Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Đánh giá hiệu quả kinh tế nuôi chim bồ câu tại xã Đức Hòa, huyện Sóc Sơn, Hà Nội.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.07 KB, 84 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




NGUYỄN THỊ HIỂU




Tên đề tài:
“ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ NUÔI CHIM BỒ CÂU
TẠI XÃ ĐỨC HOÀ, HUYỆN SÓC SƠN, HÀ NỘI”




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC





Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Kinh tế nông nghiệp
Khoa : KT & PTNT
Khóa học : 2010 - 2014
Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Mạnh Hà







Thái Nguyên, năm 2014


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



NGUYỄN THỊ HIỂU


Tên đề tài:
“ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ NUÔI CHIM BỒ CÂU
TẠI XÃ ĐỨC HÒA, SÓC SƠN, HÀ NỘI”



KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC




Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Kinh tế nông nghiệp
Khoa : KT & PTNT
Lớp : 42A - KTNN

Khóa học : 2010 - 2014
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Mạnh Hà






Thái Nguyên, năm 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận này là do chính tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của Thầy giáo: TS.Nguyễn Mạnh Hà.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung thực và chưa
hề được công bố hoặc sử dụng để bảo vệ một học hàm nào.
Các thông tin trích dẫn trong khóa luận này đều đã được chỉ rơ nguồn gốc.
Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm


Thái Nguyên, ngày 01 tháng 06 năm 2014
Sinh viên


Nguyễn Thị Hiểu
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận này trước tiên tôi xin chân trọng cảm ơn Ban
giám hiệu Nhà trường, Ban chủ nhiệm Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn
đã tạo mọi điều kiện để em nghiên cứu và thực hiện khóa luận này.
Tôi đặc biệt xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn tận tình, sự quan tâm

sâu sắc của thầy giáo TS.Nguyễn Mạnh Hà đã giúp đỡ em trong suốt thời
gian thực hiện, để tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn, Ủy ban nhân dân xã Đức Hòa, huyện
Sóc Sơn, Hà Nội và toàn bộ người dân trong xã đã giúp đỡ và tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình điều tra và nghiên cứu tại cơ sở.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ sự biết ơn tới gia đình, bạn bè và người
thân đã luôn quan tâm, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực
hiện khóa luận.
Trong quá trình nghiên cứu do có những lý do chủ quan và khách quan
nên không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên để giúp tôi hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp được tốt hơn.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2014
Sinh viên


Nguyễn Thị Hiểu

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 3
2.1. Mục tiêu chung 3
2.2. Mục tiêu cụ thể 3
3. Ý nghĩa của đề tài 4
3.1. Ý nghĩa khoa học 4
3.2. Ý nghĩa thực tiễn 4

4. Bố cục của khóa luận 4
Chương 1 5

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 5

1.1. Cơ sở lý luận 5
1.1.1. Khái niệm và bản chất của HQKT 5
1.1.2. Bản chất của HQKT 11
1.1.3.Phân loại HQKT 13
1.1.4. Hệ thống chỉ tiêu về HQKT 14
1.2. Cơ sở thực tiễn 16
1.2.1. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả nuôi chim bồ câu tại một số địa phương 16
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng và nâng cao hiệu quả nuôi chim bồ câu 18
1.2.3. Nhóm nhân tố kỹ thuật 20
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 22
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 22
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu 22
2.1.3. Thời gian nghiên cứu 22
2.2. Nội dung nghiên cứu 22
2.3. Phương pháp nghiên cứu 23
2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu 23
2.3.2. Phương pháp phân tích, xử lý số liệu 24
2.3.3. Phương pháp chuyên gia 24
2.4. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá HQKT chăn nuôi chim bồ câu 24
2.4.1. Các chỉ tiêu phản ánh mức độ của chăn nuôi 24
2.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh tình hình kết quả chăn nuôi của hộ 25
2.4.3. Nh
ững chỉ tiêu phản ánh HQKT nuôi chim bồ câu 26
2.4.4. Đánh giá chung về hiệu quả xã hội 27
Chương 3 28


KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 28

3.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của xã Đức Hòa 28
3.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên 28
3.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội 31
3.2. Thực trạng chăn nuôi chim bồ câu trên địa bàn xã Đức Hòa năm 2011-2013 38
3.2.1. Hiện trạng chăn nuôi 38
3.2.2. Tình hình sử dụng giống 40
3.2.3. Tình hình sử dụng các kỹ thuật chăn nuôi 42
3.2.4. Tình hình tiêu thụ 43
3.3. Đánh giá những HQKT từ nuôi chim bồ câu 44
3.3.1. Tình hình đầu tư trong chăn nuôi chim bồ câu tại xã Đức Hòa 44
3.3.2. Kết quả và thu nhập từ chăn nuôi chim bồ câu 46
3.3.3. So sánh HQKT giữa chăn nuôi chim bồ câu với chăn nuôi gà, lợn 47
3.3.4. Đánh giá HQKT chăn nuôi chim bồ câu theo quy mô tại xã Đức Hòa 49
3.4. Hiệu quả về tận dụng lao động 50
3.5. Hiệu quả về mặt văn hóa, xã hội 52
Chương 4 CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HQKT
CHĂN NUÔI CHIM BỒ CÂU TẠI XÃ ĐỨC HÒA 55

4.1. Quan điểm, mục tiêu, phương hướng về nâng cao HQKT chăn nuôi chim bồ câu tại
xã 55
4.2. Giải pháp nâng cao HQKT chăn nuôi chim bồ câu ở xã Đức Hòa 55
4.2.1. Giải pháp về thị trường tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi 55
4.2.2. Giải pháp mở rộng quy mô, tăng hiệu quả chăn nuôi chim bồ câu 56
4.2.3. Giải pháp tăng cường vốn đầu tư và áp dụng khoa học kĩ thuật cho chăn nuôi
chim bồ câu 57
4.3. Kiến nghị 62
4.3.1. Đối với các cấp chính quyền địa phương 63

4.3.2. Đối với hộ nông dân nuôi chim bồ câu 63
K
ẾT LUẬN 64

TÀI LIỆU THAM KHẢO 66


BẢNG DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Nghĩa
đ : Đồng
ĐVT : Đơn vị tính
GO : Tổng giá trị sản xuất
GO/IC : Giá trị sản xuất trên 1 đồng chi phí trung gian
GO/LĐ : Giá trị sản xuất trên 1 công lao động
HQKT : Hiệu quả kinh tế
HQSXKD : Hiệu quả sản xuất kinh doanh
HTX : Hợp tác xã
IC : Chi phí trung gian
LĐ : Công lao động
MI : Thu nhập hỗn hợp
MI/IC : Thu nhập hỗn hợp trên 1 đồng chi phí trung gian
Pr : Lợi nhuận
Pr/IC : Lợi nhuận trên 1 đồng chi phí trung gian
Pr/TC : Lợi nhuận trên 1 đồng chi phí
SXKD : Sản xuất kinh doanh
T.A hỗn hợp : Thức ăn hỗn hợp
TC : Tổng chi phí
Tổng CP LĐ : Tổng chi phí lao động
tr.đ : Triệu đồng

TSCĐ : Tài sản cố định
TTNT : Thị trấn Nông trường
UBND : Ủy ban nhân dân
VA : Giá trị gia tăng
VA/IC : Giá trị gia tăng trên 1 đồng chi phí trung gian
VA/LĐ : Giá trị gia tăng trên 1 công lao động

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Số lượng hộ nuôi chim bồ câu ở ba thôn điều tra 23
Bảng 3.1: Cơ cấu đất sản xuất nông nghiệp xã Đức Hòa 30
Bảng 3.2: Cơ cấu đất phi nông nghiệp 30
Bảng 3.3: Cơ cấu kinh tế theo ngành tại xã Đức Hòa 31
Bảng 3.4: Bảng tình hình sản xuất một số cây trồng chính tại xã Đức
Hòa qua 3 năm (2011 – 2013) 32
Bảng 3.5: Tình hình chăn nuôi tại xã Đức Hòa năm 2013 33
Bảng 3.6: Hiện trạng giao thông trên địa bàn xã 37
Bảng 3.7: Tình hình nuôi chim bồ câu tại xã Đức Hòa năm 2011 - 2013 38
Bảng 3.8: Cơ cấu giống chim bồ câu được nuôi ở các hộ điều tra 40
tại xã Đức Hòa (n = 25) 40
Bảng 3.9: Cơ cấu nguồn giống chim bồ câu được nuôi ở các hộ điều tra 41
tại xã Đức Hòa (n = 25) 41
Bảng 3.10: Chi phí chăn nuôi chim bồ câu, gà, lợn của các hộ điều tra
năm 2013 45
Bảng 3.11: Hiệu quả chăn nuôi kinh doanh chim bồ câu theo quy mô 46
Bảng 3.12: So sánh kết quả, HQKT của chăn nuôi chim bồ câu với gà,
lợn tại xã Đức Hòa trung bình một hộ chăn nuôi năm 2013 48
Bảng 3.13: HQKT chăn nuôi chim bồ câu theo quy mô tại xã Đức Hòa
năm 2013 49
Bảng 3.14: So sánh hiệu quả sử dụng lao động theo quy mô chăn nuôi

chim bồ câu 51
Bảng 3.15: So sánh hiệu quả sử dụng lao động giữa hộ chăn nuôi chim
bồ câu với chăn nuôi gà, lợn 52


DANH MỤC CÁC HÌNH


Hình 3.1: Biểu đồ cơ cấu lao động theo ngành của xã Đức Hòa năm 2013 35
Hình 3.2: Biểu đồ cơ cấu đàn chim bồ câu tại xã Đức Hòa 39
năm 2011 – 2013 39
Hình 3.3: Sơ đồ tiêu thụ chim bồ câu thương phẩm xã Đức Hòa 43




1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta là một nước nông nghiệp, do lịch sử quá trình đấu tranh dựng
nước và giữ nước nên phần lớn dân cư nước ta sống quần tụ theo từng dòng
họ và theo phạm vi làng, xã. Đến nay, tuy quá trình đô thị hóa đã diễn ra khá
mạnh mẽ nhưng vẫn còn gần 70% dân số sinh sống và hơn 54% lao động làm
việc ở nông thôn.
Cùng với xu thế phát triển nông nghiệp hàng hoá hội nhập một yêu cầu
bức thiết với nền nông nghiệp nước ta cần phải đa dạng các sản phẩm nông
nghiệp, thay đổi cơ cấu vật nuôi theo hướng tăng tỷ trọng các vật nuôi có hiệu
quả kinh tế (HQKT) cao, để làm sao cùng với diện tích đó nhưng có thể mang
lại HQKT gấp rất nhiều lần. Do đó, ngành chăn nuôi không thể thiếu việc

phát triển và nâng cao hiệu quả chăn nuôi nói chung và chim bồ câu nói riêng
theo thế mạnh của từng vùng.
Chim bồ câu là vật nuôi có giá trị kinh tế và dinh dưỡng cao, đang được xem
là đối tượng quan trọng nhằm chuyển đổi cơ cấu vật nuôi trong nông nghiệp.
Chim bồ câu là loài vật nuôi quen thuộc ở nông thôn và một số nơi ở
thành thị. Nó dễ nuôi, hiền lành và thân thiện với con người. Bồ câu hiện
nay được nuôi theo 3 hướng là: nuôi lấy thịt, nuôi làm cảnh và nuôi để đưa
thư. Bồ câu là loại động vật thuộc họ chim gáy, tên khác là bồ câu nhà, chim
câu, là loài chim được nhân dân nuôi rộng rãi. Có nhiều giống rất khác nhau
về kích thước và màu sắc, trong đó các giống bồ câu Pháp, Mỹ, Thái được
người nuôi ưa chuộng, có thể nuôi theo nhiều hình thức khác nhau như nuôi
theo kiểu công nghiệp, bán công nghiệp, nuôi theo kiểu hoang dã
Với một nước có dân số lớn như nước ta thì nhu cầu về dinh dưỡng phục
vụ sức khỏe con người đặc biệt ở các vùng tập trung dân cư đông và có mức
sống cao như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Cần


2
Thơ Điều đó đã đặt ra cho ngành chăn nuôi của nước ta phải phát triển mạnh
hơn, không những chỉ nhằm phục vụ nhu cầu trong nước mà còn phục vụ cho
nhu cầu xuất khẩu.
Ăn thịt chim bồ câu có thể kích thích ăn uống, tăng khả năng tuần hoàn
máu, giúp tinh thần sảng khoái, thể lực sung măn, da dẻ mịn màng, phòng
chống được lão hoá và tóc bạc sớm
Thịt bồ câu ăn ngon, bổ dưỡng, nhất là chim non ra ràng. Do thịt chim
bồ câu dễ tiêu hoá hơn các loại thịt gia cầm khác nên đối với người cao tuổi
chức năng tiêu hoá kém và trẻ em, tác dụng bổ dưỡng của chim bồ câu càng
rõ rệt. Thành phần chủ yếu của thịt bồ câu có protein 22,14%, lipit, các chất
canxi, photpho, sắt, nhiều loại muối khoáng khác và vitamin. Ngoài giá trị
dinh dưỡng, bồ câu còn là vị thuốc quý được Đông y dùng từ lâu đời để chữa

nhiều bệnh. Thịt chim bồ câu có tên thuốc là cáp điểu nhục là một vị thuốc bổ
dưỡng quý, có vị mặn, tính bình, hơi ấm, không độc, có tác dụng bổ ngũ tạng,
tăng cường khí huyết, mạnh dương, trừ cam tích, kích thích tiêu hoá. Thịt bồ
câu thích hợp với thể tạng người cao tuổi, phụ nữ và trẻ em, dùng dưới dạng
nấu cháo chim ăn nóng ngon và bổ.
Chính từ yêu cầu đó việc phát triển nuôi chim bồ câu nhằm phát huy lợi thế
so sánh của từng vùng đang nhận được sự quan tâm chú trọng đặc biệt của các
địa phương. Đức Hòa là một xã thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Dân số xã là
8.200 người (hơn 1750 hộ gia đình) đang sinh sống. Xã có diện tích là 717 ha,
trong đó đất nông nghiệp chiếm 431ha. Tuy nhiên, để chim bồ câu được thị
trường chấp nhận và có thương hiệu thực sự thì không đơn giản, đồng thời vẫn
chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến tình trạng hiệu quả kinh tế còn chưa cao.
So với tiềm năng của địa phương, thì việc chăn nuôi, kinh doanh chim
bồ câu còn bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém. Quy mô chăn nuôi chưa được mở
rộng, chủ yếu là chăn nuôi theo hộ gia đình, giá cả còn thấp, thay đổi thường
xuyên. Mặt khác phương thức sản xuất của người dân còn mang tính nhỏ lẻ


3
thủ công, dựa vào kinh nghiệm là chính. Chưa áp dụng khoa học – kĩ thuật
chưa hiệu quả, dẫn tới HQKT chưa cao.
Chính vì vậy tôi đã lựa chọn khóa luận nghiên cứu: “Đánh giá hiệu quả
kinh tế nuôi chim bồ câu tại xã Đức Hòa, huyện Sóc Sơn, Hà Nội” với
mong muốn sẽ là cơ sở để góp phần đánh giá đúng thực trạng, HQKT và thấy
rơ được các tồn tại để từ đó đề ra các giải pháp phát triển chăn nuôi chim bồ
câu hợp lý mang lại HQKT cao hơn.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu và đánh giá HQKT nuôi chim bồ câu trên cơ sở thực tiễn tại
xã Đức Hòa, Sóc Sơn, Hà Nội. Từ đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm

nâng cao HQKT nuôi chim bồ câu, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống
cho người dân, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
trên địa bàn xã Đức Hòa.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá lý luận và thực tiễn về HQKT, vận dụng nó vào nghề
nuôi chim bồ câu.
- Điều tra và đánh giá thực trạng chăn nuôi và HQKT nuôi chim bồ câu
trên địa bàn xã Đức Hòa, Sóc Sơn, Hà Nội về các mặt: năng lực các hộ nuôi,
mức độ đầu tư, trình độ kĩ thuật, doanh thu, chi phí,…
- Đánh giá những mặt tích cực và những khó khăn, hạn chế ảnh hưởng
đến sự phát triển nuôi chim bồ câu và những phương hướng phát triển, những
ý kiến, kiến nghị, mong muốn của các hộ nuôi,…
- Xây dựng mô hình các yếu tố tác động đến hiệu quả nuôi chim bồ câu
của các hộ nuôi tại xã Đức Hòa.
- Đề xuất định hướng và giải pháp nhằm phát triển nghề nuôi chim bồ
câu trên địa bàn xã .


4
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Củng cố kiến thức đã học với thực tiễn trong quá trình đi thực tập tại cơ sở.
- Nâng cao khả năng tiếp cận, thu thập, xử lý thông tin kỹ năng nghề
nghiệp, đồng thời bổ sung những kiến thức thực tế cho bản thân.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Là tài liệu tham khảo giúp xã Đức Hòa xây dựng quy hoạch phát triển
nuôi chim bồ câu. Có ý nghĩa thiết thực cho quá trình nuôi chim bồ câu tại xã
Đức Hòa và đối với các địa phương có điều kiện tương tự.
4. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận bao gồm 4 chương chính:

- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Chương 2: Đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu.
- Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận.
- Chương 4: Các giải pháp và kiến nghị nâng cao HQKT nuôi chim bồ câu.













5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm và bản chất của HQKT
- Hiệu quả theo nghĩa phổ thông, phổ biến trong cách nói của mọi người:
“Kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại hiệu quả”. [12]
- Xét góc độ thuật ngữ chuyên môn, hiệu quả theo nghĩa kinh tế nó là
“Mối quan hệ giữa đầu vào các yếu tố khan hiếm với đầu ra hàng hóa và dịch
vụ, có thể được đo lường theo hiện vật gọi là hiệu quả kĩ thuật hoặc theo chi
phí thì được gọi là hiệu quả kinh tế. Khái niệm hiệu quả kinh tế được dùng
như một tiêu chuẩn để xem xét các tài nguyên được thị trường phân phối như

thế nào”. [5]
Ngày nay, người ta vẫn chưa có khái niệm thống nhất về hiệu quả. Ở mỗi
góc độ, lĩnh vực khác nhau thì hiệu quả cũng được xem xét, nhìn nhận khác
nhau và thông thường khi nói đến hiệu quả của một lĩnh vực nào đó thì chúng
ta xem xét vấn đề hiệu quả trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội. Tương
ứng ta có 3 phạm trù: hiệu quả kinh tế, hiệu quả chính trị, hiệu quả xã hội.
- Hiệu quả kinh tế: Nếu xét trên phạm vi từng khía cạnh, từng yếu tố,
từng ngành thì chúng ta có phạm trù hiệu quả kinh tế. Có thể hiểu hiệu quả
kinh tế là hệ số giữa kết quả thu và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Kết
quả thu về đề cập trong khía niệm này có thể là doanh thu, lợi nhuận, tổng sản
phẩm công nghiệp,…Hiệu quả kinh tế thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố
đầu vào trong quá trình sản xuất kinh doanh. [9]

- Hiệu quả chính trị, xã hội: Nếu đứng trên phạm vi toàn xã hội và nền
kinh tế quốc dân thì ta có hai phạm trù hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hôi.
Hai phạm trù này phản ánh ảnh hưởng của hoạt đông sản xuất kinh doanh đối
với việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế


6
xã hội. Và hai loại hiệu quả này có vị trí quan trọng trong việc phát triển đất
nước một cách toàn diện và bền vững. Hiệu quả chính trị, xã hôi phản ánh
trình độ phát triển nền kinh tế xã hội ở các mặt: trình độ tổ chức sản xuất,
trình độ quản lý, mức sống bình quân.

[9]
Phải luôn có sự cân đối giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả chính trị, xã
hội. Đây là nguyên tắc để phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia một cách
liên tục và lâu dài. Bất kì một sự mất cân đối nào cũng sẽ dân dến những hậu
quả nghiêm trọng.

Mặc dù đã có sự thống nhất rằng phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh
phản ánh mặt chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng chưa có sự
thống nhất quan điểm về hiệu hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các nhà kinh tế
và thống kê có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả sản xuất kinh doanh
do điều kiện lịch sử và góc độ nghiên cứu là không giống nhau.
- “Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu
trong tiêu thụ hàng hóa”[2].Theo quan điểm này thì hiệu quả là tốc độ tăng
của kết quả đạt được như: tốc độ tăng của doanh thu, của lợn nhuận. Như vậy
hiệu quả đồng nhất với các chỉ tiêu kết quả hay với nhịp độ tăng của các chỉ
tiêu ấy. Quan điểm này thực sự không còn phù hợp với các điều kiện ngày
nay. Kết quả sản xuất có thể tăng chi phí, mở rộng sử dụng các nguồn sản
xuất (đầu vào của quá trình sản xuất). Nếu hai doanh nghiệp có cùng một kết
quả sản xuất tuy có hai mức chi phí khác nhau, theo quan điểm này thì hiệu
quả sản xuất kinh doanh của chúng là như nhau.
- “Hiệu quả được xác định bằng nhịp độ tăng tổng sản phẩm mà xã hội
hoặc thu nhập quốc dân” [2]. Xét trên phạm vi của doanh nghiệp, theo quan
điểm này thì hiệu quả sản xuất kinh doanh và nhịp độ tăng giá trị tổng sản
lượng là một. Nhìn trên một góc độ nào đó thì quan điểm này cũng gần giống
như quan điểm trên. Nó cũng không đề cập tới chi phí bỏ ra để đạt được giá
trị tổng sản lượng đó. Nếu tốc độ của chi phí sản xuất được các nguồn lực


7
được huy động tăng nhanh hơn nhịp độ tăng giá trị tổng sản lượng thì sao.
Hơn nữa, việc chọn năm gốc có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả so sánh. Với
mỗi năm gốc khác nhau chúng ta lại có mức hiệu quả khác nhau của một năm
nghiên cứu.
- “Hiệu quả sản xuất diễn ra khi sản xuất không thể tăng sản lượng một
loại hàng hóa mà không cắt giảm sản xuất của một loại hàng hóa khác. Một
nền kinh tế có hiệu quả nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó”

[7]. Nhìn nhận quan điểm này dưới góc độ doanh nghiệp thì tình hình sản
xuất kinh doanh có hiệu quả khi nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất
của nó. Giới hạn khả năng sản xuất của doanh nghiệp được xác định bằng giới
giá trị tổng sản lượng tiềm năng, là giá trị tổng sản lượng cao nhất có thể đạt
được ứng với tình hình công ghệ và nhân công nhận định. Theo quan điểm
này thì hiệu quả thể hiện ở sự so sánh mức thực tế và “tối đa” về sản lượng.
Tỷ lệ so sánh càng gần 1 thì càng có hiệu quả. Mặt khác ta thấy quan điểm
này tuy đã đề cập đến các yếu tố đầu vào nhưng lại đề cập không đầy đủ.
- “Hiệu quả kinh tế nền sản suất xã hội là mức độ hữu ích của sản phẩm
được sản xuất ra, tức là giá trị sử dụng của nó chứ không phải là giá trị”[2].
Theo tác giả của quan điểm này, mức độ thỏa mãn nhu cầu phụ thuộc vào các
tác dụng vật chất cụ thể chứ không phải giá trị trừu tượng nào đó. Tuy nhiên
quan điểm này gặp phải trở ngại là khó tính được tính hữu ích của sản phẩm
được sản xuất ra. Và nếu vậy thì chúng ta không thể so sánh được tính hữu
ích giữa các sản phẩm, do đó cũng không đánh giá được tính hiệu quả của
hoạt động sản xuất kinh doanh.
- “Hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan hệ tỷ lệ giữa sự tăng lên của
đại lượng kết quả và chi phí” [3].
Công thức biểu diễn phạm trù này:
H = (1.1)



8
: Phần gia tăng của kết quả sản xuất.
: Phần gia tăng của chi phí sản xuất.
H: Hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Quan điểm này phản ánh hiệu quả chưa đầy đủ và trọn vẹn. Nó chỉ đề
cập đến hiệu quả của phần tăng thêm bằng cách so sánh giữa phần gia tăng
của kinh doanh sản xuất và phần gia tăng của chi phí sản xuất chứ chưa đề

cập toàn bộ phần tham gia đầu vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Xét trên
quan điểm triết học Mác Lênin thì mọi sự vật, hiện tượng đều có mối quan hệ
mật thiết, hữu cơ với nhau chứ không tồn tại một cách riêng lẻ, độc lập. sản
xuất kinh doanh không nằm ngoài quy luật này, các yếu tố “tăng thêm” giảm
đi có liên hệ với các yếu tố sẵn có. Chúng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới
kết quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là kết quả
tổng hợp của toàn bộ phần tăng thêm trong khái niệm hiệu quả là chưa đầy
đủ, thiếu chính xác.
- “Hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và
chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó” [3]. Quan điểm này cho rằng, nói đến
hậu quả kinh tế tức là nói đến phần còn lại của kết quả sản xuất kinh doanh
sau khi đã trừ chi phí. Nó được tính bằng các chi phí và lời lãi. Và cũng nhiều
tác giả cho rằng, hiệu quả kinh tế được xem như là tỷ lệ giữa kết quả thu được
và chi phí bỏ ra, hay ngược lại là chi phí trên một đợn vị sản phẩm hay giá trị
sản phẩm. Những chỉ tiêu hiệu quả này thường là giá thành sản phẩm hay
mức sinh lời của đông vốn. Nó chỉ được tính toán khi kết thúc một quá trình
sản xuất kinh doanh.
- “Hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (hoặc một quá trình kinh tế)
phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (nhân tài, vật lực, tiền vốn) để đạt
được mục tiêu xác định”. [10]
Công thức để biểu diễn khái quát phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh:
H =

(1.2)


9
Trong đó:
H: Hiệu quả sản xuất kinh doanh.
K: Kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh.

C: Chi phí của quá trình sản xuất kinh doanh (chi phí bỏ ra để đạt đư
ợc
kết quả K)
Như vậy ta nhận thấy rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Còn kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh (doanh thu, lợi nhuận) thì phản
ánh số lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Vậy khi xem xét, đánh giá
hoạt động của một doanh nghiệp thì phải quan tâm cả kết quả cũng như hiệu
quả của doanh nghiệp đó.
Quan điểm này đã đánh giá được tốt nhất trình độ lợi dụng các nguồn
lực mọi điều kiện “động” của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việc tính toán hiệu quả hoàn toàn có thể thực hiện được trong sự vận
động và biến đổi không ngừng của hoạt động sản xuất kinh doanh, không phụ
thuộc vào quy mô và tốc độ biến động khác nhau của chúng.
Ngoài ra, để xác định hiệu quả thì K và C cũng được xác định theo
những quan niệm khác nhau, tùy theo yêu cầu nghiên cứu: [6]
K có thể là:
+ Tổng giá trị sản xuất (GO)
+ Giá trị tăng thêm (VA = GO – IC)
+ Thu nhập hỗn hợp ( MI = VA – T – A)
Trong đó: T là thuế; A là khấu hao tài sản cố định và chi phí phân bổ.
+ Lợi nhuận (Pr = VA – chi phí lao động gia đình).

C có thể là:
+ Tổng chi phí (TC)
+ Chi phí trung gian (IC)


10
+ Chi phí biến đổi (VC)

+ Chi phí cố định (FC)
+ Chi phí một yếu tố đầu vào nào đó như đất đai, lao động,
vốn,…
Tùy từng trường hợp cụ thể mà lựa chọn cách biểu hiện K và C sao cho
phù hợp.
Các quan điểm truyền thống chưa thật toàn diện khi xem xét hiệu quả
kinh tế: [4]
- Thứ nhất, nó coi quá trình sản xuất kinh doanh trong trạng thái tĩnh,
chỉ xem xét hiệu quả sau khi đã đầu tư. Trong khi đó hiệu quả là chỉ tiêu rất
quan trọng không những cho phép chúng ta biết được kết quả đầu tư mà còn
giúp chúng ta xem xét trước khi ra quyết định đầu tư tiếp và nên đầu tư bao
nhiêu, đến mức độ nào. Trên phương diện này, quan điểm truyền thống chưa
đáp ứng đầy đủ được.
- Thứ hai, nó không tính yếu tố thời gian tính toán hiệu quả kinh tế theo
quan điểm này thường chưa tính đủ và chính xác.
- Thứ ba, hiệu quả kinh tế theo quan điểm truyền thống chỉ bao gồm hai
phạm trù cơ bản là thu và chi. Hai phạm trù này chủ yếu liên quan đến yếu tố
tài chính đơn thuần như chi phí về vốn, lao động, thu về sản phẩm và giá cả.
Trong khi đó, các hoạt động đầu tư và phát triển lại có những tác động không
chỉ đơn thuần như chi phí về vốn, lao động, thu về sản phẩm và giá cả mà còn
cả các yếu tố khác nữa. Và có những phần thu lợi hoặc những khoản khác
nữa. Và có những phần thu lợi hoặc nhưng khoản chi phí lúc đầu không hoặc
khó lượng hóa được nhưng nó là những con số không phải là nhỏ thì lại
không được phản ánh ở cách tính này. [4]


11
1.1.2. Bản chất của HQKT
- HQSXKD phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh doanh,
phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị, máy móc, vốn,

nguyên vật liệu) để đạt được mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp. Bản chất
của HQSXKD của hộ là sự thực hiện yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian.
Yêu cầu cao nhất của việc nâng cao HQSXKD là phải đạt kết quả tối đa
với chi phí tối thiểu (thời gian hao phí lao động thấp nhất). Điều này có ý
nghĩa là với mức chi phí nhất định thì hộ phải đạt kết quả tối đa hoặc ngược
lại, đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu.
Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của phạm trù HQKT của hoạt động
SXKD cũng cần phân biệt ranh giới giữa hai khái niệm hiệu quả và kết quả
của hoạt động SXKD. Trước đây trong lý luận cũng như trong thực tiễn đã
tồn tại sự nhầm lẫn giữa hai phạm trù hiệu quả và kết quả của hoạt động
SXKD, khi đó đã coi kết quả là mục đích và hiệu quả là mục tiêu. Từ quan
niệm nhầm lẫn đó dẫn đến sự hạn chế trong phương pháp luận giải quyết vấn
đề, đôi khi người ta hay coi đạt được kết quả là đạt được hiệu quả và rõ ràng
điều đó có nghĩa là không cần chú ý đến HQSXKD. Đây là quan niệm sai lầm
và cần phải được thay đổi.
- Hiện nay, chúng ta có thể hiểu kết quả hoạt động SXKD của hộ là
những gì mà hộ đạt được sau một quá trình SXKD nhất định, kết quả cần đạt
bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của hộ, có thể là những đại lượng có thể
cân đong, đo, đếm được như: số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại, doanh thu, lợi
nhuận…và cũng có thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng hoàn
toàn có tính chất định tính như: uy tín, chất lượng sản phẩm…Như thế, kết
quả bao giờ cũng là mục tiêu của hộ. Trong khi đó khía niệm về HQSXKD
người ta đã sử dụng cả hai chỉ tiêu là kết quả (đầu ra) và chi phí (các nguồn
lực đầu vào) để đánh giá HQSXKD. Trong lý thuyết và thực tế quản trị kinh
doanh cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí đều có thể được xác định bằng đơn vị


12
hiện vật và đơn vị giá trị. Tuy nhiên, sử dụng đơn vị hiện vật để xác định
HQSXKD sẽ vấp phải khó khăn là giữa “đầu vào” và “đầu ra” không có cùng

một đơn vị đo lường, còn việc sử dụng đơn vị giá trị luôn luôn đưa các đại
lượng khác nhau về cùng một đơn vị đo lường tiền tệ. Vấn đề được đặt ra là
HQSXKD là mục tiêu hay phương tiện của kinh doanh? Trước tiên,
HQSXKD phản ánh việc thực hiện mục tiêu của hộ đạt được ở trình độ nào.
Nhưng xem xét HQKT không chỉ dừng ở đó mà thông qua đó có thể phân
tích, tìm ra các nhân tố cho phép nâng cao HQSXKD. Từ đó có thể có các
giải pháp nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp ở mức độ cao hơn với
chi phí về nhân lực, vật lực và vốn ít hơn. Như vậy, nhiều lúc người ta sử
dụng các chỉ tiêu hiệu quả như mục tiêu cần đạt và trong nhiều trường hợp
khác người ta lại sử dụng chúng như công cụ để nhận biết khả năng tiến tới
mục tiêu cần đạt kết quả.
Như đã đề cập trên, bản chất hiệu quả hoạt động kinh doanh là hiệu quả
của lao động xã hội, được so sánh giữa chất lượng, kết quả thu được với
lượng hao phí lao động xã hội và tiêu chuẩn hiệu quả hoạt động kinh doanh là
tối đa hóa kết quả hoặc tối thiểu hóa chi phí trên nguồn vốn sẵn có. Hiệu quả
kinh doanh chỉ có thể đạt được trên cơ sở nâng cao năng suất lao động và chất
lượng công tác. Để đạt hiệu quả ngày càng cao và vững chắc, đòi hỏi hộ kinh
doanh không những nắm chắc các tiềm năng và tiềm ẩn về lao động, vốn, kĩ
thuật…mà còn phải nắm vững tình hình cung cầu hàng hóa trên thị trường,
đối thủ cạnh tranh,…hiểu được thế mạnh, thế yếu của hộ để khai thác hết mọi
tiềm năng hiện có, tận dụng những cơ hội vàng của thị trường, ngoài ra
nghiên cứu và nhận thức một cách đầy đủ bản chất và các quan điểm đánh giá
HQSXKD. Từ việc đánh giá đúng hiệu quả, cho phép hộ phát hiện khả năng
và tìm đúng biện pháp để nâng cao HQSXKD.


13
Hiệu quả kinh tế là tiền đề vật chất của hiệu quả xã hội. Nếu HQKT
giảm tức là hộ mất đi khả năng cạnh tranh, thiếu sức sống và trở thành gánh
nặng cho nhà nước. Vì thế, hộ không thể đạt được mục tiêu xã hội.

- Về mặt định lượng: Biểu hiện ở mối tương quan giữa kết quả thu được
so với chi phí bỏ ra, chênh lệch giữa các kết quả thu về và chi phí đã bỏ ra thì
các kết quả thu về càng cao và ngược lại.
- Về mặt định tính: Mức độ hiệu quả kinh tế cao thu được phản ánh sự
cố gắng, nỗ lực, trình độ và năng lực quản lý ở các khâu, các cấp quản lý và
sự gắn bó của việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu kinh tế với những
yêu cầu mục tiêu chính trị - xã hội. [8]
Khi xem xét bản chất HQKT không được phép đồng nhất giữa các kết
quả và hiệu quả. Vì kết quả chỉ làm cơ sở để tính toán hiệu quả.
1.1.3.Phân loại HQKT
HQKT được phân chia theo nhiều cách khác nhau tùy theo khía cạnh
cần phản ánh mà ta phân loại như sau: [6]
- Căn cứ vào yếu tố cấu thành chia ra hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân
phối và hiệu quả kinh tế.
+ Hiệu quả kinh tế kỹ thuật: là số lượng sản phẩm đạt được trên một
đơn vị chi phí đầu vào hay nguồn lực sử dụng vào sản phẩm trong những kiện
cụ thể về kỹ thuật hay công nhệ áp dụng vào sản xuất.
+ Hiệu quả phân bố: là chỉ tiêu hiệu quả trong các yếu tố giá sản phẩm
và giá đầu vào được tính để phản ánh giá trị sản phẩm thu thêm được trên một
đồng chi tiêu thêm về đầu vào hay nguồn lực. Như vậy hiệu quả phân bố là
hiệu quả kỹ thuật có tính đến yếu tố giá cả đầu vào và đầu ra.
+ Hiệu quả kinh tế: là phạm trù kinh tế trong đó sản xuất đạt được cả
hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bố. Chúng có mối quan hệ như sau:
Hiệu quả kinh tế = Hiệu kỹ thuật x Hiệu quả phân phối.
- Theo mức độ khái quát, hiệu quả kinh tế chia ra :


14
+ Hiệu quả kinh tế: là so sánh giữa các kết quả kinh tế với chi phí bỏ để
đạt được kết quả đó.

+ Hiệu quả xã hội: là kết quả của các hoạt động kinh tế xét trên khía
cạnh công ích, phục vụ lợi ích chung cho xã hội như tạo việc làm, xóa đói
giảm nghèo, giảm tệ nạn xã hội,…
+ Hiệu quả môi trường: thể hiện bảo vệ tốt hơn môi trường như tăng độ
che phủ mặt đất, giảm ô nhiễm đất, nước, không khí,…
Trong các loại hiệu quả kinh tế là quan trọng nhất nhưng không thể bỏ
qua hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Vì vậy khi nói tới hiệu quả kinh
tế, người ta thường có ý bao hàm cả hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường.
- Theo phạm vi, hiệu quả kinh tế chia ra:
+ Hiệu quả kinh tế quốc dân: xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
+ Hiệu quả kinh tế ngành, tính riêng từng ngành: trồng trọt, chăn nuôi,
và hẹp hơn.
+ Hiệu quả kinh tế vùng: tính cho từng vùng.
+ Hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực, các yếu tố đầu vào.
1.1.4. Hệ thống chỉ tiêu về HQKT
* Nguyên tắc khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu về HQKT
- Phải đảm bảo tính thống nhất, thể hiện ở nội dung các chỉ tiêu và
phương pháp xác định tính toán.
- Phải đảm bảo tính toàn diện của hệ thống, bao gồm chỉ tiêu tổng quát
chỉ tiêu bộ phận, chỉ tiêu phản ánh trực tiếp và chỉ tiêu bổ sung.
- Phải phù hợp với đặc điểm và trình độ của chủ hộ chăn nuôi chim bồ
câu. Xét về mặt nội dung HQKT có mối liên hệ mật thiết giữa các yếu tố đầu
vào và đầu ra, nó so sánh giữa lượng kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Kết
quả kinh tế phản ánh hoạt động cuối cùng trong quá trình sản xuất kinh
doanh, còn HQKT là tỷ số chênh lệch giữa kết quả quá trình sản xuất và chi


15
phí bỏ ra để có kết quả đó (là mối quan hệ so sánh giữ kết quả và chi phí của

nền sản xuất).
* Chỉ tiêu tổng quát phản ánh HQKT
H = Q – K H = Q/K
H =

Q/

K
H = K/Q

H =

Q -

K
H =

K/

Q
Trong đó:
H: Hiệu quả kinh tế;
Q: Kết quả sản xuất thu được;
K: Chi phí nguồn lực;
Q: Phần tăng lên của kết quả;

K: Phần tăng lên của chi phí.
Chỉ tiêu này có thể tính theo hiện vật, hoặc tính theo giá trị (tiền).
Vấn đề cần thống nhất cách xác định Q và K để tính toán HQKT.
- Q có thể biểu hiện là: Tổng giá trị sản xuất (GO); Tổng giá trị gia

tăng (VA); Thu nhập hỗn hợp (MI); Lợi nhuận (Pr); Phần tăng lên của kết quả
(

Q).
- K có thể biểu hiện là: Tổng chi phí sản xuất (TC); Chi phí cố định
(FC); Chi phí biến đổi (VC); Chi phí trung gian (IC); Chi phí lao động (LĐ);
Phần tăng lên của chi phí (

K).
Phương pháp xác định kết quả sản xuất (Q) và chi phí sản xuất (K) nêu
trên là chung nhất, từng ngành, từng lĩnh vực sản xuất và ở những điều kiện
cụ thể nhất định vận dụng cho thích hợp. Đánh giá HQKT trong sản xuất kinh
doanh là việc làm hết sức phức tạp, vì vậy để phản ánh một cách đầy đủ,
chính xác, toàn diện thì ngoài những chỉ tiêu trên, cần quan tâm đến một số
chỉ tiêu khác như:
Trong quá trình đánh giá, phân tích không chỉ đơn thuần phân tích,
đánh giá HQKT mà phải chú ý đến hiệu quả xã hội,…Đồng thời phải chú ý


16
đến hiệu quả môi trường sinh thái như giảm gây ô nhiễm môi trường, đa dạng
hóa sinh học, bảo vệ nguồn nước,…Trên cơ sở phát triển một nền nông
nghiệp bền vững.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả nuôi chim bồ câu tại một số địa phương
1.2.1.1. Ở huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang
Tỉnh Bắc Giang có rất nhiều mô hình phát triển kinh tế cho thu nhập
cao đến cả trăm triệu đồng/năm, tạo việc làm ổn định cho nhiều lao động.
Nhưng, có một mô hình ít người làm mà lại cho thu nhập cao, với chi phí
thấp, ít tốn công, đó là mô hình nuôi chim bồ câu.

Đến Bắc Giang rất dễ để tìm hiểu các mô hình nuôi chim bồ câu ở các
huyện như : Tân Yên, Hiệp Hòa, Yên Dũng,…
Từ việc nuôi chơi đến làm giàu, bồ câu là vật nuôi sinh trưởng và phát
triển nhanh, từ khi nở cho đến khi bồ câu non ra ràng là 45 ngày, trong
khoảng thời gian ấy bồ câu mẹ có thể vừa đẻ vừa nuôi con. Bình quân mỗi
tháng gia đình anh xuất bán hơn 200 cặp chim giống với giá thấp nhất là
180.000 đồng/cặp. Giá bán bồ câu thịt anh bán hện nay là 120.000 đồng/cặp.
Sau khi trừ các chi phí thức ăn, gia đình anh thu về trên 25 triệu đồng tiền
lãi/tháng nếu chỉ bán giống, nếu chỉ bán chim thịt thì anh cũng được lãi
khoảng 14 triệu/tháng một mức thu nhập rất hấp dẫn tại một vùng nông thôn.
Hiệu quả nuôi chim bồ câu cao hơn nhiều so với nuôi các loại gia súc,
gia cầm khác do chi phí đầu tư không quá cao, không phải tốn nhiều công
sức để chăm sóc lại thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh đó, diện tích để nuôi chim
bồ câu không cần phải lớn. Đây là một hướng đi rất phù hợp với những hộ
nông dân nghèo. [17]
Ngoài nuôi bồ câu, gia đình anh còn nuôi thêm: gà thả vườn, lợn thịt,
nuôi bò, kết hợp làm nông nghiệp để tăng thêm thu nhập. Mỗi năm trừ chi
phí, gia anh thu lãi trên 200 triệu đồng. Mô hình nuôi chim bồ câu của anh đã

×