BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
_____________
______________
LÊ THỊ HOÀI VINH
GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG DẠY NGHỀ
TẠI TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ
CÔNG THƯƠNG TRUNG ƯƠNG
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60 14 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Khắc Bình
HÀ NỘI, 2014
ii
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS-TS Nguyễn Khắc
Bình, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự chỉ dẫn tận tình của tất cả các giảng viên
trực tiếp giảng dạy chúng tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu vừa
qua, đặc biệt là sự quan tâm giúp đỡ tận tình của các thầy, cô đang công tác tại
phòng Đào tạo, Trung tâm Sau đại học - Bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý
Học viện Quản lý Giáo dục.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu cùng cán bộ, giảng viên
Trường Đào tạo,bồi dưỡng cán bộ Công thương Trung ương, các đồng nghiệp
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi được tham gia học tập và nghiên cứu.
Mặc dù có nhiều cố gắng, xong thời giam nghiên cứu có hạn nên luận
văn không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn
của các quý thầy,cô và các bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 6 năm 2014
Tác giả luận văn
Lê Thị Hoài Vinh
i
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG iv
DANH MỤC SƠ ĐỒ iv
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
5. Giả thuyết khoa học 3
7. Phương pháp nghiên cứu 4
8. Cấu trúc luận văn 5
3.4.1. Mục đích khảo nghiệm 77
3.4.2. Nội dung khảo nghiệm 77
3.4.3. Đối tượng khảo nghiệm 78
3.4.4. Tiến trình khảo nghiệm 78
3.4.5. Một số công thức tính toán trong khảo nghiệm 78
3.4.6. Kết quả khảo nghiệm và phân tích kết quả 79
ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Bộ GD&ĐT : Bộ Giáo dục và Đào tạo
CBQL : Cán bộ quản lý
CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
CSVC : Cơ sở vật chất
GD : Giáo dục
GV : Giáo viên
NCKH : Nghiên cứu khoa học
QL : Quản lý
QLGD : Quản lý giáo dục
THPT : Trung học phổ thông
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC SƠ ĐỒ
iv
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Điều 35, Hiến pháp (năm 1992) nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam đã viết “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội
phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất
và năng lực công dân, đào tạo những người lao động có nghề, năng động và
sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm
cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ Quốc”. [28]
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nhấn mạnh và khẳng
định: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu, là nên tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”. [15] Bởi vì công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ là công cuộc xây
dựng kinh tế mà phải là xây dựng, phát triển trên tất cả cả lĩnh vực: kinh tế,
chính trị, văn hóa… do đó cần có nguồn nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất
lượng. Muốn có nguồn nhân lực đó nhất thiết phải chú trọng phát triển GD -
đào tạo vì GD đào tạo trực tiếp giúp con người nâng cao trí tuệ, hiểu biết và
khả năng vận dụng tri thức, khoa học kỹ thuật, nên GD - đào tạo trở thành mối
quan tâm hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân ta.
Hệ thống GD của Việt Nam hiện nay bao gồm: GD mầm non, GD phổ
thông, GD nghề nghiệp, GD đại học và sau đại học. Trong thời gian qua, GD
Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, hệ thống GD quốc dân được hoàn
hiện hơn với các cấp, các bậc học, trình độ đào tạo, các loại hình và phương
thức GD. Quy mô GD tăng nhanh, nhất là ở bậc đại học và dạy nghề. Các loại
hình nhà trường ngày càng được đa dạng hóa, thu hút được nhiều người học;
các trường công lập giữ vai trò nòng cốt trong phổ cập GD.
1
Dạy nghề nằm trong bậc GD nghề nghiệp là một bộ phận của hệ thống
GD quốc dân, có chức năng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ
thuật - nghiệp vụ ở trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề theo
nhu cầu của thị trường lao động. Trong những năm qua, được sự quan tâm của
Đảng, Nhà nước, việc dạy nghề đã được quan tâm, ổn định và có bước phát
triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhân lực kỹ thuật của thị trường lao động. Tuy
nhiên, dạy nghề vẫn còn khó khăn, tồn tại, cần được đổi mới và hoàn thiện.
Nâng cao chất lượng dạy nghề như là một đòi hỏi khách quan, một yêu cầu hết
sức cấp thiết. Nó không những ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân
lực mà còn ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Nâng cao chất lượng dạy nghề tức là nâng cáo chất lượng các
yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo, trong đó có yếu tố tổ chức QL.
Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương Trung ương được
thành lập theo quy định tại Nghị định 189/2007/NĐ-CP ngày 27/12/2007 của
Chính phủ trên cơ sở tổ chức lại Trường Cán bộ Thương mại Trung ương
thuộc Bộ Công Thương. Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương
Trung ương là tổ chức sự nghiệp GD, khoa học công nghệ có thu, tự đảm bảo
một phần kinh phí hoạt động thường xuyên, hoạt động trên phạm vi cả nước
trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khóa học và công nghệ về tổ
chức, QL các nghiệp vụ và dạy nghề ở trình độ cao đẳng cho ngành Công
Thương. Hơn 40 năm xây dựng và phát triển, Nhà trường luôn phấn đấu hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ được bộ, ngành giao phó trong mọi thời kỳ. Đáp ứng
nhu cầu học tập nâng cao trình độ và nghề nghiệp của HS cũng như cán bộ
ngành công thương trực thuộc Bộ Công Thương. Trường Đào tạo, bồi dưỡng
Cán bộ Công Thương Trung ương đã xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển
nhà trường với nhiệm vụ trọng tâm là nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
đào tạo, bồi dưỡng nói chung, đặc biệt là cần phải có các biện pháp QL đồng
bộ để nâng cao chất lượng dạy nghề nói riêng, góp phần đào tạo nguồn nhân
2
lực có trình độ tay nghề cao đáo ứng nhu cầu phát triển KT - XH của đất nước
trong giai đoạn hiện nay.
Để đóng góp một phần công sức trong việc nâng cao hiệu quả, chất
lượng dạy nghề tại Nhà trường, tôi chọn đề tài “Giải pháp quản lý chất lượng
dạy nghề tại Trường Đào tạo, Bồi dưỡng Cán bộ Công Thương Trung
ương” để nghiên cứu và làm luận văn thạc sĩ QLGD.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, từ đó đề xuất các giải pháp
chất lượng dạy nghề tại Trường Đào tạo, Bồi dưỡng Cán bộ Công Thương
Trung ương.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Xây dựng cơ sở lý luận về QL chất lượng dạy nghề.
3.2. Phân tích thực trạng chất lượng dạy nghề và QL chất lượng dạy
nghề tại Trường Đào tạo, Bồi dưỡng Cán bộ Công Thương Trung ương.
3.3. Đề xuất các giải pháp QL chất lượng dạy nghề tại Trường Đào tạo,
Bồi dưỡng Cán bộ Công Thương Trung ương.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác dạy nghề tại Trường Đào tạo, Bồi dưỡng Cán bộ Công Thương
Trung ương.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp QL chất lượng dạy nghề tại Trường Đào tạo, Bồi dưỡng Cán
bộ Công Thương Trung ương.
5. Giả thuyết khoa học
Trong những năm qua, công tác QL chất lượng đào tạo tại Trường Đào
tạo, Bồi dưỡng Cán bộ Công Thương Trung ương đã đạt được những kết quả
cụ thể đáng ghi nhận. Tuy nhiên, trên thực tế còn nảy sinh nhiều vấn đề bất
cập, hạn chế trong công tác QL chất lượng dạy nghề tại nhà trường. Theo đó,
3
nếu áp dụng một cách đồng bộ các giải pháp QL thì công tác QL chất lượng
dạy nghề tại Trường Đào tạo, Bồi dưỡng Cán bộ Công Thương Trung ương sẽ
được nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo trong những năm tới.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu về QL chất lượng dạy nghề tại
Trường Đào tạo, Bồi dưỡng Cán bộ Công Thương Trung ương, nhằm chủ yếu
tổng kết đánh giá thực tiễn về công tác QL chất lượng dạy nghề của nhà trường
từ năm học 2010 - 2011 đến năm 2012 - 2013 và đề xuất một số biện pháp QL
chất lượng dạy nghề nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cho các năm tiếp theo.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa và khái quát hóa các văn bản, tài liệu
thể hiện quan điểm, đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
công trình NCKH về QL chất lượng dạy nghề trong và ngoài nước để hình
thành cơ sở lý luận của đề tài.
Nghiên cứu các tài liệu lưu trữ, báo cáo tổng kết công tác dạy nghề các
năm của nhà trường, báo cáo công tác đào tạo của Bộ Công Thương .
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Điều tra bằng hệ thống phiếu hỏi với các đối tượng là CBQL, GV, HS
nhằm tìm hiểu và đánh giá sơ bộ về thực trạng QL chất lượng dạy nghề của
Trường Đào tạo, Bồi dưỡng Cán bộ Công Thương Trung ương hiện nay.
7.2.2. Phương pháp chuyên gia
Tiến hành xin ý kiến của chuyên gia am hiểu thông qua các buổi thảo
luận, toạ đàm nhằm tìm hiểu thêm về thực trạng QL chất lượng đào tạo của nhà
trường hiện nay; đồng thời xin ý kiến đóng góp về tiến trình nội dung, cấu trúc
định hướng của đề tài.
4
7.2.3. Phương pháp quan sát
Tiến hành quan sát quá trình QL chất lượng dạy nghề tại Trường Đào
tạo, Bồi dưỡng Cán bộ Công Thương Trung ương nhằm đưa những đánh giá
thực trạng về chất lượng dạy nghề và QL chất lượng dạy nghề tại nhà trường.
7.3. Nhóm phương pháp bổ trợ khác
Đề tài cũng tiến hành sử dụng một số phương pháp bổ trợ khác như:
- Phương pháp thống kê toán học nhằm xử lý và phân tích các số liệu,
kết quả điều tra; đồng thời xác định mức độ tin cậy của việc điều tra và kết quả
nghiên cứu.
- Phương pháp phỏng vấn, chúng tôi tiến hành phỏng vấn một số CBQL
và GV nhằm làm rõ thêm một số nội dung đề cập trong phiếu hỏi, từ đó có
nhận định đảm bảo độ tin cậy của kết quả nghiên cứu.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu; kết luận và khuyến nghị; tài liệu tham khảo; phụ
lục; đề tài được trình bày 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác quản lý chất lượng dạy nghề.
Chương 2: Thực trạng quản lý chất lượng dạy nghề tại Trường Đào tạo,
Bồi dưỡng Cán bộ Công Thương Trung ương.
Chương 3: Giải pháp quản lý chất lượng dạy nghề tại Trường Đào tạo,
Bồi dưỡng Cán bộ Công Thương Trung ương.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG DẠY NGHỀ
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Một số nghiên cứu ở nước ngoài
Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, ở các nước tư bản phát triển như
Đức, Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản đã quan tâm đến vấn đề dạy nghề và quản lí
quá trình dạy nghề nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội công nghiệp. Do đặc
điểm, yêu cầu về nguồn nhân lực- đội ngũ công nhân kỹ thuật ở mỗi nước có
khác nhau nên không chỉ có lĩnh vực dạy nghề mà cả phương pháp, hình thức,
qui mô dạy nghề cũng có sự khác nhau song có điểm chung là đều chú trọng
đến sự phát triển kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp.
Thí dụ: ở Mỹ, đào tạo công nhân kỹ thuật được chú trọng và tiến hành
ngày từ cấp THPT phân ban và các trường dạy nghề cấp trung học, các cơ sở
dạy nghề sau THPT. HS tốt nghiệp được cấp bằng chứng nhận và chứng chỉ
công nhân lành nghề và có quyền được đi học tiếp theo. Thời gian đào tạo dao
động từ 2 đến 7 năm tuỳ thuộc vào từng nghề đào tạo. Các loại trường tư thuộc
vào các công ty tư nhân mà công ty của họ khá lớn. Các nhà trường trong công
ty đào tạo công nhân ngay trong công ty mình và có thể đào tạo cho công ty
khác theo hợp đồng.[11]
Còn ở Cộng hòa liên bang Đức đã sớm hình thành hệ thống dạy nghề và
hệ TCCN. GD chuyên nghiệp là một bộ phận trung học cấp hai của hệ thống
GD quốc dân với các loại hình trường đa dạng. Họ đã phân thành hai loại trình
độ: ở trình độ 1 được xếp vào bậc trung học tương đương với THPT từ lớp 9
đến lớp 12, ở trình độ 2 được xếp cao hơn bậc sau THPT. Ngoài trường phổ
thông mang tính không chuyên nghiệp chỉ nhằm mục tiêu đào tạo chuẩn bị lên
Đại học còn có các trường phổ thông chuyên nghiệp, trường hỗn hợp HS các
loại trường này có thể vào học ở các trường Đại học chuyên nghành. Sau khi
6
tốt nghiệp chủ yếu HS ra làm việc sơ cấp. Do các loại hình trường rất đa dạng
nên không có mô hình tổ chức QL đồng nhất giữa các trường nhất là các bang
khác nhau, có trường công lập, trường tư thục, có trường thuộc công ty tư nhân
chuẩn bị phần nhân lực cho công ty mình. [11]
Cho đến ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều bố trí hệ thống GD
kỹ thuật và dạy nghề bên cạnh bậc phổ thông và đào tạo bậc cao đẳng, đại học.
Do sớm có hệ thống dạy nghề nên các nước tư bản phát triển đã tích luỹ được
nhiều kinh nghiệm trong quá trình đào tạo. Quá trình dạy nghề cũng như quản
lí chất lượng dạy nghề liên tục được hoàn thiện, đổi mới để đảm bảo chất
lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu thực tiễn cuộc sống.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là ở Liên Xô trước đây cũng sớm
quan tâm đến vấn đề chất lượng dạy nghề, với những đóng góp quan trọng của
các nhà GD học, tâm lý học như X.I Arkhangenxki, X.Ia Batưsep, A.E
Klimov, N.V Cudmina, Ie. A Parapanôva, T.V Cuđrisep,.v.v. [11] dước góc độ
GD học nghề nghiệp, tâm lý lao động, tâm lý học kỹ sư, tâm lý học xã hội. Tuy
nhiên, theo nhận xét của T.V Cuđrisep, những nghiên cứu trong lĩnh vực dạy
học và GD nghề vào những năm 70 của thế kỷ XX còn mang tính từng mặt,
một chiều nên chưa giải quyết được một cách triệt để vấn đề chuẩn bị cho thế
hệ trẻ ước vào cuộc sống và lao động. Quá trình hình thành nghề lúc đó được
chia làm 4 giai đoạn tách rời nhau, đó là: giai đoạn nảy sinh dự định nghề và
bước vào học các trường nghề; giai đoạn HS lĩnh hội có tính chất tái tạo những
tri thức, kỹ năng nghề nghiệp; giai đoạn thích ứng nghề và cuối cùng là giai
đoạn hiện thực hoá từng phần hoạt động nghề. Quan niệm trên theo T.V
Cuđrisep đã tạo ra những khó khăn rất lớn trong quá trình học và dạy nghề.
Quá trình dạy nghề trở lên áp đặt và không thấy được mối quan hệ giữa các
giai đoạn hình thành nghề.
Cũng theo T.V Cuđrisep, để khắc phục những khó khăn, hạn chế trên
cần thiết phải có nhận thức lại, theo tác giả sự hình thành nghề của thế hệ trẻ
7
trong điều kiện của GD và dạy học là một quá trình lâu dài, liên tục và thống
nhất. Quá trình hình thành nghề trải qua bốn giai đoạn nhưng chúng có sự gắn
bó mật thiết với nhau. Quan điểm này của tác giả đã tạo nên nhận thức mới về
sự hình thành nghề, là cơ sở khoa học để xây dựng mô hình dạy nghề và nâng
cao chất lượng dạy nghề.
1.1.2. Một số nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, những vấn đề về dạy nghề, quản lí chất lượng dạy nghề
cũng được quan tâm ngay từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX, khi đó còn
Tổng Cục dạy nghề. Lúc đó, một số các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực GD
nghề nghiệp, tâm lý học lao động (ví dụ như Đặng Danh Ánh, Nguyễn Ngọc
Đường, Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Bá Dương ) đã chủ động nghiên cứu những
khía cạnh khác nhau về sự hình thành nghề và công tác dạy nghề. Đặc biệt,
một số nhà nghiên cứu khác như Đặng Quốc Bảo, Trần Kiểm, Nguyễn Thị Mỹ
Lộc [38] đã đi sâu nghiên cứu về quản lí chất lượng dạy nghề.
Tuy nhiên, sau đó những nghiên cứu về dạy nghề, quản lí chất lượng dạy
nghề ở nước ta bị lắng xuống, ít được chú trọng. Chỉ đến những năm gần đây
vấn đề dạy nghề tiếp tục được quan tâm nghiên cứu trở lại thông qua những đề
tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành quản lí GD. Những nghiên cứu này đã ít
nhiều khái quá hoá và làm rõ được những vấn đề lý luận và đề xuất những biện
pháp quản lí góp phần nâng cao hiệu quả quản lí quá trình đào tạo nghề nói
chung và hoạt động dạy nghề nói riêng.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý Giáo dục
1.2.1.1. Quản lý
QL là các hoạt động do một hoặc nhiều người điều phối hành động của
những người khác nhằm thu được kết quả mong muốn. Ngày nay, thuật ngữ
QL đã trở lên phổ biến nhưng chưa có một định nghĩa thống nhất.
8
Có tác giả cho QL là hoạt động nhằm đảm bảo sự hoàn thành công việc
thông qua sự nỗ lực của người khác. Cũng có người cho QL là một hoạt động
thiết yếu nhằm đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục
đích của nhóm.
Có tác giả lại quan niệm QL là công việc kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và
kiểm tra theo dõi thực hiện như kế hoạch. QL là một nghề sử dụng quyền lực
của tổ chức, thực hiện tác động, điều khiển có tổ chức tới một hệ thống hay
một quá trình (của tự nhiên, xã hội, tư duy). Vận động theo quy luật khách
quan, nhằm mục đích định trước của người QL và của tổ chức mà người QL
tham gia.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về QL, ta có thể hiểu: "QL là sự tác động
có tổ chức, có hướng đích của chủ thể QL tới đối tượng QL nhằm đạt mục tiêu
đặt ra". [26]
Sự tác động này được mô hình hoá như sau:
Sơ đồ 1.1. Mô hình về quản lý [26]
Như vậy, có thể nói QL là phương thức tốt nhất để đạt đề mục tiêu chung
của một nhóm người, một tổ chức hay nói rộng hơn là một nhà nước. QL bao
giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định. QL thể hiện mối
quan hệ giữa hai bộ phận, đó là chủ thể QL, là cá nhân hoặc tổ chức làm nhiệm
Chủ thể
QL
Đối tượng
QL
Mục tiêu
QL
Phương pháp
QL
Cụng cụ
QL
9
vụ QL, điều khiển và đối tượng QL là bộ phận chịu sự QL. QL bao giờ cũng là
QL con người. QL là sự tác động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với
quy luật khách quan. QL xét về mặt công nghệ là sự vận động của các thành tố
này có mối quan hệ tác động, tương hỗ với nhau như sơ đồ 1.1.
1.2.1.2. Chức năng cơ bản của quản lý
QL là một loại lao động đặc biệt, lao động sáng tạo, hoạt động QL cũng
phát triển không ngừng tìm Bản chất của hoạt động QL là sự tác động có mục
đích đến tập thể người và tổ chức nhằm thực hiện mục tiêu QL Chức năng QL
là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của chủ thể QL nảy sinh từ sự
phân công, chuyên môn hoá trong hoạt động QL nhằm thực hiện mục tiêu. QL
phải thực hiện nhiều chức năng khác nhau, từng chức năng có tính độc lập
tương đối nhưng chúng được liên kết hữu cơ trong một hệ thống nhất quán. Có
4 chức năng cơ bản của QL liên quan mật thiết với nhau, đó là kế hoạch, tổ
chức, chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá và thông tin là trung tâm của QL Có thể mô
hình hoá mối quan hệ giữa những chức năng QL như sau:
Sơ đồ 1.2. Mối quan hệ giữa những chức năng quản lý [26]
Bên cạnh 4 chức năng cơ bản của QL, còn nhiều vấn đề liên quan khác
như: dự đoán, động viên, điều chỉnh, đánh giá, thông tin, phản hồi Các chức
năng QL tạo thành một hệ thống thống nhất với một trình tự nhất định trong
QL không được coi nhẹ một chức năng nào.
1.2.1.3. Quản lý giáo dục
10
Kế hoạch Tổ chức
Kiểm tra Chỉ đạo
Cũng như khái niệm QL, QLGD được hiểu theo nhiều khía cạnh khác
nhau. Theo tổng quát QLGD là sử dụng quyền lực của tổ chức, thực hiện tác
động, điều khiển có tổ chức một hệ thống GD, tới một quá trình dạy và học
theo quy luật vận động khách quan, nhằm mục đích phát triển GD theo quan
điểm và kế hoạch định trước của người QLGD và mục đích thoả mãn yêu cầu
về số lượng, chất lượng con người cho sự phát triển KT - XH.
Như vậy, QLGD được hiểu một cách đầy đủ là hệ thống tác động có
mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của những người làm công tác QLGD để
làm cho hệ thống GD vận hành theo đường lối và nguyên lý của Đảng, thực
hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam mà hạt nhân là dạy
học, GD & ĐT thế hệ trẻ đáp ứng nhu cầu KT - XH, đổi mới và phát triển để
đưa GD tiến lên trạng thái mới về chất thông qua thực hiện chức năng QTGD.
QLGD vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật.
QLGD được hiểu là QL quá trình GD và đào tạo trong đó bao gồm QL
quá trình dạy học diễn ra ở các cơ sở GD. Tuỳ theo việc xác định đối tượng
QL, QLGD có nhiều cấp độ khác nhau và các quan niệm khác nhau.
QLGD theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối hợp các lực
lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển
xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển GD thường xuyên, công tác GD
không chỉ dành riêng cho thế hệ trẻ mà cho tất cả mọi người, tuy nhiên trọng
tâm vẫn là thế hệ trẻ.
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí: "QLGD thực hiện chức năng ổn định,
duy trì đào tạo đáp ứng nhu cầu hiện hành của nền KT- XH, QLGD nhằm phối
hợp với các ngành, các lực lượng xã hội tiến hành công tác xã hội hoá GD,
huy động các nguồn lực và HTQT trong lĩnh vực GD - đào tạo. QLGD thực
hiện nhiệm vụ này thông qua việc thực hiện 4 chức năng: Lập kế hoạch, tổ
chức, chỉ đạo, kiểm tra". [12]
11
QLGD có đặc điểm là bao giờ cũng chia thành chủ thể QL và đối tượng
bị QL, QLGD là QL việc đào tạo con người, việc hình thành và hoàn thiện
nhân cách, việc tái sản xuất nguồn lực con người. Đối tượng QL ở đây là
những ai nhận được sự GD và đào tạo. QL việc GD và đào tạo con người là
loại hình QL khó khăn nhất, phức tạp nhất.
QLGD bao giờ cũng liên quan đến việc trao đổi thông tin và đều có mối
liên hệ ngược. Thông tin là các tín hiệu mới, được thu nhận, được hiểu và được
đánh giá là có ích cho các hoạt động QL. Mệnh lệnh, chỉ thị, nghị quyết, quyết
định là các thông tin điều khiển. QLGD luôn có khả năng thích nghi tức là
luôn biến đổi: Khi đối tượng QL mở rộng về quy mô thì chủ thể QL cũng có
thể tiếp tục QL có hiệu quả bằng cách đổi mới quá trình QL thông qua các cấp
trung gian.
Quá trình GD là một thể thống nhất toàn vẹn với sự liên kết của các
thành tố:
Bảng 1.1: Các thành tố của quá trình giáo dục
Mục tiêu đào tạo MT Lực lượng đào tạo (Thầy) Th
Nội dung đào tạo ND Đối tượng đào tạo (Trò) Tr
Phương pháp đào tạo PP Điều kiện đào tạo ĐK
Quá trình GD phải làm cho các thành tố trên gắn kết với nhau, với nền
tảng của quá trình đào tạo là MT - PP và Th - Tr - Đk là tác động của hoạt
động QL vật chất hoá MT - ND PP để biến đổi đối tượng đào tạo có nhân cách
mới.
12
QL
ND
ĐK
MT
Th
ND
Tr
Sơ đồ 1.3: Quản lý Giáo dục [26]
Như vậy, QLGD là sự tác động có ý thức của chủ thể QL đến khách thể
QL nhằm đưa hoạt động GD đạt được mục tiêu mong muốn.
1.2.2. Chất lượng đào tạo nghề
1.2.2.1. Đào tạo
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Đào tạo là quá trình tác động đến
một con người nhằm làm cho con người có lĩnh hội và nắm vững tri thức kỹ
năng, kỹ xảo một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với
cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công nhất định góp phần của mình
vào việc phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh loài ngoài. Về cơ
bản đào tạo là giảng dạy và học tập trong nhà trường gắn với GD đạo đức,
nhân cách”. [40]
Theo tác giả Nguyễn Minh Đường: “Đào tạo là quá trình hoạt động có
mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển hệ thống tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo, thái độ… để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân để tạo điều kiện
cho họ có thể vào đời hành nghề một cách có năng suất và hiệu quả”. [35]
Như vậy, đào tạo là một quá trình trang bị kiến thức, kỹ năng nghề
nghiệp, đồng thời GD phẩm chất đạo đức, thái độ cho người học để họ trở
thành người cán bộ, công dân, người lao động có kiến thức, kỹ năng, nghề
13
nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ
luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người lao
động có khả năng tìm việc làm, đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH, củng cố
quốc phòng an ninh. Quá trình này diễn ra trong các cơ sở đào tạo như: Các
trường Đại học, Cao đẳng, THCN và dạy nghề… theo một kế hoạch, một
chương trình, nội dung trong một thời gian quy định cho một ngành nghề cụ
thể nhằm giúp cho người học đạt được một trình độ nhất định trong lao động
nghề nghiệp.
Theo chúng tôi, đào tạo là quá trình tác động đến con người nhằm làm
cho con người có lĩnh hội và nắm vững những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái
độ một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho họ thích nghi với cuộc sống và
khả năng đảm nhận một sự phân công lao động nhất định. Đào tạo là một loại
công việc xã hội, một hoạt động đặc trưng của GD (nghĩa rộng) nhằm chuyển
giao kinh nghiệm hoạt động từ thế hệ này qua thế hệ khác.
1.2.2.2. Dạy nghề
Nghề là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử rất phổ biến gắn chặt với
sự phân công lao động xã hội, với tiến bộ khoa học kỹ thuật và văn minh nhân
loại. Nghề xuất hiện trong xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu làm ăn sinh sống của
con người và đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH theo nhiều lĩnh vực hoạt
động xã hội, nhiều khu vực lãnh thổ và cộng đồng. Chính vì vậy, việc dạy nghề
là một vấn đề quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực.
Hiện nay, đang tồn tại nhiều định nghĩa về dạy nghề. Một số nhà nghiên
cứu trong và ngoài nước đã đưa ra một số khái niệm:
Tác giả William Mc Gehee cho rằng: “Dạy nghề là những qui trình mà
các công ty sử dụng để tạo thuận lợi cho việc học tập có kết quả các hành vi
đóng góp vào mục địch và các mục tiêu của công ty ”. [39]
14
Ngày 29/11/2006, Quốc hội đã ban hành Luật Dạy nghề số
76/2006/QH11.Trong đó viết: “Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang
bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để
có thể tìm được việc làm hoặc từ tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá
học ”[29]
Qua đó, ta có thể thấy dạy nghề là khâu quan trọng trong việc giải quyết
việc làm cho người lao động, tuy nó không tạo ra việc làm ngay nhưng nó lại
là yếu tố cơ bản tạo thuận lợi cho quá trình tìm việc làm và thực hiện công
việc. Dạy nghề giúp cho người lao động có kiến thức chuyên môn, kỹ năng và
thái độ nghề nghiệp để từ đó họ có thể xin làm việc trong các cơ quan, doanh
nghiệp, hoặc có thể tự tạo ra công việc sản xuất cho bản thân.
Hiện nay, dạy nghề mang tính tích hợp giữa lí thuyết và thực hành. Sự
tích hợp thể hiện ở chỗ nó đòi hỏi người HS hôm nay, người thợ trong tương
lai phải vừa chuyên sâu về kiến thức, vừa phải thành thục về kỹ năng tay nghề.
Đây là điểm khác biệt lớn trong dạy nghề so với dạy văn hoá.
Dạy nghề cung cấp cho HS những kiến thức và kỹ năng, thái độ nghề
nghiệp cần thiết của một nghề. Về kiến thức HS hiểu được cơ sở khoa học về
vật liệu, dụng cụ, trang thiết bị, quy trình công nghệ, biện pháp tổ chức quản lí
sản xuất để người công nhân kỹ thuật có thể thích ứng với sự thay đổi cơ cấu
lao động trong sản xuất và dạy nghề mới. HS được cung cấp kiến thức và kỹ
năng nghề nghiệp như kỹ năng sử dụng công cụ gia công vật liệu, các thao tác
kỹ thuật, lập kế hoạch tính toán, thiết kế và khả năng vận dụng vào thực tiễn.
Đó là những cơ sở ban đầu để người HS người cán bộ kỹ thuật tương lai hình
thành kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát huy tính sáng tạo hình thành kỷ luật,
tác phong lao động công nghiệp.
Nguyên lý và phương châm của dạy nghề: Học đi đôi với hành; lấy thực
hành, thực tập kỹ năng nghề làm chính; coi trọng GD đạo đức, lương tâm nghề
15
nghiệp, rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp của người học,
đảm bảo tính GD toàn diện.
Dạy nghề hiện nay có ba cấp trình độ đào tạo đó là:
- Sơ cấp nghề: Đào tạo nghề trình độ sơ cấp trang bị cho người học nghề
năng lực thực hành một nghề đơn giản hoặc năng lực thực hành một số công
việc của một nghề. Thời gian học từ 3 tháng đến dưới 1 năm. Kết thúc chương
trình người học được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề.
- Trung cấp nghề: Đào tạo nghề trình độ trung cấp nhằm trang bị cho
người học kiến thức chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của một
nghề; có khả năng làm việc độc lập và ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công
việc. Thời gian học từ 1-2 năm tùy theo nghề đào tạo đối với người tốt nghiệp
THPT, 3-4 năm tùy theo nghề đào tạo đối với người tốt nghiệp THCS. Kết
thúc chương trình người học được cấp bằng trung cấp nghề.
- Cao đẳng nghề: Đào tạo nghề trình độ cao đẳng nhằm trang bị cho
người học nghề kiến thức chuyên môn và năng lực thực hành các công việc
của một nghề, có khả năng làm việc độc lập và tổ chức làm việc theo nhóm, có
khả năng sáng tạo và ứng dụng kỹ thuật công nghệ vào công việc; giải quyết
được các tình huống phức tạp trong thực tế. Thời gian từ 2-3 năm tùy theo
nghề đào tạo với người tốt nghiệp THPT, 1-2 năm tùy theo nghề đào tạo với
người tốt nghiệp trung cấp nghề cùng nghề đào tạo. Kết thúc chương trình
người học được cấp bằng cao đẳng nghề.
Hình thức dạy nghề đang áp dụng chủ yếu hiện nay là:
- Kèm cặp trong sản xuất: Là hình thức đào tạo trực tiếp tại nơi làm
việc, chủ yếu là thực hành ngay trong quá trình sản xuất do xí nghiệp tổ chức.
Kèm cặp trong sản xuất được tiến hành dưới hai hình thức: Kèm cặp theo cá
nhân và kèm cặp theo tổ chức, đội sản xuất. Với kèm cặp theo cá nhân, mỗi thợ
học nghề được một công nhân có trình độ tay nghề cao hướng dẫn. Người
16
hướng dẫn vừa sản xuất vừa tiến hành dạy nghề theo kế hoạch. Với hình thức
kèm cặp theo tổ, đội sản xuất, thợ học nghề được tổ chức thành từng tổ và phân
công cho những công nhân dạy nghề thoát ly sản xuất chuyên trách trình độ
nghề nghiệp và phương pháp sự phạm nhất định.
- Các lớp cạnh doanh nghiệp: Là các lớp do doanh nghiệp tổ chức nhằm
đào tạo riêng cho mình hoặc cho các doanh nghiệp cùng ngành, cùng lĩnh vực.
Chủ yếu dạy nghề cho công nhân mới đựợc tuyển dụng, đào tạo lại nghề, nâng
cao tay nghề, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật mới. Hình thức đào tạo này
không đòi hỏi có CSVC, kỹ thuật riêng, không cần bộ máy chuyên trách mà
dựa vào điều kiện sẵn có của doanh nghiệp. Chương trình đào tạo gồm hai
phần: lý thuyết và thực hành sản xuất. Phần lý thuyết được giảng tập trung do
các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật phụ trách, phần thực hành được tiến hành ở các phân
xưởng do các kỹ sư hoặc công nhân lành nghề hướng dẫn.
- Các trường dạy nghề: Đáp ứng yêu cầu sản xuất ngày càng phát triển
trên cơ sở kỹ thuật hiện đại, các Bộ, Ngành, cá nhân tổ chức các trường dạy
nghề tập trung, qui mô lớn. Khi tổ chức, các trường dạy nghề có bộ máy QL,
đội ngũ GV chuyên trách và CSVC riêng cho đào tạo.
- Các trung tâm dạy nghề: Đây là loại hình đào tạo ngắn hạn, thường
dưới 1 năm. Chủ yếu là đào tạo phổ cập nghề cho thanh niên, người lao động.
1.2.2.3. Chất lượng
Hiện nay còn có nhiều cách hiểu khác nhau về chất lượng. Thuật ngữ
“chất lượng” phán ánh thuộc tính đặc trưng, giá trị, bản chất của sự vật và tạo
nên sự khác biệt (về chất) giữa sự vật này với sự vật khác. Theo quan điểm
triết học, chất lượng hay sự biến đổi về chất là kết quả của quá trình tích lũy về
lượng (quá trình tích lũy, biến đổi) tạo nên những bước nhảy vọt về chất của sự
vật và hiện tượng.
17
Trong kinh tế thị trường ngày nay, có hàng trăm định nghĩa tổng quát về
chất lượng khác nhau, chúng tôi xin nêu ra đây một vài định nghĩa theo các tư
liệu khác nhau:
- Theo từ điển tiếng Việt phổ thông: “Chất lượng là tổng thể những tính
chất, thuộc tính cơ bản của sự vật (sự việc)… làm cho sự vật (sự việc) này
phân biệt với sự vật (sự việc) khác”. [40]
- Theo Daniel T. Seymour (1993) quan niệm “Chất lượng là sự phù hợp
hay sự đáp ứng vượt trội các nhu cầu của khách hàng” và “Chất lượng nằm
trong hệ thống của rất nhiều quá trình gồm các đầu vào, các quá trình và đầu
ra. Khi trong hệ thống xảy ra sai sót thì chất lượng bị ảnh hưởng”. [40] Sự
thoả mãn hay vượt trội nhu cầu của khách hàng đòi hỏi những đặc tính của sản
phẩm phải thoả mãn một số yêu cầu nào đó của khách hàng về thị hiếu thẩm
mỹ, về mức độ tiện dụng, về khả năng sử dụng được để phục vụ một nhu cầu
nào đó hay để sản sinh ra một lợi nhận mới.
Như vậy, các quan niệm về chất lượng tuy có khác nhau, nhưng đều có
chung một ý tưởng: chất lượng là sự thoả mãn một yêu cầu nào đó. Thực vậy,
trong sản xuất, chất lượng của một sản phẩm được đánh giá qua mức độ đạt
các tiêu chuẩn chất lượng đã đề ra của sản phẩm. Còn trong GD đào tạo, chất
lượng được đánh giá qua mức độ đạt được mục tiêu đã đề ra của chương trình
GD đào tạo.
1.2.2.4. Chất lượng dạy nghề
Chất lượng dạy nghề là một phạm trù động, đa nghĩa, nó phản ảnh nhiều
mặt của hoạt động dạy nghề, khó có thể tổng hợp khái quát bằng một định
nghĩa duy nhất. Dựa vào các định nghĩa về chất lượng, một số tác giả đã đưa ra
một số định nghĩa và khái niệm về chất lượng dạy nghề dưới đây:
Từ điển GD học đưa ra khái niệm: “Chất lượng dạy nghề là kết quả của
quá trình dạy nghề được phản ánh ở các đặc trưng về phẩm chất, giá trị nhân
18
cách và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt nghiệp
tương ứng với mục tiêu, chương trình đào tạo theo các ngành nghề cụ thể”.
[40]
Với yêu cầu đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường lao động, quan
niệm về chất lượng dạy nghề không chỉ dừng lại ở kết quả của quá trình đào
tạo trong nhà trường thể hiện ở người tốt nghiệp trong những điều kiện đảm
bảo chất lượng nhất định, mà còn phải tính đến sự phù hợp và thích ứng của
người tốt nghiệp với thị trường lao động. Quá trình thích ứng với thị trường lao
động không chỉ phụ thuộc vào chất lượng dạy nghề mà còn phụ thuộc vào các
yếu tố khác của thị trường lao động như: quan hệ cung - cầu, giá cả sức lao
động, chính sách sử dụng và bố trí việc làm của nhà nước và người sử dụng lao
động. Quan niệm này được thể hiện ở hình sau:
Sơ đồ 1.4. Quan điểm về chất lượng dạy nghề [39]
19
Kết quả đào tạo
phù hợp với mục
tiêu đào tạo - đạt
chất lượng trong
Kết quả đào tạo
phù hợp với nhu
cầu sử dụng - đạt
chất lượng ngoài
Nhu cầu xã hội
Mục tiêu đào tạo
Kết quả đào tạo