Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Đánh giá vai trò của đội ngũ khuyến nông cơ sở tại huyện Yên Bình - tỉnh Yên Bái.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.98 KB, 73 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



NGUYỄN THỊ THU HIỀN



Tên đề tài:
ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ KHUYẾN NÔNG CƠ SỞ
TẠI HUYỆN YÊN BÌNH - TỈNH YÊN BÁI



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC




Hệ đào tạo : Hệ chính quy
Lớp : 42 - Khuyến nông
Chuyên ngành : Khuyến nông
Khoa : Kinh tế và PTNT
Khoá học : 2010 – 2014




Thái Nguyên, năm 2014



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



NGUYỄN THỊ THU HIỀN



Tên đề tài:
ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ KHUYẾN NÔNG CƠ SỞ
TẠI HUYỆN YÊN BÌNH - TỈNH YÊN BÁI



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo : Hệ chính quy
Lớp : 42 - Khuyến nông
Chuyên ngành : Khuyến nông
Khoa : Kinh tế và PTNT
Khoá học : 2010 – 2014
Giảng viên hướng dẫn : ThS. Bùi Thị Minh Hà





Thái Nguyên, năm 2014
LỜI CAM ĐOAN
Trong thời gian thực tập tại huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái, tôi đã
chấp hành đầy đủ, nghiêm chỉnh mọi nội quy, quy định của cơ quan.
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong đề tài: “Đánh
giá vai trò của đội ngũ khuyến nông cơ sở tại huyện Yên Bình - tỉnh Yên
Bái” là trung thực và chưa được sử dụng trong bất kỳ công trình nghiên cứu
khoa học nào. Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ trong việc thực hiện đề
tài này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong đề tài đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Yên Bái, tháng 05 năm 2014
Sinh viên


Nguyễn Thị Thu Hiền

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khoá luận này trước tiên tôi xin trân trọng cảm ơn Ban
giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa KT&PTNT, cảm ơn các thầy cô
giáo đã truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học
tập và rèn luyện tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Tôi xin trân
trọng cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Thạc sỹ Bùi Thị Minh Hà đã giúp đỡ
tôi trong suốt thời gian thực tập để tôi hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
Xuất phát từ nguyện vọng bản thân và được sự giúp đỡ của Ban giám hiệu
nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Kinh tế và PTNT tôi về thực tập tại Trạm
khuyến nông huyện Yên Bình để hoàn thành đề tài: “Đánh giá vai trò của đội
ngũ khuyến nông cơ sở tại huyện Yên Bình - tỉnh Yên Bái”. Tôi cũng xin
chân thành cảm ơn các đồng chí cán bộ Phòng NN&PTNT, Trạm Khuyến
nông huyện Yên Bình, các cán bộ của trạm, các cán bộ khuyến nông cơ sở
cùng toàn thể các hộ nông dân ở các xã đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn

thành công việc trong thời gian thực tập tại địa phương.
Cuối cùng tôi bày tỏ sự biết ơn tới gia đình, bạn bè và người thân đã
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập.
Trong quá trình nghiên cứu vì lí do chủ quan và khách quan nên khoá
luận không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của các thầy, cô giáo và các bạn sinh viên.

Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 25 tháng 05 năm 2014
Sinh viên




Nguyễn Thị Thu Hiền


DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG KHÓA LUẬN
Trang
Bảng 4.1: Tình hình khí tượng thuỷ văn huyện Yên Bình năm 2013 22
Bảng 4.2: Tình hình sản xuất các cây trồng chính của huyện Yên Bình trong 3
năm 2011 - 2013 26
Bảng 4.3: Tình hình chăn nuôi một số loại vật nuôi chính trên địa bàn huyện
Yên Bình trong 3 năm (2011 - 2013) 28
Bảng 4.4: Trình độ của đội ngũ cán bộ khuyến nông cơ sở 32
huyện Yên Bình 32
Bảng 4.5: Các kỹ năng chính của đội ngũ CBKN cơ sở 34
Bảng 4.6: Những phẩm chất chính của đội ngũ CBKN cơ sở 36
tại huyện Yên Bình 36
Bảng 4.7: Đánh giá của nông dân về thái độ và hiệu quả làm việc của CBKN

cơ sở 37
Bảng 4.8: Đánh giá của nông dân về kiến thức của CBKN cơ sở 39
Bảng 4.9: Các hoạt động khuyến nông của huyện Yên Bình trong ba năm
(2011 - 2013) 40
Bảng 4.10: Các buổi tập huấn của của đội ngũ CBKN cơ sở tại 42
huyện Yên Bình trong năm 2013 42
Bảng 4.11: Các mô hình trình diễn diễn ra trên huyện Yên Bình năm 2013 44
Bảng 4.12: Đánh giá về sự tham gia mô hình của nông dân 46
Bảng 4.13: Chuyển giao tiến bộ KHKT thông qua tiếp xúc cá nhân 48
Bảng 4.14: Các giống mới được các CBKN cơ sở cung cấp cho nông dân
trong năm 3 năm (2011 -2013) 50
Bảng 4.15: Các nội dung thông tin tuyên truyền của đội ngũ KNV cơ sở
huyện Yên Bình 52
Bảng 4.16: Các tiến bộ KHKT được các cán bộ khuyến nông trực tiếp đưa
vào sản xuất 54

DANH MỤC CÁC HÌNH TRONG KHÓA LUẬN
Trang
Hình 2.1: Vai trò của CBKN đối với người nông dân 10
Hình 4.1: Biểu đồ cơ cấu các dân tộc huyện Yên Bình 31
Hình 4.2: Trình độ chuyên môn của đội ngũ CBKN cơ sở huyện Yên Bình
giai đoạn 2011 - 2013 33

MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1

1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2


1.2.1. Mục tiêu tổng quát 2

1.2.2. Mục tiêu cụ thể 2

1.3. Ý nghĩa của đề tài 3

1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 3

1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3

PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4

2.1. Cơ sở lý luận của đề tài 4

2.1.1. Khái niệm khuyến nông 4

2.1.2. Mục tiêu của tổ chức khuyến nông 5

2.1.3. Nội dung hoạt động của khuyến nông 7

2.1.4. Chức năng của khuyến nông 8

2.1.5. Vai trò của cán bộ khuyến nông 9

2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 11

2.2.1. Vài nét về tổ chức hoạt động khuyến nông trên thế giới 11

2.2.2. Hoạt động khuyến nông ở Việt Nam 13


2.2.3. Đội ngũ khuyến nông viên cơ sở tại Việt Nam 14

2.2.4. Quy định của Trạm khuyến nông huyện Yên Bình chức năng nhiệm vụ
của đội ngũ KNV cơ sở 16

PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 18

3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 18

3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 18

3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 18

3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 18

3.2.1. Địa điểm nghiên cứu 18

3.2.2. Thời gian nghiên cứu 18

3.3. Nội dung nghiên cứu 18

3.4. Phương pháp nghiên cứu 19

3.4.1. Phương pháp chọn mẫu 19

3.4.2. Phương pháp thu thập số liệu 19

PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 21


4.1. Điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội huyện Yên Bình 21

4.1.1. Điều kiện tự nhiên 21

4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội của huyện Yên Bình 23

4.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ khuyến nông cơ sở tại huyện Yên Bình – Yên
Bái 32

4.2.1. Thực trạng về số lượng đội ngũ cán bộ khuyến nông cơ sở tại huyện Yên
Bình - Yên Bái 32

4.2.2. Thực trạng về kỹ năng, phẩm chất đội ngũ CBKN cơ sở tại huyện Yên
Bình - Yên Bái 34

4.3. Vai trò của đội ngũ cán bộ khuyến nông cơ sở tại Yên Bình - Yên Bái 39

4.3.1. Các hoạt động khuyến nông của huyện Yên Bình trong ba năm 2011 -
2013 39
4.3.2. Vai trò của CBKN cơ sở trong chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật
41

4.3.3. Vai trò trong phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn 53

4.3.4. Vai trò làm cầu nối giữa nông dân và các cơ quan chức năng, các cơ quan
nghiên cứu, nhà sản xuất và thị trường tiêu thụ 55

4.4. Giải pháp nâng cao vai trò của đội ngũ CBKN cơ sở huyện Yên Bình - tỉnh
Yên Bái 57


4.4.1. Những thuận lợi, khó khăn của đội ngũ khuyến nông cơ sở huyện Yên
Bình 57

4.4.2. Giải pháp nâng cao vai trò đội ngũ CBKN cơ sở huyện Yên Bình 59

PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 60

5.1. Kết luận 60

5.2. Kiến nghị 60

TÀI LIỆU THAM KHẢO 62

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Tên từ
Nghĩa
Nghĩa
BVTV : Bảo vệ thực vật
CBKN : Cán bộ Khuyến nông
CLB : Câu lạc bộ
CP : Chính Phủ
ĐH : Đại học
HTX : Hợp tác xã
KN : Khuyến nông
KHKT : Khoa học kỹ thuật
KNV : Khuyến nông viên
LB : Liên bộ
NĐ : Nghị định

NN&PTNT : Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
PTNT : Phát triển nông thôn
QĐ-UB : Quyết định Uỷ ban
TBKT : Tiến bộ kỹ thuật
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TKN : Trạm Khuyến nông
TT : Thông tư
TTKN : Trung tâm khuyến nông
TTKNQG : Trung tâm khuyến nông quốc gia
UBND : Uỷ ban nhân dân
WTO : Tổ chức thương mại thế giới


1

PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc "Đổi mới" do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI
đã đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và không ngừng phát triển
trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh. Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp và phát
triển nông thôn, công cuộc “Đổi mới” đã đạt những thành tựu to lớn. Từ một
nước thiếu lương thực triền miên phải nhập khẩu với số lượng hàng triệu tấn
mỗi năm, giá trị xuất khẩu nông sản không đáng kể, Nông nghiệp Việt Nam
đã vươn lên đảm bảo vững chắc an ninh lương thực trong nước và trở thành
nước xuất khẩu nông sản có vị thế quan trọng trên thế giới [12].
Đồng hành cùng người nông dân để chia sẻ những thuận lợi, khó khăn
trên con đường hướng tới phát triển một nền nông nghiệp hiệu quả và bền

vững là những cán bộ, nhân viên, tình nguyện viên hệ thống Khuyến nông
Việt Nam. Trải qua trên 19 năm hoạt động, kể từ ngày 02/03/1993, khi Chính
phủ ban hành Nghị định 13/CP về công tác khuyến nông, hệ thống khuyến
nông Việt Nam đã được hình thành, củng cố và ngày càng phát triển một cách
toàn diện. Sau 12 năm thực hiện nghị định 13/CP và nhận thấy chưa đáp ứng
được yêu cầu của công tác khuyến nông, ngày 26/04/2005, Chính phủ đã
chính thức ban hành Nghị định 56/2005/NĐ-CP về khuyến nông, khuyến ngư.
Nghị định 56/2005/NĐ-CP ra đời đã quy định rõ hơn về hệ thống tổ
chức khuyến nông (nhất là tổ chức khuyến nông cơ sở), mục tiêu, nguyên tắc,
chính sách và nội dung hoạt động khuyến nông (bổ sung thêm nội dung tư
vấn, dịch vụ khuyến nông và hợp tác quốc tế về khuyến nông), mở rộng đối
tượng tham gia đóng góp và hưởng thụ khuyến nông nhằm thực hiện mục tiêu
xã hội hoá công tác khuyến nông.
Sau 5 năm thực hiện nghị định 56/2005/NĐ-CP vẫn còn nhiều bất cập.
Do vậy, ngày 08/01/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 02/2010/NĐ-CP
về khuyến nông để sửa đổi, bổ sung một số nội dung
.
Trong nghị định này
quy định cụ thể hơn về nội dung hoạt động khuyến nông, các chính sách, có

2

chế quản lý của tổ chức khuyến nông các cấp. Đặc biệt bổ sung các chính
sách đối với đội ngũ CBKN cơ sở.
Huyện Yên Bình là huyện miền núi nằm ở phía Đông nam của tỉnh
Yên Bái, huyện có diện tích mặt nước nhiều (riêng diện tích mặt nước hồ
Thác Bà trên 15.000 ha) nên khí hậu vùng này mang tính chất vùng hồ: mùa
đông ít lạnh, mùa hè mát mẻ, thuận lợi cho việc phát triển nông, lâm nghiệp,
trồng rừng phòng hộ và rừng nguyên liệu; trồng cây công nghiệp chè, cao su, cây
ăn quả và là tiềm năng để phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản, phát triển du lịch

dịch vụ. Để có những thành tựu như ngày hôm nay cũng như tiếp tục khai thác
các thế mạnh về điều kiện tự nhiên, phát triển nông nghiệp không thể thiếu sự
đóng góp của các cán bộ khuyến nông đặc biệt là đội ngũ KNV cơ sở.
Hiện nay, Trạm khuyến nông huyện có 08 cán bộ công tác tại trạm (07
CBKN, 01 cán bộ kế toán) và 26 CBKN chuyên trách do xã, thị trấn quản lý
về mặt nhân sự và trạm khuyến nông quản lý về mặt kỹ thuật. Về số lượng,
mỗi xã, thị trấn đã có một cán bộ khuyến nông phụ trách. Nhưng câu hỏi đặt
ra là hiện nay họ đang hoạt động như thế nào, đã phát huy được hết vai trò,
năng lực của mình hay chưa, có giải pháp gì giúp họ nâng cao vai trò của
mình hay không ?
Xuất phát từ thực tiễn trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá
vai trò của đội ngũ khuyến nông cơ sở tại huyện Yên Bình - tỉnh Yên Bái”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Tìm hiểu thực trạng, vai trò của đội ngũ cán bộ khuyến nông cơ sở
tại huyện Yên Bình - tỉnh Yên Bái từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng
cao vai trò của đội ngũ cán bộ khuyến nông cơ sở tại huyện Yên Bình -
tỉnh Yên Bái.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
1. Đánh giá được thực trạng hoạt động của đội ngũ CBKN cơ sở tại
huyện Yên Bình - tỉnh Yên Bái.
2. Xác định được vai trò của đội ngũ CBKN cơ sở tại huyện Yên
Bình - tỉnh Yên Bái.

3

3. Đề xuất được một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của đội
ngũ CBKN cơ sở tại huyện Yên Bình - tỉnh Yên Bái.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học

- Củng cố kiến thức từ cơ sở đến chuyên ngành đã học trong
trường, ứng dụng kiến thức đó vào thực tiễn.
- Rèn luyện các kỹ năng thu thập xử lý số liệu, viết báo cáo.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài đánh giá một cách tổng quát thực trạng vai trò của đội ngũ
các CBKN cơ sở tại huyện Yên Bình. Do đó có thể làm tài liệu tham
khảo cho Trạm khuyến nông trong việc rà soát, bố trí lại đội ngũ CBKN
cơ sở trên địa bàn huyện và làm tài liệu cho các khoá học tiếp theo.


















4

PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1. Khái niệm khuyến nông
Khuyến nông là một thuật ngữ khó định nghĩa một cách chính xác bởi vì
khuyến nông được tổ chức bằng nhiều cách khác nhau, để phục vụ nhiều mục
đích rộng rãi, do đó có nhiều quan niệm và định nghĩa về khuyến nông, mỗi cán
bộ khuyến nông đều có những ý niệm riêng dựa trên kinh nghiệm và tính chất
công việc của mình. Nói cách khác không thể đưa ra một định nghĩa khuyến
nông duy nhất. Dưới đây là một số định nghĩa có tính chính xác hơn cả:
Theo nghĩa Hán
-
Văn: “khuyến” có nghĩa là khuyến khích - khuyên bảo -
triển khai, còn “nông” là nông - lâm - ngư nghiệp, nông dân, nông thôn.
“Khuyến nông” nghĩa là khuyến khích mở mang phát triển trong nông nghiệp.
Khuyến nông được tổ chức bằng nhiều cách khác nhau và phục vụ nhiều
mục đích có quy mô khác nhau, vì vậy khuyến nông là một thuật ngữ khó định
nghĩa được một cách chính xác, nó thay đổi tùy theo lợi ích mà nó mang lại.
Cũng có định nghĩa rằng: “Khuyến nông được định nghĩa như thể là một
tiến trình của việc lôi kéo quần chúng tham gia vào việc trồng và quản lý cây
một cách tự nguyện” hay “Khuyến nông khuyến lâm được xem như một tiến
trình của việc hòa nhập các kiến thức khoa học kỹ thuật hiện đại. Các quan điểm,
kỹ năng để quyết định cái gì cần làm, cách thức làm trên cơ sở cộng đồng địa
phương sử dụng các nguồn tài nguyên tại chỗ với sự trợ giúp từ bên ngoài để có
khả năng vượt qua các trở ngại gặp phải”.
“Khuyến nông khuyến lâm là một sự giao tiếp thông tin tỉnh táo nhằm
giúp nông dân hình thành các ý kiến hợp lý và tạo ra các quyết định đúng đắn”.
“Khuyến nông khuyến lâm là làm việc với nông dân, lắng nghe những
khó khăn, các nhu cầu và giúp họ tự giải quyết lấy vấn đề chính của họ.
Còn theo Thomas G.Flores lại cho rằng: “Khuyến nông là một từ tổng
quát để chỉ tất cả các công việc có liên quan đến sự nghiệp phát triển nông thôn,
đó là một hệ thống giáo dục ngoài nhà trường, trong đó có người già và người trẻ

học bằng cách thực hành”.

5

Qua rất nhiều khái niệm trên chúng ta có thể tóm tắt lại và có thể hiểu
khuyến nông theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng: Khuyến nông là khái niệm chung để chỉ tất cả những
hoạt động hỗ trợ sự nghiệp xây dựng và phát triển nông thôn. Khuyến nông
ngoài việc hướng dẫn cho nông dân tiến bộ kỹ thuật mới, còn phải giúp họ
liên kết lại với nhau chống lại thiên tai, tiêu thụ sản phẩm, hiểu biết các chính
sách, luật lệ nhà nước, giúp nông dân phát triển khả năng tự quản lý, điều
hành tổ chức các hoạt động xã hội như thế nào cho ngày càng tốt hơn [6].
Theo nghĩa hẹp: Khuyến nông là một tiến trình giáo dục không chính
thức mà đối tượng của nó là người nông dân. Tiến trình này đem đến cho
nông dân những thông tin và những lời khuyên giúp họ giải quyết những vấn
đề hoặc khó khăn trong cuộc sống. Khuyến nông hỗ trợ phát triển các hoạt
động sản xuất, nâng cao hiệu quả canh tác để không ngừng cải thiện chất
lượng cuộc sống của nông dân và gia đình họ [6].
Theo cục Khuyến nông - khuyến nông Việt Nam: Khuyến nông là một
hệ thống giáo dục nông nghiệp nhằm đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, nâng
cao đời sống vật chất tinh thần cho nông dân, xây dựng và phát triển nông
thôn mới. Như vậy khuyến nông là cách giáo dục ngoài học đường cho nông
dân. Khuyến nông là quá trình vận động, quảng bá, khuyến cáo, cho nông
dân theo nguyên tắc tự nguyện, không áp đặt; đồng thời đó là quá trình tiếp
thu kiến thức và kỹ năng một cách dần dần và tự giác của nông dân [6].
2.1.2. Mục tiêu của tổ chức khuyến nông
Mục tiêu của khuyến nông là làm thay đổi cách đánh giá, nhận thức của
nông dân trước những khó khăn trong cuộc sống. Khuyến nông không chỉ
nhằm mục tiêu phát triển kinh tế mà còn hướng tới sự phát triển toàn diện của
bản thân người nông dân và nâng cao chất lượng cuộc sống ở nông thôn.

Khuyến nông Việt Nam có mục tiêu tổng quát như sau: Thúc đẩy và hỗ
trợ sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân nhằm đáp ứng nhu cầu của quốc gia
và địa phương trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp và PTNT, đồng thời
bảo tồn được các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái.
Một số hoạt động mà khuyến nông có thể tiến hành để thực hiện các
mục tiêu:

6

- Cùng nhau chia sẻ các kiến thức bản địa cũng như các thông tin
KHKT tiên tiến.
- Tăng cường mối quan hệ, kết nối các cá nhân và cộng đồng.
- Tăng cường năng lực của cá nhân và các nhóm hộ nông dân thông qua
sự giáo dục bán chính thức.
- Thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức khuyến nông và PTNT nhằm
phục vụ cho việc quản lý có hiệu quả nguồn tài nguyên đất, rừng và tiếp cận
thị trường.
- Lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch, theo dõi và đánh giá của các cộng
đồng dựa vào nhu cầu của người dân.
Quan điểm về mục tiêu của công tác khuyến nông hiện nay có hai xu
hướng được biểu hiện qua bảng sau:
Quan điểm 1 Quan điểm 2
Nhằm tăng năng suất cây trồng và vật
nuôi
Nhằm giải quyết vấn đề
Làm thay đổi từng phần của vấn đề
Làm thay đổi một cách toàn diện và
tổng thể
Chỉ có khuyến nông thực hiện Nhiều dịch vụ tham gia và thực hiện
Đại diện Nhà nước Tự giúp đỡ

Tập trung từ trên xuống Phi tập trung, mang tính tham gia
Làm việc trên phạm vi rộng làm việc tại địa bàn nhỏ
Chỉ chuyển giao kiến thức Cùng nhau làm nảy sinh ra kiến thức
Trực tiếp đạt được mục tiêu Không trực tiếp
(Nguyễn Hữu Thọ, 2007)
Những quan điểm trên đều có mặt tích cực và mặt hạn chế riêng, không
có quan điểm nào là luôn đúng cả, cách tốt nhất là khi xác định mục tiêu cho
chương trình khuyến nông cần căn cứ vào tình hình cụ thể và điều kiện cho
phép của chương trình đó. Trong lựa ch
ọn ta cần chú ý một số quan đ
iểm sau:
- Ai là người có quyền đưa ra những quyết định đó?
- Ai là người nhận thức được thông tin tốt nhất để đưa ra những quyết
định này?

7

- Sự lựa chọn của người đưa ra quyết định có động cơ gì? Động cơ để
thực hiện có tác động đến cộng đồng và cá nhân người nông dân như thế nào?
2.1.3. Nội dung hoạt động của khuyến nông
Nghị định 56/2005/NĐ-CP của Chính phủ ra ngày 26/4/2005 về công
tác khuyến nông, khuyến ngư cũng nêu rõ: Nội dung hoạt động khuyến nông,
khuyến ngư bao gồm: (1) Thông tin, tuyên truyền; (2) Bồi dưỡng, tập huấn và
đào tạo; (3) Xây dựng mô hình và chuyển giao khoa học công nghệ; (4) Tư
vấn và dịch vụ; (5) Hợp tác quốc tế về khuyến nông, khuyến ngư.
Ngày 08/01/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 02/2010/NĐ-CP
về khuyến nông để sửa đổi, bổ sung một số nội dung thay thế cho Nghị định
56/2005/NĐ-CP. Những quy định mới của Nghị định 02 so với Nghị định 56:
a. Nghị định 02/2010/NĐ-CP của Chính phủ về khuyến nông (gọi tắt là
Nghị định 02) được đánh giá là: kế thừa, phát huy tinh thần các Nghị định đã

ban hành trước đây, nhưng thể hiện đầy đủ, cụ thể hơn, tạo điều kiện để
Thông tư hướng dẫn ngắn gọn và phù hợp với thực tế phát triển của Nông
nghiệp và Nông thôn.
b. Thêm đối tượng tham gia hoạt động khuyến nông: Các cơ quan quản
lý nhà nước về khuyến nông.
c. Nhấn mạnh và cụ thể, rõ ràng nội dung đào tạo huấn luyện, các điểm
mô hình trình diễn nông nghiệp được coi như một lớp học tại hiện trường.
d. Thêm mới: xây dựng mô hình tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh
nông nghiệp hiệu quả và bền vững.
e. Xây dựng Quỹ khuyến nông: điều này tạo điều kiện thu hút nhiều
nguồn lực từ các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước hoạt động về nông
nghiệp, khuyến nông. Quỹ khuyến nông tạo sức mạnh và tính chủ động trong
hoạt động của các tổ chức khuyến nông.
f. Nghị định 02 quy định và phân biệt rõ mục đích sử dụng nguồn ngân
sách khuyến nông Trung ương và địa phương, gắn liền với thực hiện dự án
khuyến nông ở quy mô vùng, miền, quốc gia, cùng với chính sách xét chọn
hoặc đấu thầu cạnh tranh chương trình dự án khuyến nông. Đây là nội dung
mới, mang tính dân chủ, công khai minh bạch, công bằng, tạo điều kiện cho tổ

8

chức và cá nhân có năng lực và đủ điều kiện về khuyến nông tham gia bình
đẳng, phù hợp với tiến trình hoà nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, những năm đầu thực hiện đang bộc lộ một số bất cập trong
các thủ tục, quy định, tổ chức, xét chọn, đấu thầu, cạnh tranh,… các dự án
khuyến nông. Các tỉnh có ngân sách hạn hẹp sẽ gặp nhiều khó khăn trong hoạt
động khuyến nông, thậm chí rất nhiều cán bộ khuyến nông có lương mà
không có việc làm. Bộ NN&PTNT nên xem xét các nhu cầu kinh phí cho hoạt
động khuyến nông ở các tỉnh này để có quy định phù hợp nhằm khắc phục
những bất cập của những năm đầu thực hiện Nghị định 02.

g. Về tổ chức, Nghị định 02 quy định rõ tên của các đơn vị khuyến
nông các cấp ở địa phương, khắc phục được tình trạng nhiều tên gọi của các
đơn vị khuyến nông trong khi có cùng chức năng, nhiệm vụ. Nghị định 02 còn
quy định rõ: các xã đặc biệt khó khăn có ít nhất 2 khuyến nông viên [21].
2.1.4. Chức năng của khuyến nông
- Đào tạo, tập huấn nông dân: tổ chức các khoá tập huấn, xây dựng
mô hình, tham quan, hội thảo đầu bờ cho nông dân.
- Thúc đẩy, tạo điều kiện cho người nông dân đề xuất các ý tưởng,
sáng kiến và thực hiện thành công các ý tưởng sáng kiến của họ.
- Trao đổi, truyền bá thông tin: bao gồm việc xử lý, lựa chọn các
thông tin cần thiết, phù hợp từ các nguồn khác nhau để phổ biến cho
nông dân giúp họ cùng nhau chia sẻ và học tập.
- Giúp nông dân giải quyết các vấn đề khó khăn tại địa phương:
tạo điều kiện giúp họ có thể phát hiện, nhận biết và có thể phân tích
được các vấn đề khó khăn trong sản xuất, đời sống và bàn bạc cùng nông
dân tìm biện pháp giải quyết.
- Giám sát và đánh giá hoạt động khuyến nông: Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra đánh giá và dân hưởng lợi.
- Phối hợp với nông dân tổ chức các thử nghiệm phát triển kỹ thuật
mới, hoặc thử nghiệm kiểm tra tính phù hợp của kết quả nghiên cứu trên
hiện trường, từ đó làm cơ sở cho việc khuyến khích lan rộng.
- Hỗ trợ nông dân về kinh nghiệm quản lý kinh tế hộ gia đình, phát
triển sản xuất quy mô trang trại.

9

- Tìm kiếm và cung cấp cho nông dân các thông tin về giá cả, thị
trường tiêu thụ sản phẩm.
2.1.5. Vai trò của cán bộ khuyến nông
Hệ thống khuyến nông Việt Nam đang ngày càng được củng cố và phát

triển. Các văn bản quy định về tổ chức, bộ máy cũng như chức năng nhiệm
vụ, quyền lợi của hệ thống khuyến nông và cán bộ khuyến nông các cấp ngày
càng rõ ràng, phù hợp hơn. Công tác khuyến nông có đạt được hiệu quả cao
hay không là phụ thuộc rất lớn vào người cán CBKN. Vì người CBKN chịu
trách nhiệm cung cấp thông tin, giúp nông dân hiểu được và dám quyết định
về một vấn đề cụ thể (như: gieo trồng một loại giống mới, áp dụng một cách
làm ăn mới,…). Khi nông dân đã quyết định, người CBKN cần chuyển giao
kiến thức để nông dân áp dụng thành công cách làm ăn mới đó. Như vậy, vai
trò của người CBKN là đem kiến thức đến cho dân và giúp họ áp dụng kiến
thức đó. Người CBKN được đào tạo để thực hiện nhiệm vụ, được trang bị đầy
đủ các kiến thức và kỹ năng để giúp đỡ nông dân. Tuy nhiên, khi làm nhiệm
vụ khuyến nông, người CBKN phải dựa vào đường lối, chính sách hiện hành
của Đảng và Nhà nước về phát triển nông thôn.
Theo quan điểm khuyến nông mới, thì người CBKN ít bị ràng buộc bởi
những chỉ tiêu kế hoạch cụ thể của từng chương trình khuyến nông (bao nhiêu
hộ trồng, nuôi, đạt năng suất bao nhiêu,
…).
Điều quan trọng hơn là từ các
mục tiêu, nhiệm vụ của chương trình khuyến nông thì người CBKN phải chủ
động, nỗ lực cố gắng động viên, tổ chức người dân tham gia tích cực vào hoạt
động khuyến nông. Muốn vậy, người CBKN phải thường xuyên hỗ trợ và
động viên nông dân phát triển những tiềm năng và sáng kiến của họ để chủ
động giải quyết những vấn đề trong cuộc sống.
Ngoài những nhiệm vụ được giao với vai trò là người CBKN, trong lao
động sản xuất tại gia đình, nhiều CBKN trực tiếp áp dụng những tiến bộ
KHKT mới vào sản xuất. Những hoạt động thử nghiệm đó vừa giúp các hộ
nông dân khác rút kinh nghiệm, nếu đem lại kết quả tốt sẽ có sức tuyên truyền
và nhân rộng rất lớn.
Mỗi cán bộ khuyến nông thực thụ sẽ có những vai trò rất quan trọng
đối với nông dân:



10


Hình 2.1: Vai trò của CBKN đối với người nông dân
Trong các chương trình tập huấn thì người CBKN sẽ đóng vai trò là
người trực tiếp đào tạo chuyển giao các kỹ thuật mới, người tổ chức lớp học,
người lãnh đạo, người bạn chia sẻ các kỹ thuật, kinh nghiệm mình có được,
người tạo điều kiện cho các học viên trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Trong
các chương trình nghiên cứu chuyển giao công nghệ thì người CBKN là
người môi giới giữa các trung tâm nghiên cứu và nông dân để đưa các TBKT
áp dụng vào thực tiễn sản xuất. Bên cạnh đó, CBKN đồng thời cũng là người
cung cấp, người thông tin hai chiều, người cố vấn cho bà con nông dân về
thông tin thị trường tiêu thụ nông sản phẩm. Ngoài ra, CBKN còn là người
hành động cùng nông dân trong các mô hình vì khuyến nông không chỉ nói
mà có phân hoá ở mọi vùng sinh thái nông nghiệp, các nhóm hộ nông dân
khác nhau tuỳ theo điều kiện sản xuất (đất đai, vốn, lao động, công cụ,…), có
cách làm ăn khác nhau, có các biện pháp kỹ thuật khác nhau. Vì vậy, CBKN

Cán bộ
khuyến
nông
Người
cung cấp
Người
thông tin
Người
quản lý
Người

môi giới
Người
tổ chức
Người
hành động
Người
cố vấn
Người
đào tạo

11

phải xác định một mối quan hệ làm việc, tiếp xúc, cư xử khéo léo, tháo vát và
đúng mực.
Tuy nhiên, nhiệm vụ chính của các CBKN là dùng các kiến thức mình
đã được đào tạo, tập huấn để tham gia vào chương trình nghiên cứu phát triển
hệ thống nông nghiệp, thay đổi hệ thống nông nghiệp một vùng nông thôn.
Trong thực tế, người CBKN có trách nhiệm cung cấp các kiến thức
thông tin để làm cho nông dân dễ hiểu và đi đến quyết định về sự thay đổi, cải
tiến nào đó trong sản xuất của mình. Từ đó những kiến thức mới, thông tin
mới này sẽ được lan truyền đến nông dân khác. Vì vậy, người CBKN phải
thường xuyên được bồi dưỡng đào tạo qua các lớp tập huấn những kiến thức
mới, thông tin mới, những chủ trương chính sách mới của Đảng và Chính
phủ, những chương trình PTNT.
Mặt khác, người CBKN có liên hệ chặt chẽ và liên quan đến sự phát
triển tình cảm, tư duy cá nhân của nông dân trước những đổi mới trong sản
xuất nông nghiệp. Họ chú ý giúp đỡ nông dân có niềm tin, thường xuyên có ý
thức tập hợp nhau lại lôi cuốn vào các hoạt động khuyến nông [3].
Các nhiệm vụ chủ yếu của người CBKN được tóm lược như sau: (1)
Tìm hiểu yêu cầu của địa phương và nông dân; (2) Thu thập và phân tích tài

liệu; (3) Ấn định mục tiêu cho chương trình khuyến nông tại địa phương; (4)
Lập kế hoạch thực hiện trước mắt và lâu dài; (5) Đề ra phương pháp thực
hiện; (6) Phổ biến, vận động nông dân, tổ chức đoàn thể tham gia chương
trình khuyến nông, các điểm trình diễn, tham quan, cung cấp tư liệu, tin bài
cho cơ quan thông tin đại chúng; (7) Đánh giá kết quả và viết báo cáo chương
trình khuyến nông.
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1. Vài nét về tổ chức hoạt động khuyến nông trên thế giới
Trên thế giới hoạt động khuyến nông ra đời rất sớm, bắt đầu từ thời kỳ
Phục hưng (thế kỷ XIV) khi mà khoa học bắt đầu ứng dụng lý thuyết vào sản xuất.
Khởi đầu là giáo sư người Pháp Rabelais, từ năm 1930 ông đã cải tiến
phương pháp giảng dạy, đưa quan điểm giáo dục nông nghiệp “học đi đôi với
hành” vào giảng dạy, ngoài việc giảng dạy lý thuyết ở lớp ông đã cho học trò

12

tiếp xúc với sản xuất và tự nhiên. Ông đã chỉ cho họ biết cách phân biệt giống
cây và giống con, kỹ thuật nuôi cừu, bò, gà
Đến năm 1777, giáo sư người Thụy Sỹ Heirich Dastalozzi thấy rằng
muốn mở mang nhanh nền nông nghiệp, giúp người dân nghèo cải thiện được
cuộc sống thì phải đào tạo chính con em họ có trình độ và nắm được kỹ thuật tiến
bộ, biết làm thành thạo một số công việc như quay sợi bông, dệt vải, cày bừa…
Tuy nhiên, đến năm 1843, hoạt động mang tính chất khuyến nông mới
có biểu hiện rõ nét. Đó là hoạt động của Ủy ban Nông nghiệp của thành phố
New York (Hoa Kỳ). Ủy ban này đã đề nghị các giáo sư giảng dạy ở các
trường Đại học Nông nghiệp và các viện nghiên cứu thường xuyên xuống cơ
sở để hướng dẫn, phổ biến khoa học kỹ thuật giúp đẩy mạnh sản xuất nông
nghiệp ở các vùng nông thôn [6].
Hoạt động khuyến nông ở Châu Âu và Bắc Mỹ đã sớm đi vào chính
quy và chuyên nghiệp. Năm 1907, 42 trường Đại học ở 39 Bang của Mỹ đã

hăng hái thực hiện công tác khuyến nông, nhiều trường đại học thành lập bộ
môn khoa học và có khoa khuyến nông. Đến năm 1910, có khoảng 35 trường
đã có bộ môn khuyến nông, sau đó nhiều chương trình khuyến nông đã phát
triển nhanh chóng và hiệu quả. Cùng thời gian đó ở hầu khắp các nước Châu
Âu (Anh, Pháp, Thụy sỹ, Tây Ban Nha, ) đều có các trường Đại học Nông
nghiệp, có khoa khuyến nông và thực hiện công tác khuyến nông rất thành
công. Ở các nước này dịch vụ khuyến nông thường bắt đầu từ các hội nông
dân, nhóm sản xuất nông nghiệp. Ở Châu Âu và Bắc Mỹ, nông dân địa
phương hoặc các nhóm sản xuất tham gia rất tích cực vào các chương trình
khuyến nông, kể cả việc thuê mướn những nhân viên khuyến nông, những kỹ
sư nông nghiệp giúp họ sản xuất. Ngày nay mặc dù các nước này có tỷ trọng
nông nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế còn rất nhỏ nhưng vẫn còn cơ quan
khuyến nông, vẫn còn cán bộ khuyến nông.
Ở Châu Á, ngay sau khi có hội nghị đầu tiên về khuyến nông khu vực
Châu Á được tổ chức tại Malina (Philippin). Năm 1955, hoạt động khuyến
nông đã có bước phát triển mạnh mẽ. Tổ chức khuyến nông các nước được
lần lượt được thành lập như: I
nđônêxia (1955), Ấn Độ
(1960), Thái Lan (1967),
Trung Quốc (1970),

13

2.2.2. Hoạt động khuyến nông ở Việt Nam
Nông nghiệp là ngành sản xuất truyền thống và phát triển cùng nền văn
minh lúa nước ở nước ta. Vì vậy khuyến nông Việt Nam đã có từ rất sớm và
có bước phát triển ngày càng lớn mạnh.
Trong thời kỳ phong kiến, công tác khuyến nông đã đặc biệt được chú
trọng. Thời tiền Lê, hàng năm vua Lê Hoàn đã tự mình xuống ruộng cày
đường cày đầu tiên cho vụ sản xuất đầu xuân. Năm 1226, dưới thời Trần lập

chức quan “Khuyến nông sứ” là viên quan chuyên chăm lo khuyến khích phát
triển nông nghiệp. Năm 1789, vua Quang Trung ban bố chiếu khuyến nông
sau khi đại phá quân Thanh nhằm phục hồi lại ruộng bị bỏ hoang. Chiếu
khuyến nông đã thu được nhiều kết quả to lớn. Chỉ sau 3 năm hầu hết ruộng
hoang đã được khôi phục, sản xuất phát triển, bổ sung chế độ cấp công điền.
Năm 1960 ở miền Nam (dưới thời Mỹ - ngụy) thành lập “Nha khuyến
nông” trực thuộc bộ nông nghiệp cải cách điền địa nông mục. Trong khi đó ở
miền Bắc, Bộ nông nghiệp thường xuyên đưa sinh viên xuống giúp các HTX
làm công tác Đông xuân, chọn giống lúa, trồng ngô - khoai, làm bèo dâu, tiêm
phòng cho gia súc - gia cầm,…
Từ năm 1964, Bộ nông nghiệp chính thức có chủ trương thành lập các
đoàn chỉ đạo, đưa sinh viên mới tốt nghiệp xuống cơ sở (các HTX, nông lâm
trường) xây dựng các mô hình và mở các lớp tập huấn cho cán bộ chủ chốt
của địa phương về công tác sản xuất, công tác thuỷ lợi.
Năm 1981, Ban bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị 100 chính thức
thực hiện chủ trương “khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao
động”. Đến tháng 12/1986, Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã nhìn
thẳng vào sự thật với tinh thần “đổi mới”, rút ra bài học hành động phù hợp
với quy luật khách quan để thực hiện chủ trương đổi mới cơ chế quản lý, đưa
nông nghiệp đi lên sản xuất hàng hoá.
Ngày 05/04/1988, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 10 về “đổi mới quản
lý trong nông nghiệp” nhằm giải phóng sản xuất trong nông thôn đến từng hộ
nông dân, khẳng định hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn. Từ đó,
nhờ việc nắm vững và thực hiện Nghị quyết 10 (Khoán 10) đã đem lại những
tác dụng tích cực cho sản xuất.

14

Nghị định 13/CP của Chính phủ ra ngày 02/03/1993 về công tác
khuyến nông, Thông tư 02/LB/TT hướng dẫn việc tổ chức hệ thống khuyến

nông và hoạt động khuyến nông đã kịp thời đáp ứng được những đòi hỏi nói
trên. Hệ thống khuyến nông của Việt Nam chính thức được thành lập năm
1993. Ở cấp Trung ương có TTKNQG, cấp tỉnh có TTKN tỉnh, cấp huyện có
TKN huyện, cấp xã có mạng lưới khuyến nông cơ sở.
Ngày 08/01/2010 bằng việc ban hành Nghị định 02/2010/NĐ-CP về
công tác khuyến nông, khuyến ngư thì hệ thống khuyến nông Việt Nam đã thêm
một bước được hoàn thiện cả về cơ cấu lẫn nội dung hành động. Hệ thống
khuyến nông Nhà nước đã nhanh chóng phối hợp với các cơ quan, ban ngành có
liên quan, nhất là các tổ chức quần chúng. Trong hoạt động, khuyến nông Việt
Nam đang tiếp tục đón nhận kinh nghiệm của khuyến nông các nước tiên tiến,
làm cho hoạt động khuyến nông trong nước ngày càng phong phú, bộ mặt nông
thôn và sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp phát triển không ngừng.
2.2.3. Đội ngũ khuyến nông viên cơ sở tại Việt Nam
Trong hệ thống khuyến nông Việt Nam, KNV cơ sở là lực lượng làm
công tác khuyến nông trực tiếp ở xã, thôn bản, HTX. Đây là tuyến đầu của
công tác khuyến nông đối với phát triển sản xuất và kinh doanh ở nông thôn.
Ngoài ra còn có các thành viên ban quản lý HTX dịch vụ nông nghiệp, thành
viên các hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên,
trưởng thôn bản [5].
Ở cấp xã (xã, phường, thị trấn có sản xuất nông nghiệp) có khuyến
nông viên với số lượng ít nhất là 02 khuyến nông viên ở các xã thuộc địa bàn
khó khăn, ít nhất 01 khuyến nông cho các xã còn lại.
Ở thôn, bản, phum, sóc có cộng tác viên khuyến nông. Cộng tác viên
khuyến nông có thể là cán bộ kiêm nhiệm như trưởng thôn, trưởng bản, đội
trưởng sản xuất, thành viên của tổ chức quần chúng hoặc là người được người
dân tín nhiệm đề cử.
Nhân viên khuyến nông ở các xã đồng bằng phải có trình độ trung cấp trở
lên; ở các xã vùng sâu, vùng xa ít nhất có trình độ phổ thông trung học trở lên,
hoặc là nông dân có kinh nghiệm sản xuất, có uy tín và khả năng khuyến nông.
Nhân viên khuyến nông, cộng tác viên khuyến nông do UBND cấp xã


15

tuyển chọn và quản lý, đồng thời có sự hướng dẫn chuyên môn của khuyến
nông cấp huyện.
Về tính chuyên trách có thể phân ra làm hai loại: Khuyến nông chuyên
trách và khuyến nông bán chuyên trách:
Khuyến nông chuyên trách là cán bộ khuyến nông làm công tác khuyến
nông do Nhà nước tuyển dụng và trả lương. Đây là lực lượng nòng cốt trong
chuyển giao tiến bộ KHKT về sản xuất nông nghiệp ở nông thôn thông qua
các hình thức tập huấn, xây dựng mô hình trình diễn, tổ chức hội nghị, tham
quan và thông tin khuyến nông [5]. Hiện nay, hệ thống khuyến nông chuyên
trách có gần 17.200 người, trong đó: cấp Trung ương có 90 người; cấp tỉnh:
khoảng 1.900 người; cấp huyện: xấp xỉ 4.000 người; cấp xã, lực lượng
khuyến nông viên cơ sở: xấp xỉ 11.200 người; cộng tác viên khuyến nông cấp
thôn, bản: xấp xỉ 18.000 người [12].
Khuyến nông bán chuyên trách là các thành viên thuộc hội phụ nữ,
đoàn thanh niên, hội nông dân, hội làm vườn, các nhà doanh nghiệp,… những
thành viên này ngoài chức năng chuyên môn của mình cũng gián tiếp hoặc
trực tiếp làm công tác khuyến nông nhưng ở mức độ và phạm vi nhất định [5].
Đội ngũ cán bộ khuyến nông cơ sở (bao gồm Khuyến nông xã, Khuyến
nông viên thôn bản). Cấp xã hiện có 51 tỉnh, thành phố có mạng lưới khuyến
nông viên cơ sở, trong đó: Khuyến nông viên cơ sở chuyên trách từ 1-2
người/ xã; mỗi thôn, bản có 01 cộng tác viên khuyến nông (bán chuyên trách).
Ngoài ra toàn quốc hiện có gần 10.000 Câu lạc bộ khuyến nông cấp xã với
khoảng 300.000 nông dân tham gia [12].
Tại tỉnh Yên Bái, sau vài năm đưa KNV về xã, những tiến bộ KHKT
bấy lâu chỉ nằm trên sách vở đã được người nông dân tiếp thu và áp dụng
thành công qua mỗi bước chân của những CBKN, năng suất lúa và hoa màu ở
các xã đã tăng mạnh, giúp nhiều hộ nông dân có thu nhập cao và ổn định. Nhu

cầu KNV cơ sở ngày càng trở nên cấp thiết hơn, khi các tiến bộ KHKT và
những giống cây trồng mới mà người nông dân miền núi không thể tự mò
mẫm gieo trồng được. Từ thực tế đó và nhận thức được tầm quan trọng, vai
trò của đội ngũ KNV cơ sở, tỉnh Yên Bái quyết tâm xây dựng hoàn chỉnh hệ

×