ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
ĐỒNG VĂN THUẬN
Tên đề tài:
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ
TẠI XÃ TÂN HƯƠNG HUYỆN PHỔ YÊN TỈNH THÁI NGUYÊN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Kinh tế nông nghiệp
Khoa : Kinh tế và phát triển nông thôn
Khóa học : 2010 - 2014
Thái Nguyên, năm 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
ĐỒNG VĂN THUẬN
Tên đề tài:
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ
TẠI XÃ TÂN HƯƠNG HUYỆN PHỔ YÊN TỈNH THÁI NGUYÊN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Kinh tế nông nghiệp
Khoa : Kinh tế và phát triển nông thôn
Khóa học : 2010 - 2014
Giảng viên hướng dẫn: Th.S. Nguyễn Thị Châu
Khoa KT&PTNT - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Thái Nguyên, năm 2014
LỜI CẢM ƠN
Qua quá trình thực tập tốt nghiệp, tôi đã bước đầu được tiếp cận với
kiến thức thực tế, đây là tiền đề giúp tôi nâng cao kiến thức và trải nghiệm so
với những gì tôi đã tiếp thu được ở trường nhằm đáp ứng nhu cầu lao động
hiện nay và hoàn thành khóa học của mình.
Được sự nhất trí của Ban giám hiệu Nhà trường. Ban chủ nhiệm Khoa
Kinh tế & PTNT, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo ThS. Nguyễn Thị
Châu, tôi đã thực hiện đề tài: “Thực trạng phát triển kinh tế hộ tại xã Tân
Hương - huyện Phổ Yên - tỉnh Thái Nguyên”
Sau một thời gian tìm hiểu tại địa phương, đến nay đề tài đã được hoàn
thiện. Ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận được rất nhiều sự quan tâm,
giúp đỡ của các tập thể và cá nhân.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo ThS. Nguyễn
Thị Châu, người đã tận tình chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực tập và hoàn
thiện đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm dạy bảo của các thầy
cô giáo trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ủy ban nhân dân Xã Tân
Hương, các phòng ban trong xã, huyện Phổ Yên đã giúp đỡ tôi hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp một cách tốt nhất.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên,
khích lệ và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 25 tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Đồng Văn Thuận
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Diễn giải
BQC Bình quân chung
CN Công nghiệp
CC Cơ cấu
CNH – HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
CP Chính phủ
DT Diện tích
DV Dịch vụ
ĐVT Đơn vị tính
GDP Tổng thu nhập quốc dân
Ha Hecta
HĐND – UBND Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân
KHKT Khoa học kỹ thuật
KH Kế hoạch
KTXH Kinh tế xã hội
LĐ Lao động
NQ Nghị quyết
NN & PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
TH – THCS Tiểu học – Trung học cơ sở
SL Sản lượng
XHCN Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 3
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu 4
4. Những đóng góp mới của đề tài 4
5. Bố cục của khoá luận 5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 6
1.1. Cơ sở lí luận 6
1.1.1. Khái niệm về hộ và kinh tế hộ nông dân 6
1.1.2. Vai trò của kinh tế hộ 8
1.1.3. Đặc trưng của kinh tế hộ nông dân 8
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hộ 9
1.1.5. Hộ nghèo và phương pháp xác định chuẩn nghèo của Chương
trình xóa đói giảm nghèo quốc gia 12
1.2. Cơ sở thực tiễn 14
1.2.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ nông dân ở một số nước trên thế giới 14
1.2.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ nông dân ở một số địa phương
ở Việt Nam 16
1.2.3. Các bài học kinh nghiệm rút ra đối với phát triển kinh tế hộ nông
dân ở Việt Nam nói chung và cho xã Tân Hương nói riêng 20
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 22
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu kinh tế hộ trên địa bàn xã Tân Hương 22
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài 22
2.2. Nội dung nghiên cứu 22
2.3. Phương pháp nghiên cứu 22
2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu 22
2.3.2. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu 24
2.4. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 24
2.4.1. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh điều kiện sản xuất kinh doanh của
nông hộ 24
2.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh đời sống thu chi của nông hộ 25
2.4.3. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất và các công thức tính 25
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 27
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 27
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 27
3.1.2. Hiện trạng về kinh tế - xã hội tại xã Tân Hương 31
3.1.3. Kết quả đánh giá các nguồn lực của xã 42
3.1.4. Những thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên kinh tế văn hóa
xã hội ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hộ trên địa bàn xã 43
3.2. Thực trạng tình hình sản xuất của các hộ nông dân trên địa bàn xã
Tân Hương 44
3.2.1. Khái quát chung về nhóm hộ điều tra 44
3.2.2. Điều kiện sản xuất kinh doanh của hộ điều tra 46
3.2.3. Tình hình đời sống của hộ 58
3.3. Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hộ của xã
Tân Hương 62
3.3.1. Các nhân tố về nguồn lực 62
3.3.2. Về thị trường 64
3.3.3. Giải pháp về chính sách 65
3.3.4. Về khoa học công nghệ 66
3.3.5. Vấn đề cơ sở hạ tầng 66
3.4. Đánh giá chung về tình hình phát triển kinh tế hộ ở xã Tân Hương 67
3.4.1. Nhận xét chung về kinh tế hộ 67
3.4.2. Khó khăn và vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế hộ ở xã Tân Hương 67
CHƯƠNG 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN KINH
TẾ HỘ TẠI XÃ TÂN HƯƠNG TRONG THỜI GIAN TỚI 69
4.1. Định hướng phát triển kinh tế hộ ở xã Tân Hương 69
4.1.1. Định hướng phát triển kinh tế hộ ở xã Tân Hương 69
4.1.2. Mục tiêu phát triển 70
4.2. Một số giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế hộ ở xã Tân Hương 71
4.2.1. Nhóm giải pháp chung 71
4.2.2. Giải pháp đối với nhóm hộ điều tra 74
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 77
1. Kết luận 77
2. Kiến nghị 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1.1. Chuẩn nghèo đói được xác định qua các thời kỳ 13
Bảng 3.1. Tình hình sử dụng đất đai của xã Tân Hương 30
Bảng 3.2. Kết quả sản xuất kinh doanh của xã qua 3 năm 33
Bảng 3.3. Tình hình dân số và lao động của xã Tân Hương 35
Bảng 3.4. Cơ sở hạ tầng của xã Tân Hương năm 2013 36
Bảng 3.5. Số lượng cơ cấu hộ nông dân tại các xóm điều tra 44
Bảng 3.6. Thông tin cơ bản về nhóm hộ điều tra 45
Bảng 3.7. Diện tích - cơ cấu sử dụng đất đai của nhóm hộ điều tra 47
Bảng 3.8. Tình hình lao động và nhân khẩu của các nhóm hộ điều tra 48
Bảng 3.9. Vốn bình quân của nhóm hộ điều tra năm 2013 49
Bảng 3.10. Bảng tư liệu sản xuất chủ yếu bình quân của hộ năm 2013 51
Bảng 3.11. Tổng thu từ sản xuất nông nghiệp của nhóm hộ điều tra 51
Bảng 3.12. Chi phí cho sản xuất nông nghiệp trên của nhóm hộ điều tra 53
Bảng 3.13. Tổng thu nhập bình quân từ sản xuất nông nghiệp 54
Bảng 3.14. Kết quả sản xuất kinh doanh từ hoạt động phi nông nghiệp 55
Bảng 3.15. Tình hình thu nhập của các hộ điều tra năm 2013 57
Bảng 3.16. Mức thu nhập bình quân của hộ theo lao động và nhân khẩu 58
Bảng 3.17. Chi tiêu bình quân của nhóm hộ năm 2013 59
Bảng 3.18. Tổng hợp ý kiến và nguyện vọng của nhóm hộ điều tra 61
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 3.1: Biểu đồ thể hiện diện tích đất đai của nhóm hộ điều tra 47
Hình 3.2: Thể hiện vốn bình quân của nhóm hộ điều tra 50
Hình 3.3: Biểu đồ thể hiện thu nhập từ sản xuất nông nghiệp 52
Hình 3.4: Biểu đồ thể hiện tổng chi phí cho sản xuất nông nghiệp 53
Hình 3.5: Biểu đồ thể hiện thu nhập bình quân từ sản xuất nông nghiệp 54
Hình 3.6: Biểu đồ thể hiện thu nhập bình quân/hộ của nhóm hộ điều tra 56
Hình 3.7: Biểu đồ thể hiện thu nhập của các hộ điều tra 57
Hình 3.8: Biểu đồ thể hiện chi tiêu bình quân của hộ khá năm 2013 59
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu, giữ vị trí
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Ngành nông nghiệp càng trở lên quan
trọng đối với một quốc gia với gần 80% dân số sống ở nông thôn và gần 70%
lao động làm việc trong các ngành thuộc lĩnh vực nông nghiệp như đất nước
Việt Nam ta.[5]
Trước yêu cầu phát triển và hội nhập, mục tiêu đẩy nhanh CNH, HĐH
đất nước, đòi hỏi phải có nhiều chính sách đột phá và đồng bộ nhằm giải
quyết toàn diện các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa của nông thôn. Giải quyết
tốt vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn có ý nghĩa chiến lược đối với
sự ổn định và phát triển đất nước.
Có thể nói, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986),
chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn của Nhà nước ta đã có những
thay đổi căn bản. Những nội dung về chính sách phát triển nông nghiệp, nông
thôn như: xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, chú trọng các chương trình
lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, phát triển kinh tế
trang trại, đẩy mạnh CNH - HĐH nông thôn, xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư, thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở… đã bắt đầu tạo ra những yếu
tố mới trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. Bên cạnh đó, Nhà nước đã
phối hợp với các tổ chức quốc tế, các tổ chức xã hội trong nước trong nỗ lực
xóa đói giảm nghèo, cải thiện môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội ở
nông thôn.
Tuy vậy nhưng thực tế cho thấy nông thôn nước ta vẫn còn những yếu
kém cần phải sớm khắc phục như: Tình trạng lạc hậu về khoa học công nghệ,
ruộng đất ngày càng bị thu hẹp để xây dựng các khu công nghiệp, khu chế
xuất, sân gôn hoặc xây các khu nhà để kinh doanh, ngoài ra vấn đề chất lượng
nông sản khi xuất khẩu còn chưa cao, hiệu quả kinh tế từ sản xuất nông
2
nghiệp còn thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm công nghiệp chế biến kém
phát triển, mức sống và dân trí nhiều vùng nông thôn rất thấp, trình độ quản
lý, quan hệ sản xuất chậm đổi mới.
Có thể khẳng định trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn,
kinh tế hộ gia đình giữ vai trò quan trọng không thể thiếu. Nó là đơn vị kinh
tế đặc thù và phù hợp với thực trạng phát triển sản xuất nông nghiệp ở nước ta
hiện nay. Trong những năm qua, cùng với sự chuyển đổi mạnh mẽ về cơ cấu
tổ chức quản lý kinh tế của Nhà nước, kinh tế hộ được coi trọng và nó đã thúc
đẩy sự phát triển của ngành nông nghiệp nước ta, đưa nước ta từ chỗ thiếu
lương thực thực phẩm trở thành nước có khối lượng gạo xuất khẩu đứng thứ
hai trên thế giới (sau Thái Lan).[1]
Như vậy kinh tế hộ đã tỏ ra là một đơn vị kinh tế phù hợp với đặc thù
trong sản xuất nông nghiệp, nó góp phần giải quyết vấn đề việc làm và xây
dựng cuộc sống mới ở nông thôn, đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng cao và
phong phú của con người về lương thực, thực phẩm.[9]
Mặc dù trong những năm qua kinh tế hộ đã đạt được những thành tựu
to lớn, song chính trong bản thân nó vẫn đang tồn tại những mâu thuẫn cơ bản
cần giải quyết đó là:
- Sản xuất trong kinh tế hộ hiện nay chủ yếu là hoạt động sản xuất nông
nghiệp, yêu cầu ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất bị kìm hãm bởi
diện tích đất manh mún, quy mô nhỏ do kết quả của việc chia đất bình quân.
- Mâu thuẫn giữa tăng dân số và thiếu việc làm, kết hợp với tính thời vụ
trong nông nghiệp tạo ra hiện tượng dư thừa lao động, dẫn đến năng suất lao
động bình quân thấp.
- Tình trạng thiếu kiến thức, thiếu vốn đầu tư đang là tình trạng chung
của các hộ gia đình nên khi có chính sách cho vay vốn hộ cũng không biết sử
dụng sao cho có hiệu quả.
Phổ Yên là huyện đồi thấp và đồng bằng của tỉnh Thái Nguyên, có tổng
diện tích tự nhiên là 25.667.63 ha. Cách trung tâm thành phố Thái Nguyên là
3
26 km về phía nam và cách Hà Nội 55 km về phía bắc. Huyện Phổ Yên có
34.925 hộ gồm nhiều dân tộc như Kinh, Sán dìu, Tày cùng chung sống, với
146172 nhân khẩu, với hầu hết dân số sống bằng nghề nông nghiệp, với vị trí
là cửa ngõ của thủ đô đi các tỉnh phía bắc, lại gần các khu công nghiệp lớn
của tỉnh và Hà Nội nên huyện hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển
kinh tế. Huyện Phổ Yên gồm 16 xã và 3 thị trấn, trong đó Tân Hương là xã
phía Nam của huyện, tình hình kinh tế chính trị, kinh tế - xã hội ngày một
phát triển, tỷ lệ hộ nghèo là 13,5% (theo tiêu chí cũ) đời sống nhân dân ngày
một được nâng cao. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại đó là: việc
chuyển đổi cơ cấu kinh tế còn chậm, cơ sở hạ tầng còn hạn chế, đời sống của
một bộ phận nhân dân còn khó khăn, các ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp phát triển chậm, thu nhập của người dân chưa ổn định.
Vì vậy việc đánh giá thực trạng và đề ra những giải pháp nhằm phát
triển kinh tế nông thôn tại xã Tân Hương huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên
có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng trong công cuộc đổi mới theo hướng
CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn.
Xuất phát từ thực trạng đó tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng
phát triển kinh tế hộ tại xã Tân Hương huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên”
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
- Đánh giá được thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của xã Tân
Hương từ đó đưa ra một số giải pháp khắc phục khó khăn đẩy mạnh sự phát
triển theo hướng CNH - HĐH nông thôn.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình KT - XH của xã
trong những năm tiếp theo.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được thực trạng phát triển KT - XH của xã Tân Hương
giai đoạn 2011 - 2013
4
- Phân tích thực trạng phát triển của kinh tế hộ nông dân xã Tân Hương
và phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế hộ nông dân.
- Đề xuất được một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ
nông dân tại xã Tân Hương những năm tới.
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu
3.1. Trong học tập
Nghiên cứu tìm hiểu điều kiện kinh tế - xã hội của xã Tân Hương là cơ
hội cho sinh viên khảo sát thực tế, áp dụng cơ sở lý thuyết vào thực tiễn, học
hỏi kinh nghiệm truyền thống của địa phương. Là hình thức tập luyện trước
khi ra trường.
+ Nâng cao kiến thức đã được học và rút ra kinh nghiệm thực tế phục
vụ cho công tác sau này.
+ Vận dụng và phát huy được các kiến thức đã học tập và nghiên cứu.
+ Nâng cao khả năng tiếp cận, thu thập và xử lý thông tin của bản thân
trong quá trình nghiên cứu.
3.2. Trong thực tiễn
Nghiên cứu điều kiện kinh tế - xã hội xã Tân Hương từ đó đưa ra các số
liệu trong các lĩnh vực nông - lâm - ngư - nghiệp làm cơ sở cho các nhà chuyên
môn và người dân có những phương hướng và biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả của hoạt động trong trồng trọt, chăn nuôi, cải thiện các công trình phúc
lợi xã hội.
4. Những đóng góp mới của đề tài
Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế
hộ gia đình.
Phân tích thực trạng phát triển của kinh tế hộ nông dân xã Tân Hương
và phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế hộ nông dân.
Đề xuất được một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ nông
dân tại xã Tân Hương những năm tới.
5
5. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, phụ lục, danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Đối tượng nội dung và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận.
Chương 4: Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân trên
địa bàn xã Tân Hương - Huyện Phổ Yên - Tỉnh Thái Nguyên.
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Khái niệm về hộ và kinh tế hộ nông dân
1.1.1.1.Khái niệm hộ
Trong một số từ điển chuyên ngành kinh tế cũng như từ điển ngôn ngữ,
hộ là tất cả những người cùng sống trong một mái nhà - nhóm người đó bao
gồm những người cùng chung huyết tộc và những người làm công.
Liên hợp quốc cho rằng: “Hộ là những người cùng sống chung dưới
một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ”.
Tại cuộc thảo luận quốc tế lần thứ tư về quản lý nông trại tại Hà Lan năm
1980, các đại biểu nhất trí rằng: “Hộ là một đơn vị cơ bản của xã hội có liên quan
đến sản xuất, tái sản xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác”.
Giáo sư T.G.Mc Gee (1989), Giám đốc Viện nghiên cứu Châu á thuộc
trường Đại học Tổng hợp Britiah Columbia, khi khảo sát “kinh tế hộ trong
quá trình phát triển” ở một số nước Châu á đã nêu lên rằng: “Ở các nước
Châu á hầu hết người ta quan niệm hộ là một nhóm người cùng chung huyết
tộc, hay không cùng chung huyết tộc ở chung một mái nhà, ăn chung một
mâm cơm và có chung một ngân quỹ”.
Raul Iturna, Giáo sư trường Đại học Tổng hợp Liôbon khi nghiên cứu
cộng đồng nông dân trong quá trình quá độ ở một số nước Châu á đã chứng
minh: “Hộ là một tập hợp những người cùng chung huyết tộc có quan hệ mật
thiết với nhau trong quá trình sáng tạo ra vật phẩm để bảo tồn chính bản thân
họ và cộng đồng”.
1.1.1.2. Khái niệm hộ nông dân
Hộ nông dân đã có và tồn tại từ rất lâu, nó gắn liền với sự phát triển
của xã hội loài người và trải qua với nhiều hình thức khác nhau. Nó là một
trong những đối tượng được các nhà khoa học, các tổ chức trên các lĩnh vực
7
khác nhau quan tâm. Đứng ở mỗi góc độ khác nhau, họ đưa ra những quan
điểm khác nhau về hộ.[13]
- Trong một số từ điển chuyên ngành kinh tế người ta đã định nghĩa về hộ
như sau: "Hộ là tất cả những người sống chung một mái nhà, nhóm người đó bao
gồm cả những người cùng chung một huyết tộc và những người làm công".
- Trên phương diện thống kê, Liên Hợp Quốc cho rằng: "Hộ là những
người cùng sống chung một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ"
- Theo Raul Hunnena Giáo sư đại học Tổng hợp Lisbon thì: "Hộ là
những người cùng chung huyết tộc, có quan hệ mật thiết với nhau trong quá
trình sáng tạo ra sản phẩm để bảo tồn chính bản thân và cộng đồng"
- Về hộ nông dân thì theo Giáo sư Fnan Kellis -1988: " Hộ nông dân là
các nông hộ thu hoạch các phương tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu
lao động gia đình trong sản xuất nông trại, nằm trong hệ thống kinh tế rộng
hơn nhưng cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia một phần trong thị
trường hoạt động với một trình độ không cao.[6]
1.1.1.3. Khái niệm kinh tế hộ nông dân
Thông thường trong mỗi quá trình nghiên cứu về hộ nông dân đều bao
hàm cả nghiên cứu về kinh tế nông hộ. Giống như hộ gia đình, hộ nông dân
cũng được xác định dưới nhiều quan điểm khác nhau, song dù xem xét ở góc
độ nào thì bản chất của nó vẫn không thay đổi.
Theo "kinh tế hộ nông dân" XB năm 2000 của TS. Đỗ Văn Viện và
Th.S Đặng Văn Tiến thì: " Kinh tế hộ nông dân là hình thức tổ chức kinh tế
cơ sở của nền sản xuất xã hội. Trong đó các nguồn lực sản xuất như đất đai,
lao động, tiền vốn và tư liệu sản xuất được coi là của chung để tiến hành sản
xuất, có chung ngân quỹ, ngủ chung một nhà, ăn chung, mọi quyết định trong
sản xuất kinh doanh là tùy thuộc vào chủ hộ. Được Nhà nước thừa nhận, hỗ
trợ và tạo điều kiện để phát triển.[11]
Kinh tế hộ và kinh tế gia đình là hai phạm trù nhưng có quan hệ với
nhau. Nếu như kinh tế gia đình được đặt trong mối quan hệ với kinh tế tập thể
8
thì kinh tế hộ được coi là các hoạt động sản xuất kinh doanh của một đơn vị
kinh tế độc lập. Nếu gia đình được xem trong mối quan hệ xã hội thì hộ được
xem là những đơn vị kinh tế trong nền kinh tế. Tuy nhiên trên thực tế ở nông
thôn nước ta hộ đều tồn tại phổ biến dưới dạng hộ gia đình. Tức là hộ vừa có
chung cơ sở huyết thống vừa có chung cơ sở kinh tế. Vì vậy trong quá trình
nghiên cứu đôi khi chúng tôi đồng nhất giữa kinh tế gia đình và kinh tế hộ.
1.1.2. Vai trò của kinh tế hộ
Sau 25 năm được công nhận là hình thức kinh tế tự chủ, hình thức sản
xuất hộ gia đình đã có rất nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế ở mỗi thời
kỳ hoàn cảnh lịch sử của đất nước. Trong thời kỳ chiến tranh, hộ gia đình Việt
Nam vừa cung cấp nguồn nhân lực, vừa là nguồn của cải vật chất (chưa nói
tới tinh thần) cho cuộc chiến, đồng thời lại là nơi sản xuất vật chất để bảo đảm
cuộc sống không những cho gia đình (chỉ với 5% quỹ đất canh tác được chia
cho các hộ gia đình làm kinh tế vườn theo lối tự túc, tự cấp), mà còn đóng vai
trò là hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam (trên cơ sở phát
triển hợp tác xã theo kiểu cũ). Sau đó vai trò của kinh tế hộ có nhiều thay đổi
cả về phương thức quản lý lẫn lao động sản xuất, nhất là kể từ khi phong trào
hợp tác xã mất dần động lực phát triển.[17]
Kinh tế hộ đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần đổi mới công
nghệ sản xuất. Hộ là nơi tích lũy kinh nghiệm sản xuất truyền thống cũng là
nơi áp dụng công nghệ mới vào sản xuất. Khi chuyển sang sản xuất hàng hóa,
xuất hiện cạnh tranh thị trường, hộ buộc phải đổi mới công nghệ nhằm tạo ra
sản phẩm có chất lượng tốt hơn với giá rẻ hơn. Việc đổi mới công nghệ trước
hết phải nhằm khai thác tốt kinh nghiệm truyền thống từ lâu đời.[7]
1.1.3. Đặc trưng của kinh tế hộ nông dân
Kinh tế hộ nông dân mặc dù có những bước đi thăng trầm song thực tế
hộ nông dân và kinh tế hộ vẫn tồn tại bền vững, thúc đẩy xã hội phát triển.
9
Các thành viên trong hộ được gắn bó chặt chẽ với nhau bởi quan hệ huyết
thống, quan hệ hôn nhân. Hơn nữa sống trong điều kiện tình làng nghĩa xóm
chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- Về mặt kinh tế: Các thành viên trong nông hộ được gắn bó với nhau
dựa trên những quan hệ thật sự bình đẳng đó là quan hệ sở hữu về tài sản,
quan hệ phân phối các nguồn thu nhập và chi tiêu. Đó chính là những lợi ích
về kinh tế cho nên trong gia đình mọi người gắn bó và cảm thông với nhau.
- Về quản lý phân công lao động: Trong nông hộ việc quản lý và phân
công lao động khác hẳn với các ngành nghề khác là người quản lý cũng là
người trực tiếp lao động. Do đó việc phân công lao động hết sức thuận lợi,
hợp lý vì mọi người hiểu nhau về năng lực và trình độ. Hơn nữa vì mục đích
của mỗi thành viên trong nông hộ cũng thống nhất là làm thế nào để gia đình
giàu có, động lực đó cũng thúc đẩy mọi người làm hết mình và có tính tự giác
cao, điều mà không có hình thức kinh doanh nào có được.
- Về tài sản và tư liệu sản xuất: Các thành viên trong hộ đều bình đẳng,
sử dụng chung mọi tài sản phục vụ cho sản xuất và đời sống của gia đình, mọi
người đều hiểu rõ tính chất giá trị của tài sản cho nên họ đều có ý thức sử
dụng và bảo quản cao nhất. Bởi vì chúng cũng là những yếu tố kinh tế của gia
đình.[12]
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hộ
Ta có thể khái quát một số nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của
kinh tế nông hộ như sau:
1.1.4.1 Nhóm các yếu tố chủ quan
Đây là yếu tố do chính bản thân gia đình nông dân quyết định. Mỗi
hộ có hoàn cảnh riêng, có trình độ, có phương tiện và các yếu tố sản xuất
khác nhau. Đó là các yếu tố chủ quan, nó tác động mạnh mẽ đến sự phát
triển của kinh tế nông hộ. Các yếu tố chủ quan bao gồm:
- Đất đai: Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt không gì có thể
10
thể thay thế được đối với sản xuất nông nghiệp. Do tính chất đặc biệt của nó
mà đất đai có thể coi như một dạng của vốn nhưng lại được xem như một
nguồn lực riêng biệt. Sẽ không thể có hoạt động sản xuất nông nghiệp nếu
không có đất đai, số lượng và chất lượng đất đai sẽ quy định lợi thế so sánh
của mỗi vùng trong sản xuất nông nghiệp. Hướng sử dụng đất quy định hướng
sử dụng các tư liệu sản xuất khác, chất lượng đất cao hay thấp lại ảnh hưởng
đến năng suất cây trồng, vật nuôi. Vì vậy đất đai ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển của kinh tế nông hộ. Chính vì vậy với một diện tích đất canh tác có
hạn mỗi hộ cần có kế hoạch sử dụng sao cho phù hợp để có được hiệu quả
kinh tế cao nhất.
- Vốn đầu tư cho sản xuất: vốn là giá trị của toàn bộ đầu vào, bao gồm
những tài sản, vật phẩm trong sản xuất kinh doanh. Cũng như các ngành sản
xuất khác. Trong nông nghiệp vốn là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và
lưu thông hàng hóa. Vốn quyết định đến quy mô sản xuất từ đó ảnh hưởng
đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả
năng khai thác các nguồn lực vào sản xuất. Vốn được xếp vào các yếu tố chủ
quan vì chủ hộ có quyền huy động hoặc quyết định phân bổ vốn theo chu kỳ
sản xuất. Vốn được tạo ra từ hai nguồn cơ bản là vốn tự có và vốn đi vay.
Việc sử dụng vốn có hiệu quả hay không nó quyết định đến sự phát triển của
kinh tế hộ. Nếu ta cố định các yếu tố khác, chỉ xét riêng ảnh hưởng của vốn
đến thu nhập của hộ thì vốn đầu tư cho sản xuất và thu nhập của hộ là hai đại
lượng đồng biến.
- Lao động: Lao động là yếu tố cần thiết của mọi quá trình sản xuất,
không có lao động thì không thể có hoạt động sản xuất, đặc biệt trong sản
xuất nông nghiệp, cũng như đất đai lao động ảnh hưởng đến thu nhập trên cả
hai mặt, lượng và chất.
Mặt lượng của lao động: Thể hiện ở mức độ đầu tư lao động vào công
việc cụ thể. Nếu hộ càng nhiều lao động thì thu nhập của hộ càng cao.
11
Mặt chất của lao động: Thể hiện sự hiểu biết của người lao động trong
công việc sản xuất kinh doanh của mình, nắm được quá trình sinh trưởng và
phát triển của cây trồng vật nuôi, từ đó có biện pháp tác động, chăm sóc khoa
học và mang lại hiệu quả cao. Chất lượng lao động còn thể hiện ở khả năng
tiếp thu khoa học kỹ thuật, am hiểu thị trường và chính sách của Nhà nước,
thể hiện ở kinh nghiệm trong sản xuất.
Lao động là một trong các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến sự phát triển
của kinh tế hộ. Nó là yếu tố có thể thay đổi được cả về chất và về lượng nên
trong các giải pháp để phát triển kinh tế nông hộ thì giải pháp về lao động là
giải pháp có tính khả thi cao.
1.1.4.2. Nhóm yếu tố khách quan
Đây là các yếu tố tác động từ bên ngoài đến kết quả sản xuất kinh
doanh của nông hộ mà hộ nông dân không thể kiểm soát được. Các tác động
này có thể theo hướng tích cực hoặc tiêu cực, có thể là tốt với loại hộ này
nhưng lại không tốt với hộ khác. Các yếu tố thuộc nhóm này bao gồm:
- Điều kiện tự nhiên: Do đối tượng sản xuất nông nghiệp là sinh vật
sống, quá trình sinh trưởng phát triển phụ thuộc nhiều vào điều kiện ngoại
cảnh như khí hậu, thời tiết, môi trường Nếu gặp điều kiện thuận lợi phù hợp
với giai đoạn phát triển của cây trồng vật nuôi thì sẽ cho năng suất cao và
ngược lại. Như vậy trong sản xuất nông nghiệp thì điều kiện tự nhiên là yếu tố
quyết định khá lớn đến kết quả sản xuất của nông hộ.
- Thị trường: thị trường là nơi diễn ra trao đổi hàng hóa, thị trường có
tác động rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh thông qua cơ chế thay đổi
giá cả. Giá cả lại phụ thuộc vào quy luật cung cầu trên thị trường. Có hai loại
thị trường là thị trường đầu vào và thị trường đầu ra.
Đối với thị trường đầu ra (thị trường tiêu thụ sản phẩm), nó phản ánh
cung sản phẩm. Trong nông nghiệp cung về sản phẩm thường là cung muộn,
hơn nữa các sản phẩm trong nông nghiệp thường khó bảo quản, vì vậy rủi ro
12
do thị trường đem lại trong sản xuất nông nghiệp là rất lớn. Bên cạnh đó thị
trường các sản phẩm trong nông nghiệp là thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nên
người nông dân không thể kiểm soát được thị trường, vì vậy sự tác động của
thị trường làm cho thu nhập của nông hộ không ổn định.
Đối với thị trường các yếu tố đầu vào, giá cả đầu vào trên thị trường
ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất của nông hộ, vì thế nó tác động rất
lớn đến quy mô sản xuất, đến mức độ đầu tư của nông dân. Nếu giá đầu vào
tăng làm cho chi phí đầu tư tăng dẫn đến hiệu quả sản xuất giảm xuống.
- Chính sách của Nhà nước: Chính sách kinh tế là công cụ đắc lực của
Chính Phủ. Trong quản lý kinh tế mỗi chính sách ban hành đều có tác động
rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh dù lớn hay nhỏ. Nếu chính sách
đúng đắn sẽ kích thích được sản xuất và ngược lại. Vì vậy chính sách của Nhà
nước có ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập của hộ hay đến sự phát triển của kinh
tế nông hộ. Trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam,
Nhà nước ta đã chứng tỏ được vai trò của mình trong quản lý kinh tế. Nó thể
hiện rõ nét nhất ở chính sách ruộng đất trong công cuộc đổi mới. Chính sách
này đã làm thay đổi thu nhập của toàn bộ dân cư trong nông thôn. Ngoài ra
còn có sự đóng góp hàng loạt các chính sách khác như đặt giá trần, giá sàn
nhằm bảo vệ người sản xuất và người tiêu dùng.
+ Ngoài các yếu tố kể trên, kinh tế hộ còn chịu ảnh hưởng của các
phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa…
1.1.5. Hộ nghèo và phương pháp xác định chuẩn nghèo của Chương trình
xóa đói giảm nghèo quốc gia
*) Hộ nghèo
Ngày 30/01/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 09/2011/QĐ-TTg về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng
cho giai đoạn 2011 - 2015.
13
Chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015 như
sau: Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống.
Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.
Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000
đồng đến 520.000 đồng/người/tháng.
Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000
đồng đến 650.000 đồng/người/tháng.[8]
Chuẩn mực xác định nghèo ở Việt Nam qua các giai đoạn như sau:
Bảng 1.1. Chuẩn nghèo đói được xác định qua các thời kỳ
từ năm 1993 đến 2015
Giai đoạn Đơn vị tính
Hộ đói Hộ nghèo
(Dưới mức)
(Dưới mức)
1. Giai đoạn 1993 – 1994 Gạo
Khu vực nông thôn Kg/người/tháng 8 15
Khu vực thành thị Kg/người/tháng 13 20
2. Giai đoạn 1995 – 1997 Gạo
Vùng nông thôn miền núi, hải đảo Kg/người/tháng 13 15
Vùng nông thôn đồng bằng, trung du Kg/người/tháng 13 20
Vùng thành thị Kg/người/tháng 13 25
3. Giai đoạn 1997 – 2000 Tiền
Vùng nông thôn miền núi, hải đảo Đồng/người/tháng 45 55
Vùng nông thôn đồng bằng, trung du Đồng/người/tháng 45 70
Vùng thành thị Đồng/người/tháng 45 90
4. Giai đoạn 2001 – 2005 Tiền
Vùng nông thôn miền núi, hải đảo Đồng/người/tháng - 80
Vùng nông thôn đồng bằng, trung du Đồng/người/tháng - 10
Vùng thành thị Đồng/người/tháng - 150
5. Giai đoạn 2006 – 2010 Tiền
Khu vực nông thôn Đồng/người/tháng - 200
Khu vực thành thị Đồng/người/tháng - 260
6. Giai đoạn 2010-2015 Tiền
Khu vực nông thôn Đồng/người/tháng 400
Khu vực thành thị Đồng/người/tháng 500
(Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội)
14
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ nông dân ở một số nước trên thế giới
Thực tiễn cho thấy, quá trình xây dựng. và phát triển kinh tế của các
nước nhất là lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, trang trại, nông thôn đã có
nhiều kinh nghiệm quý báu để chúng ta học tập.
- Thái Lan: một nước trong khu vực Đông Nam châu Á, Chính phủ
Thái Lan đã thực hiện nhiều chính sách để đưa từ một nước lạc hậu trở thành
nước có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến. Một số chính sách có liên quan đến
việc phát triển kinh tế vùng núi ban hành (từ 1950 đến năm 1980). Thứ nhất:
xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng ở nông thôn. Mạng lưới đường bộ bổ sung cho
mạng lưới đường sắt, phá thế cô lập các vùng ở xa (Bắc, Đông Bắc, Nam ),
đầu tư xây dựng đập nước ở các vùng. Thứ hai: chính sách mở rộng diện
tích canh tác và đa dạng hoá sản phẩm như cao su ở vùng đồi phía Nam,
ngô, mía, bông, sắn, cây lấy sợi ở vùng núi phía Đông Bắc. Thứ ba: đẩy
mạnh công nghiệp hoá chế biên nông sản để xuất khẩu như ngô, sắn sang
các thị trường châu Âu và Nhật Bản. Thứ tư: thực hiện chính sách đầu tư
nước ngoài và chính sách thay thế nhập khẩu trong lĩnh vực công nghiệp
nhẹ. Nhà nước cũng thực hiện chính sách trợ giúp tài chính cho nông dân
như: cho nông dân vay tiền với lãi suất thấp, ứng trước tiền cho nông dân
và cam kết mua sản phẩm với giá định trước cùng với nhiều chính sách
khác đã thúc đẩy vùng núi Thái Lan phát triển theo hướng sản xuất hàng
hoá. Hàng năm có 95% sản lượng cao su, hơn 4 triệu tấn dầu cọ do nông
dân sản xuất ra. Song trong quá trình thực hiện có bộc lộ một số vấn đề
còn tồn tại: đó là việc mất cân bằng sinh thái, là hậu quả của một nền
nông nghiệp làm nghèo kiệt đất đai. Kinh tế vẫn mất cân đối giữa các
vùng, xu hướng nông dân rời bỏ nông thôn ra thành thị lâu dài hoặc rời bỏ
nông thôn theo mùa vụ ngày càng gia tăng.[15]
15
- Đài Loan: ý thức được xuất phát điểm của mình có vị trí quan
trọng là nông nghiệp nhưng ở trình độ thấp, nên ngay từ đầu Đài Loan đã
coi trọng và chú ý đầu tư cho nông nghiệp. Trong những năm 1950 đến
1960 chủ trương "Lấy nông nghiệp nuôi công nghiệp, lấy công nghiệp
phát triển nông nghiệp". Từ năm 1951 đã có chương trình cải cách ruộng
đất theo 3 bước: giảm tô, giải phóng đất công, bán đất cho tá điền, thực
hiện người cày có ruộng (1953 - 1954).
Theo đạo luật cải cách ruộng đất của Đài Loan, địa chủ chỉ được
giữ lại 3 ha nếu là ruộng thấp và 6 ha nếu là ruộng cao, số còn lại Nhà
nước mua và bán lại cho tá điền với giá thấp và được trả dần, trả góp.
Chính sách phát triển nông nghiệp của Đài Loan trong thời kỳ này đã làm
cho nông dân phấn khởi, lực lượng sản xuất trong nông thôn được giải
phóng, sản xuất đã tăng với tốc độ nhanh.
Tại Đài Loan hiện có 30 vạn người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng
cao, song đã có đường đi lên núi là đường nhựa, nhà có đủ điện nước, có ô tô
riêng. Từ 1974 họ thành lập nông trường, nông hội, trồng những sản phẩm
quý hiếm như "cao sơn trà", bán các mặt hàng sản phẩm của rừng như cao các
loại, thịt hươu, nai khô , cùng các sản phẩm nông dân sản xuất được trong
vùng. Về chính sách thuế và ruộng đất của chính quyền có sự phân biệt giữa 2
đối tượng "nông mại nông" thì miễn thuế (nông dân bán đất cho nông dân
khác), "nông mại bất nông" thì phải đóng thuế gấp 3 lần tiền mua (bán đất cho
đối tượng phi nông nghiệp). Nguồn lao động trẻ ở nông thôn rất dồi dào
nhưng không di chuyển ra thành thị, mà dịch vụ tại chỗ theo kiểu "ly nông bất
ly hương". Các cơ quan khoa học ở Đài Loan rất mạnh dạn nghiên cứu cải tạo
giống mới cho nông dân và họ không phải trả tiền.[15]
- Trung Quốc: trong những năm qua phát triển rất mạnh trong lĩnh vực
đầu tư cho nông nghiệp nông thôn. Một trong những thành tựu của Trung Quốc
trong cải cách mở cửa là phát triển nông nghiệp hương trấn, chuyển dịch cơ cấu
16
kinh tế nông thôn, từ đó tăng trưởng với tốc độ cao. Nguyên nhân của thành
tựu đó có nhiều, trong đó điều chỉnh chính sách đầu tư rất quan trọng, tăng vốn
đầu tư trực tiếp cho nông nghiệp để tạo ra tiền đề vật chất cho sự tăng trưởng
trước hết là đầu tư xây dựng công trình thuỷ lợi, mở rộng sản xuất lương thực,
xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, nghiên cứu ứng dụng cây trồng, vật nuôi,
cây con vào sản xuất nhất là lúa, ngô, bông.[15]
- Indonexia: ngay từ kế hoạch 5 năm 1969 - 1974, việc di dân đã
thành công với sự tài trợ của Ngân hàng thế giới, ở đó mỗi hộ di cư đều
được trợ cấp bởi Chính phủ như tiền cước vận chuyển đi quê mới, một
căn nhà 2 buồng, 0,5 ha đất thổ cư và 2 ha đất canh tác (1 ha cây lâu năm
và 1 ha cây hàng năm), một năm lương thực khi đến khu định cư mới.
Được chăm sóc y tế, giáo dục, được vay vốn với lãi suất ưu đãi, vay đầu
tư cho cây nông nghiệp, khi đến kỳ thu hoạch mới trả nợ. Hiện nay ở
Indonexia có 80.000 - 100.000 hộ đến các vùng kinh tế mới, chi phí bình
quân/hộ từ 5.000 - 7.000 USD.[14]
1.2.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ nông dân ở một số địa phương ở
Việt Nam
- Bắc Ninh: Ngân hàng Nông nghiệp & phát triển nông thôn Bắc
Ninh có nhiều nỗ lực trong thực hiện chủ trương cho vay hộ sản xuất, trở
thành một trong những động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế hộ phát triển,
đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển địa phương.
Từ đó đến nay, hàng ngàn hộ nông dân trên địa bàn đã được tiếp
cận nguồn vốn vay ngân hàng. Với thủ tục vay vốn ngày càng đơn giản,
thuận tiện, thời gian nhanh hơn, số tiền vay nhiều hơn, phong cách phục
vụ tận tình, chu đáo hơn, ngân hàng đã luôn đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn
cho các hộ nông dân thúc đẩy phát triển trồng trọt, chăn nuôi, xây dựng
các mô hình trang trại, VAC tạo việc làm, thu nhập ổn định, từng bước
xoá đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu.