20], Chang (1976) [19] lại cho
rằng O.sativa được tiến hóa từ lúa dại hàng năm O.nivara. Các nhà khoa học
Nhật Bản như Oka (1988) [36], Morshima và cộng sự (1992) [32] cho rằng kiểu
trung gian giữa O.rufipogon và O.nivara giống với tổ tiên lúa trồng O.sativa hơn
chính các loài lúa dại nhiều năm (O.rufipogon) hoặc hàng năm (O.nivara).
7
Lúa trồng Châu Á O.sativa có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc
(Decadolle A., 1985; Roscheviez, Ru., 1931) và Ấn Độ (Sampath và Rao,
1951) [37]. Theo công bố của Chang (1976) [19] thì O.sativa xuất hiện đầu
tiên trên một vùng rộng lớn từ lưu vực sông Gamges dưới chân núi Hymalaya
qua Myanmar, bắc Thái Lan, Lào đến Việt Nam và nam Trung Quốc. Ông
còn cho rằng lúa Indica phát sinh từ vùng Nepal, Myanmar, Vân Nam (Trung
Quốc) đến khu vực sông Hoàng Hà và từ Việt Nam phát tán dần lên tận lưu
vực sông Dương Tử, từ đó phát sinh những biến dị thích ứng và hình thành
các chủng chịu lạnh Japonica (hoặc O.Sinica).

Từ Trung Quốc Japonica được hình thành rồi qua Triều Tiên sang Nhật
Bản. Lúa Indica phát tán xuống phía Nam tới Malaysia và lên phía Bắc tới
miền trung Trung Quốc. Loại hình hạt dài, rộng và dày thuộc kiểu Javanica
(Bulu hoặc Gundil) được hình thành ở Indonesia là sản phẩm của quá trình
chọn lọc tự nhiên từ Indica. Kiểu Javanica từ đây chuyển qua quá trình chọn
lọc tự nhiên từ Indica. Kiểu Javanica từ đây chuyển qua Philippines, Đài Loan
đến Ryukyus của Nhật Bản.
Theo Nguyễn Thị Lẫm và nhiều tác giả khác [8] đều cho rằng nguồn
gốc lúa cạn là từ lúa nước. Trong quá trình phát triển do có sự thay đổi về
điều kiện đất đai và yêu cầu về lương thực của con người, cây lúa đã phát
triển lên những vùng cao hơn. Sống trong điều kiện đó cây lúa có một số biến
đổi thích nghi với hoàn cảnh khô hạn. Dần dần qua nhiều thế hệ đã hình thành
nên nhóm lúa cạn. Lúa cạn phân bố rất rộng, có khả năng chịu rét cao và được
trồng ở miền núi có độ cao 2700m so với mặt biển. Giữa lúa nước và lúa cạn
tuy có khác nhau về yêu cầu nước, khả năng chịu hạn khi thiếu nước, đặc biệt
ở thời kỳ sinh trưởng từ làm đòng đến chín, khác nhau về một số đặc điểm
sinh thái, hình thái phù hợp với điều kiện sống khác nhau, nhưng giữa chúng
vẫn còn vết tích về cấu tạo giải phẫu. Những điều đó chứng tỏ chúng có mối
quan hệ với nhau. Do đặc điểm của hai nhóm lúa này khác nhau nên yêu cầu
kỹ thuật cũng khác nhau. Lúa cạn là lúa trồng trong mùa mưa, trên đất cao,
8
đất thoát nước tự nhiên, trên những chân ruộng không đắp bờ hay không có
bờ và không có nước dự trữ trên bề mặt. Lúa cạn được hình thành và phát
triển để thích nghi với những vùng trồng lúa thường gặp hạn. Như vậy những
giống lúa cạn có khả năng trồng ở đất cạn vẫn sinh trưởng bình thường trên
ruộng có nước.
1.3.2. Phân loại lúa cạn
Theo Nguyễn Thị Lẫm (1999) [7] lúa cạn ngày nay bao gồm hai nhóm:
- Nhóm giống lúa cạn cổ truyền: bao gồm những giống lúa địa phương,
thích nghi cao và tồn tại lâu đời ở những vùng lúa cạn như các giống lúa: Mố,

Mộc, Lốc… thường có tiềm năng năng suất thấp, nhưng có tính chống chịu
cao. Những giống này thường được nông dân Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên
canh tác lâu đời trên nương rẫy theo dạng định canh. Với tập quán lâu đời trên
nương rẫy có độ dốc lớn, lợi dụng độ phì tự nhiên để quảng canh, nông dân
canh tác lúa cạn gieo trồng một vài vụ trên cùng một mảnh đất. Khi độ phì tự
nhiên đã cạn kiệt dẫn theo năng suất lúa thấp và giảm nhanh qua hàng năm.
Tùy nhu cầu lương thực của người dân và gia súc nhiều hay ít mà người ta chặt
phá rừng làm nương rẫy rộng hay hẹp. Đất càng nghèo dinh dưỡng thì diện tích
chặt phá rừng càng rộng… Cứ như thế du canh kéo theo du cư. Mất rừng, mất
nguồn nước, khí hậu khu vực thay đổi, hạn hán lũ lụt xảy ra ảnh hưởng đến
năng suất, điều kiện sống của con người ngày càng trở nên khó khăn hơn.
- Nhóm giống không chủ động nước hoặc sống nhờ nước trời: Loại này
phân bố trên những nương bằng, chân đồi, soi bãi có độ dốc nhỏ hơn 5
0
, có
đắp bờ, không có bờ hoặc trên chân ruộng bậc thang đã được gia cố bờ chắc
chắn để giúp lúa sống nhờ nước mưa, nhưng cũng dễ bị mất nước sau khi mưa
một thời gian ngắn. Ở đây đã có những khu đất rộng từ vài nghìn m
2
đến vài
nghìn ha, được các dân tộc đầu tư sản xuất, có áp dụng các biện pháp kỹ thuật
sản xuất lúa tiên tiến, tạo nên những cánh đồng lúa rộng. Những giống lúa
gieo trồng trên những chân ruộng này là những giống lúa cạn mới lai tạo,
mang những đặc điểm quý của lúa nước và lúa cạn, có khả năng chống chịu
9
hạn trong những giai đoạn sinh trưởng nhất định, hiệu suất sử dụng nước và
tiềm năng năng suất cao. Trong điều kiện thời tiết khác nhau, mức độ năng
suất biến động ít. Đó là các giống lúa thuộc nhóm: CH, LC, IRAT…
1.4. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới và ở Việt Nam
1.4.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới

Trên thế giới lúa chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt ở vùng Châu Á.
Ở Châu Á, lúa là món ăn chính giống như bắp của dân Nam Mỹ, hạt kê của
dân Châu Phi hoặc lúa mì của dân Châu Âu và Bắc Mỹ.
Thống kê của tổ chức lương thực thế giới (FAO, 2013) [27] cho thấy, có
118 nước trồng lúa, trong đó 15 nước có diện tích trồng lúa trên trên 1.000.000ha
tập trung ở Châu Á, , 36 nước có diện tích trồng lúa trong khoảng 100.000ha -
1.000.000ha. Trong đó có 31 nước có năng suất trên 5 tấn/ha, đứng đầu là Ai
Cập (9,7 tấn/ha), Australia (8,9 tấn/ha), Ukraine (8,3 tấn/ha).
Bảng 1.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới trong vài thập kỷ gần đây
Năm
Diện tích
(Nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(Nghìn tấn)
1961 115.365 18,69 215.646
1970 132.873 23,81 316.346
1980 144.412 27,48 396.871
1990 146.961 35,29 518.556
2000 154.056 38,91 599.355
2001 152.043 39,35 598.361
2002 147.953 38,49 569.451
2003 148.532 39,63 584.630
2004 150.549 40,37 607.795
2005 155.026 40,92 634.930
2006 155.741 41,16 641.095
2007 155.953 42,12 656.807
2008 159.251 43,07 685.875
2009 161.421 42,04 678.682

2010 153.652 43,73 672.015
2011 163.143 44,29 722.559
2012 163.463 43,94 718.345
(Nguồn: FAO STAT năm 2014) [27].
10
Qua bảng 1.1 cho thấy, diện tích trồng lúa trên thế giới đã gia tăng rõ
rệt từ năm 1961 đến 1980. Trong vòng 19 năm đó, diện tích trồng lúa trên thế
giới tăng bình quân 1,53 triệu ha/năm. Từ năm 1980, diện tích lúa tăng chậm
và đạt cao nhất vào năm 1999 (156,8 triệu ha) với tốc độ tăng trưởng bình
quân 630.000 ha/năm. Từ năm 2000 trở đi diện tích trồng lúa thế giới có
nhiều biến động và có xu hướng giảm dần, đến năm 2005 còn ở mức 155,026
triệu ha. Từ năm 2005 đến 2009 diện tích lúa gia tăng liên tục cao nhất là năm
2009 với 161,421 triệu ha. Năm 2010 diện tích lúa giảm xuống còn 153,652
triệu ha và lại tiếp tục tăng đến năm 2012 diện tích là 163,463 triệu ha.
Bên cạnh diện tích trồng lúa, năng suất lúa bình quân trên thế giới cũng
tăng khoảng 14 tạ/ha trong vòng 24 năm từ năm 1961 đến 1985, đặc biệt sau
cuộc cách mạng xanh của thế giới vào những năm 1965-1970, với sự ra đời
của các giống lúa thấp cây, ngắn ngày, không cảm quang, mà tiêu biểu là
giống lúa IR5, IR8. Đến những năm 1990 dẫn đầu năng suất lúa trên thế giới
là các nước Triều Tiên, Úc, Mỹ, Nhật Bản, Tây Ban Nha (IRRI, 1990). Từ
năm 1990 trở đi đến tại thời điểm hiện nay năng suất lúa thế giới liên tục
được cải thiện đạt 43,94 tạ/ha năm 2012.
Tình hình nhìn chung năng suất các nước trong 12 năm (2000-2012)
cho thấy năng suất lúa cao tập trung ở các quốc gia á nhiệt đới, nhiệt độ ngày
và đêm cao hơn và trình độ canh tác phát triển tốt hơn. Các nước nhiệt đới có
năng suất bình quân thấp do chế độ nhiệt và ẩm độ cao, sâu bệnh phát triển
mạnh và trình độ canh tác hạn chế.




11
Bảng 1.2. Tình hình sản xuất lúa gạo của 10 nước đứng đầu thế giới 2012
Tên nước
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(tấn)
Thế giới 163.463.010 43,945 718.345.379
Ấn Độ 42.500.000 35,905 152.600.000
Trung Quốc 30.557.000 67,442 206.085.000
Indonesia 13.443.443 51,359 69.045.141
Bangladesh 11.700.000 29,230 34.200.000
Thái Lan 12.600.000 30,000 37.800.000
Myanmar 8.150.000 40,490 33.000.000
Việt Nam 7.753.162 56,314 43.661.569
Philippines 4.689.960 38,448 18.032.422
Brazil 2.370.267 48,908 11.391.401
Nhật Bản 1.581.000 53,908 8.523.000
(Nguồn: FAO STAT năm 2014) [27].
Tình hình chung của các nước có diện tích trồng lúa nhiều nhất thế giới
năm 2012 đứng đầu vẫn là 8 nước Châu Á là Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia,
Bangladesh, Thái Lan, Myanmar, Việt Nam, Philippines. Tuy nhiên năng suất
chỉ có 4 nước có năng suất cao hơn 5 tấn/ha là Trung Quốc, Indonesia, Việt
Nam và Philippines. Mặc dù năng suất lúa ở các nước Châu Á còn thấp nhưng
do diện tích sản xuất lớn nên Châu Á vẫn là nguồn đóng góp rất quan trọng
cho sản lượng lúa trên thế giới (trên 90%). Như vậy, có thể nói Châu Á là vựa
lúa quan trọng nhất thế giới.
Mặc dù bị ảnh hưởng hiện tượng Nixna ở nhiều nơi châu Á như

Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và bão ở Philippines từ tháng 8 năm
ngoái nhưng sản lượng lúa toàn cầu đã vượt lên mức kỷ lục nhờ vụ mùa phát
triển trong điều kiện khí hậu thuận hòa sau đó. Cơ quan FAO ở Rome đã đánh
giá năm 2011, sản lượng lúa đạt đến 722,6 triệu tấn hay 481 triệu tấn gạo,
tăng 3% hay 24 triệu tấn so với 2010.
Phần lớn sự gia tăng này do sản xuất thuận lợi tại Ấn Độ, Ai Cập,
Bangladesh, Trung Quốc và Việt Nam vượt trội hơn số lượng thất thu từ
12
Indonesia, Madagascar, Pakistan, Philippines và Thái Lan. Sự gia tăng còn do
diện tích trồng lúa thế giới tăng lên 163,4 triệu ha hay tăng 2,2% và năng suất bình
quân cũng tăng nhẹ lên mức 4,39 tấn/ha tức tăng 0,8% trong hơn 1 năm vừa qua.
Châu Á sản xuất 651 triệu tấn lúa (435 triệu tấn gạo) hay tăng 2,9% so
với 2010 dù có nhiều trận bão lớn xảy ra ở Philippines và lũ lụt nặng nề kéo
dài ở Campuchia, Lào, Myanmar và Thái Lan. Sự gia tăng lớn này chủ lực do
Ấn Độ và Trung Quốc, với sự tham gia ở mức độ thấp hơn từ Bangladesh,
Hàn Quốc, Nhật Bản, Pakistan và Việt Nam. Riêng Việt Nam, Chính phủ tính
toán sản xuất lúa đạt đến 42 triệu tấn lúa hay tăng 1 triệu tấn so với 2010, do
diện tích trồng lúa thêm 200.000 ha đưa tổng số lên 7,7 triệu ha, năng suất đạt
đến 5,5 tấn/ha.
Năm 2011, Việt Nam xuất khẩu 7,35 triệu tấn gạo mang về khoảng 3,5
tỉ đô la mỹ. Ấn Độ thu hoạch 154,5 triệu tấn lúa hay tăng 11 triệu tấn so với
năm 2010 nhờ mùa mưa thuận lợi, ngoại trừ vài tỉnh ở Tây Nam có hạn hán.
Trung Quốc sản xuất đến 203 triệu tấn lúa hay tăng 3%, đạt được mục tiêu tự
túc trong suốt thập niên qua. Thái Lan bị ngập lụt nặng ở cánh đồng trung tâm
làm thiệt hại 1,6 triệu ha tương đương 4 triệu tấn lúa, sản xuất năm 2011
khoảng 32,2 triệu tấn lúa, thấp hơn 7% so với năm 2010 (34,5 triệu tấn). Hậu
quả này làm ảnh hưởng mạnh đến xuất khẩu gạo năm 2012 của Thái Lan.
Châu Phi sản xuất lúa khoảng 26 triệu tấn lúa (17 triệu tấn gạo), cao
hơn 3% năm 2010 dù mưa bất thường, do được mùa ở Ai Cập, một nước sản
xuất lúa tưới tiêu lớn trong vùng và tăng sản xuất ở Benin, Ghana, Mali,

Nigeria, Sierra Leone thuộc Tây Phi Châu. Trong khi Đông Phi Châu như
Tazania, Zambia, Madagascar và Nam Phi Châu có tình trạng ngược lại do
mưa ít, ngoại trừ Malawi và Mozambique nhờ đầu tư nhiều cho hệ thống tưới tiêu.
Ba nước sản xuất lúa gạo nhiều nhất ở châu Phi là Ai Cập, Nigeria và
Madagascar, chiếm đến 55% tổng sản lượng lúa. Sản xuất lúa ở Ai Cập tăng từ
13
5,2 triệu tấn trong 2010 lên 5,8 triệu tấn trong 2011 và Nigeria từ 4,2 lên 4,3 triệu
tấn; trong khi Madagascar giảm từ 4,8 xuống 4,3 triệu tấn trong cùng thời kỳ.
Nam Mỹ và Caribbean phục hồi sản xuất lúa đạt đến 29,6 triệu tấn
lúa hay 19,8 triệu tấn gạo so với sút giảm 12% so với năm trước đó, do được
mùa và giá gạo cao từ các nước Argentina, Brazil, Columbia, Guyana,
Paraguay, Uruguay và Venezuela. Trong khi đó Mexico và Ecuador bị khô
hạn, Honduras, Nicaragua và El Salvador bị ngập lụt. Brazil là nước sản xuất
lúa gạo lớn nhất của châu Mỹ (chủ yếu lúa rẫy) đạt đến 13,6 triệu tấn so với
11,7 triệu tấn 2010 nhờ khí hậu tốt. Sản xuất lúa của nước này chiếm đến 45%
tổng sản lượng toàn vùng.
Hoa Kỳ sản xuất lúa gần 8,5 triệu tấn, giảm 21% so với 2010 (11 triệu
tấn) do khí hậu không thuận lợi và diện tích trồng thu hẹp. Đó là mức sản xuất
thấp nhất kể từ 1998 của Hoa Kỳ. Sản xuất lúa Úc Châu tăng đến 800.000 tấn,
gấp 4 lần so với 2010 (0,2 triệu tấn) nhờ cung cấp đầy đủ nước tưới. Sản xuất
lúa ở châu Âu tăng thêm 0,2 triệu tấn, đạt đến 4,6 triệu tấn nhờ cải thiện năng
suất, đặc biệt ở nước Ý và Liên bang Nga.
1.4.2. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam
Sản xuất lúa gạo đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển
kinh tế nông nghiệp và nông thôn Việt Nam. Khoảng 80% trong tổng số 11
triệu hộ nông dân có tham gia sản xuất lúa gạo và chủ yếu dựa vào phương
thức canh tác thủ công truyền thống. Trong gần ba thập kỷ qua nhờ có sự đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế nên Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn
trong sản xuất lúa gạo, không những đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước
mà hàng năm còn xuất khẩu được 3-4 triệu tấn gạo. Hiện nay năng suất lúa

bình quân của cả nước đã khá cao đạt khoảng 4,5 tấn/ha, song giữa các vùng
sinh thái khác nhau trong nước lại có sự chênh lệch đáng kể về năng suất lúa.
14
Lượng gạo tham gia vào các kênh lưu thông chủ yếu phụ thuộc vào hai nguồn
cung cấp chính đó là Đồng Bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng.
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam qua các thời kỳ 1970-2012
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(tấn)
1970 4.724.400 21,533 10.173.300
1980 5.600.200 20,798 11.647.400
1990 6.042.800 31,814 19.225.104
2000 7.666.300 42,431 32.529.500
2001 7.492.700 42,852 32.108.400
2002 7.504.300 45,903 34.447.200
2003 7.452.200 46,387 34.568.800
2004 7.445.300 48,552 36.148.900
2005 7.329.200 48,890 35.832.900
2006 7.324.800 48,942 35.849.500
2007 7.207.400 49,869 35.942.700
2008 7.414.300 52,230 38.725.100
2009 7.440.100 52,278 38.895.500
2010 7.513.700 53,221 39.988.900
2011 7.655.439 55,383 42.398.345
2012 7.753.162 56,314 43.661.569
(Nguồn: FAO STAT năm 2014) [27].

Qua các giai đoạn lịch sử cải thiện đời sống của nhân dân cho thấy
quan tâm của nhà nước đối với sản xuất lúa gạo. Trước năm 1975, năng suất
gạo đạt đưới 2,2 tấn/ha, diện tích trồng lúa dưới 5,0 triệu ha. Năng suất bình
quân trong cuối thập nhiên 1970 giảm sút khá nghiêm trọng do đất đai mới
khai hoang chưa được cải tạo, thiên tai và sâu bệnh, với cơ chế quản lý nông
15
nghiệp trì trệ không phù hợp đặc biệt là những năm 1978 - 1979. Bước sang
thập niên 1980, năng suất lúa tăng dần do các công trình thuỷ lợi trong cả
nước, đặc biệt ở Đồng Bằng sông Cửu Long. Cơ chế quản lý nông nghiệp
thoáng hơn với chủ trương khoán sản phẩm trong sản xuất nông nghiệp. Năm
1982, nước ta đã chuyển từ nước phải nhập khẩu gạo hàng năm sang nước tự
túc gạo. Từ năm 1975 đến năm 1990, trong vòng 15 năm diện tích lúa tăng
gần 1 triệu ha đạt 6,0 triệu ha với năng suất tăng gần 1 tấn/ha đạt 3,2 tấn/ha.
Kể từ lúc gạo Việt Nam tái nhập thị trường thế giới năm 1989 thì năm 1990
đã đứng vị trí xuất khẩu gạo thứ 4 sau Thái Lan, Pakistan và Mỹ, đến năm
1991 lên ở vị trí thứ 3 và tiếp tục lên hạng vào năm 1995 ở vị trí xuất khẩu
gạo thứ 2 thế giới. Từ năm 1990 đến 2005, cũng trong vòng 15 năm nhưng
diện tích lúa tăng gần 1,3 triệu ha đạt 7,3 triệu ha với năng suất tăng gần 1,7
tấn/ha đạt 4,9 tấn/ha và mức gia tăng năng suất vẫn tiếp tục cải thiện.
Theo thống kê của FAO năm 2013 Việt Nam có diện tích lúa khoảng
7,7 triệu ha đứng thứ 7 sau các nước có diện tích lúa trồng nhiều ở Châu Á
theo thứ tự Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia, Bangladesh, Thái Lan, Myanmar.
Việt Nam có năng suất 5,6 tấn/ha đứng thứ 24 trên thế giới, đứng đầu khu vực
Đông Nam Á và đứng thứ 4 trong khu vực Châu Á sau Hàn Quốc, Trung
Quốc, Nhật Bản. Các nước có mức tăng năng suất trong 10 năm (2000-2010)
là 10,8 tạ/ha đứng thứ 12 trên thế giới và đứng đầu của 8 nước có diện tích lúa
nhiều ở Châu Á về khả năng cải thiện năng suất lúa trên thế giới. Việt Nam
vượt trội trong khu vực Đông Nam Á nhờ thuỷ lợi được cải thiện đáng kể và
áp dụng nhanh các tiến bộ kỹ thuật về giống, phân bón và bảo vệ thực vật.
Cũng theo số liệu thống kê của FAO so sánh diện tích canh tác và sản

lượng giữa lúa và các cây lương thực khác ở Việt Nam thì lúa gạo vẫn là sản
phẩm cần được ưu tiên hàng đầu vì diện tích nhiều nhất cả nước hơn bắp và
sắn, sản lượng đứng đầu hơn khoai lang và cây sắn. Đáng chú ý là năng suất
lúa được cải thiện đáng kể.
16
Kết quả phân tích cho thấy, thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt
Nam trong 17 năm qua, thứ nhất là các quốc gia Đông Nam Á (chiếm khoảng
40-50% lượng gạo xuất khẩu), thứ hai là các quốc gia Châu Phi (chiếm
khoảng 20-30%), một thị trường khá ổn định. Các thị trường khác là Trung
Đông và Bắc Mỹ, nhưng lượng gạo xuất khẩu sang các nước này không ổn
định, đặc biệt là trong giai đoạn 2001-2004. Trong những năm qua, gạo xuất
khẩu của Việt Nam tăng trưởng về số lượng và chất lượng cũng như mở rộng
thị trường. Đến năm 2003, ngoài các thị trường truyền thống của Việt Nam
như là Philipines, Việt Nam đã mở rộng và phát triển thêm một số thị trường
tiềm năng như Châu Phi, Mỹ Latinh và EU. Yếu tố quan trọng ảnh hưởng các
doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam là ít kinh nghiệm nên thiếu khả
năng duy trì và khai thác các thị trường nhiều biến động. Nếu có mối liên kết
tốt hơn và tổ chức thị trường tốt, họ sẽ nâng cấp hạng ngạch và giá trị xuất
khẩu gạo của VN.
Về giá cả, gạo Việt Nam đã dần dần được nâng lên tương đương với
gạo Thái Lan, vào cùng thời điểm và cấp loại gạo. Điều này cho thấy, chất
lượng gạo và quan hệ thị trường của gạo Việt Nam đã có thể cạnh tranh ngang
hàng với gạo Thái Lan trên thị trường thế giới.
1.5. Tình hình nghiên cứu, sản xuất lúa cạn trên thế giới và ở Việt Nam
1.5.1. Tình hình nghiên cứu, sản xuất lúa cạn trên thế giới
Trên thế giới, lúa cạn thường được trồng phổ biến ở các vùng nhiệt đới
nơi mà độ màu mỡ của đất đã bị giảm rất nhanh do canh tác trên độ dốc cao
lại vào mùa mưa dễ bị xói mòn rửa trôi.
* Theo Garrity D.P [24] canh tác lúa cạn được chia thành 4 vùng sinh
thái khác nhau:

1. Vùng có mưa dài (mưa từ 5-12 tháng trong một năm), đất đai màu
mỡ. Vùng này khoảng 1,7 triệu ha, chiếm 15% diện tích, tập trung ở Tây Nam
17
Ấn Độ, Indonesia, Philippines, Bangladesh. Ký hiệu là LP (Long growing
season with fertile soils).
2. Vùng có mưa dài, đất kém màu mỡ.Vùng này chiếm khoảng 33%
diện tích, tập trung ở Việt Nam, Thái Lan, Mianma, Lào, Campuchia và Đông
Bắc Ấn Độ. Ký hiệu LI (Long growing season with infertile soils).
3. Vùng có mưa ngắn (mưa từ 1-4 tháng trong năm) đất đai màu mỡ,
chiếm 27% diện tích. Ký hiệu SF (Short growing season with fertile soils).
4. Vùng có mưa ngắn, đất đai kém màu mỡ, chiếm 25% diện tích. Ký
hiệu SI (Short growing season with infertile soils).
Đất màu mỡ là đất có chỉ số IFS (Inherent fertility soil) từ 1-5. Đất kém
màu mỡ là đất có chỉ số IFS từ 6-9.
Năm 1982, CIAT phân chia vùng sinh thái lúa cạn ở Châu Mỹ La Tinh
như sau [23]:
- Vùng có điều kiện sản xuất lúa cạn thuận lợi là vùng có lượng mưa
trên 2000mm/năm, mùa mưa kéo dài 6-8 tháng, năng suất lúa cạn đạt trung
bình 2,5 tấn/ha hoặc cao hơn nữa. Vùng này thuộc các nước Venezuela, Nam
Brazil, Colombia, và các nước vùng Trung Mỹ.
- Vùng tương đối thuận lợi, đất đai kém màu mỡ hơn vùng trên, lượng
mưa trong năm thấp hơn. Trong vụ gieo trồng có khoảng 2-3 tuần bị hạn.
Vùng này tập trung ở Bolivia, Mehico và miền nam lưu vực sông Amazon,
năng suất lúa đạt 1,5-2 tấn/ha.
- Vùng khó khăn, lượng mưa ít, mưa thất thường, đất nghèo dinh
dưỡng, năng suất chỉ đạt 1 tấn/ha.
- Vùng cực kỳ khó khăn: đất đai khô hạn, nghèo dinh dưỡng, điều kiện
canh tác rất khó khăn nhưng người dân vẫn phải trồng lúa cạn để tự túc lương
thực tại chỗ. Ở đây kỹ thuật canh tác rất sơ sài, năng suất chỉ đạt 6-7 tạ/ha.
* Theo Dat DP [21] đã phân chia môi trường trồng lúa cạn trên thế giới

thành 4 loại chung như sau:
18
1. Vùng đất cao, đất đai màu mỡ, mùa mưa kéo dài, ký hiệu là LF
(favorable upland with long growing season). Vùng này chiếm khoảng 11%
diện tích lúa cạn thế giới.
2. Vùng đất cao, đất màu mỡ, mùa mưa ngắn, ký hiệu là SF (favorable
upland with short growing season). Vùng này chiếm 25% diện tích lúa cạn
Thế giới.
3. Vùng đất cao, kém màu mỡ, mùa mưa dài, ký hiệu là LU
(unfavorable upland with long growing season).
4. Vùng đất cao, kém màu mỡ, mùa mưa ngắn, ký hiệu là SU
(unfavorable upland with short growing season).
Canh tác lúa ở Việt Nam được xếp vào vùng LU.
Trên thế giới sự phân bố lúa cạn không đồng đều, năng suất khác nhau
giữa các vùng, nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt đó là do hạn hán, đất nghèo
dinh dưỡng, nhiều sâu bệnh và cỏ dại.
Hệ thống canh tác lúa cạn trên thế giới phát triển từ hình thức thấp đến
cao, từ du canh độc canh mang tính nguyên sơ, tự cung tự cấp, sức sản xuất
thấp tiến dần lên hình thức trồng lúa cạn trong hệ thống định canh, thâm canh,
luân canh tăng vụ; từ hình thức du canh, phá hoại môi sinh tiến dần đến định
canh, thâm canh bảo vệ đất, chống xói mòn, bảo vệ môi trường đạt hiệu quả
kinh tế cao, lấy ngắn nuôi dài và tham gia vào phát triển hệ thống nông
nghiệp bền vững.
Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) (1993) cho biết: muốn đủ lương
thực cho con người do quỹ đất trồng lúa nước không nhiều thì phải thâm canh
lúa cạn bằng cách bón phân hữu cơ, phân hóa học… phải xác định hệ thống
canh tác hợp lý và giống thích hợp.
Do yêu cầu về lương thực, năm 1983 Ban điều hành các trung tâm
nghiên cứu lúa cạn được thành lập (UREDCO), từ đó các chương trình nghiên
19

cứu về lúa cạn ở các nước được tổ chức mở rộng trong một chương trình
chung và đã thu được một số kết quả.
Chương trình cải tiến giống lúa cạn được tiến hành rộng khắp ở các
châu lục như: Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ La Tinh, với sự hợp tác của các
Trung tâm và Viện nghiên cứu nông nghiệp trên thế giới như: IRAT, IITA,
WARDA…
Ở các nước Châu Âu, người ta sản xuất một vụ lúa, giai đoạn đầu gieo
trồng như lúa cạn, từ 3-4 lá trở đi thì thâm canh theo phương thức lúa nước.
Tại châu Phi, chương trình cải tiến giống lúa được thực hiện qua các
chương trình của quốc gia cũng như các tổ chức quốc tế: IRAT, IITA,
WARDA. Các chương trình cải tiến giống lúa cạn được tiến hành tại Nigeria,
Ghân và Siera Leone từ trước khi viện nghiên cứu nông nghiệp quốc tế
IARCs (The International Agriculture Research Centrers) được thành lập.
Lúa cạn cũng được nghiên cứu tại Viện nghiên cứu lương thực ở
Kumasi, Ghana và trạm nghiên cứu nông nghiệp Kapong, Ghana.
Tại Nigeria viện nghiên cứu cây ngũ cốc ở Ibadan đã đi tiên phong
trong việc lai tạo giống lúa cạn. Năm 1958 giống lúa thuần chủng FARO
3

được chọn lọc từ giống địa phương Agbede 16/56 đã được thử nghiệm tại
miền Trung Nigeria. Đó là giống lúa cạn có năng suất cao trung bình và có
khả năng chống chịu bệnh đạo ôn tương đối khá [34].
Năm 1966 giống OS6 (FARO11) của Viện nghiên cứu nông học
Yangabi (Công gô) được giới thiệu cho sản xuất. OS6 có năng suất cao,
chống chịu bệnh đạo ôn tốt hơn và có khả năng chịu phân hơn Agbede 16/56.
Cũng trong năm 1966 khi OS6 vừa được giới thiệu thì một nạn dịch
bệnh đạo ôn xảy ra làm giảm năng suất lúa cạn từ 15-100%. Điều này đòi hỏi
cần thiết phải có những giống có khả năng kháng bệnh tốt hơn lại vừa có khả
năng cho năng suất cao [22].

×