Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh do giun tròn Oesophagostomum spp. gây ra trên lợn tại huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên và dùng thuốc điều trị.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 62 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



TRẦN THỊ THƯƠNG


Tên đề tài:
“NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH DO GIUN TRÒN
OESOPHAGOSTOMUM SPP. GÂY RA TRÊN LỢN TẠI HUYỆN PHÚ BÌNH
TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ DÙNG THUỐC ĐIỀU TRỊ”


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Chăn nuôi Thú y
Khoa : Chăn nuôi Thú y
Lớp : 42 - CNTY - NO1
Khoá học : 2010 – 2014
Giáo viên hướng dẫn : TS. Lê Minh



Thái Nguyên, năm 2014
LỜI CẢM ƠN

Qua quá trình học tập lý thuyết tại trường và 6 tháng thực tập tốt nghiệp


tại cơ sở, em đã hoàn thành bản khóa luân tốt nghiệp này. Qua đây em xin bày
tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban Giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, Ban Chủ nhiệm khoa Chăn nuôi thú y, các thầy cô giáo đã tận tình dìu
dắt em trong suốt thời gian học tập tại trường.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc, sự quan tâm giúp đỡ nhiệt
tình của cô giáo hướng dẫn TS. Lê Minh đã trực tiếp tận tình hướng dẫn để em
hoàn thành bản khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo cùng các cán bộ thú y của Trạm
Thú y huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong
quá trình thực tập tại Trạm.
Em cũng xin chân thành cảm ơn giám đốc cùng toàn thể nhân viên công
ty TNHH và phát triển nông thôn Nam Sơn đã giúp đỡ em trong thời gian làm
việc ở công ty
Một lần nữa em xin gửi tới các thầy cô giáo trong nhà trường bạn bè
đồng nghiệp lời cảm ơn và lời chúc sức khỏe cùng mọi điều tốt đẹp.
Em xin chân thành cảm ơn !

Thái Nguyên, ngày….tháng…. năm 2014

Sinh viên



Trần Thị Thương

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

- : Đến
% : Tỷ lệ phần trăm
≤ : Nhỏ hơn hoặc bằng

< : Nhỏ hơn
> : Lớn hơn
O. dentatum :Oesophagostomum dentatum
O. longicaudum :Oesophagostomumlongicaum
cm : Centimét
cs : Cộng sự
kg : Kilogam
KL : Khối lượng
m
2
: Mét vuông
m
3
: Mét khối
mg : Miligam
ml : Mililít
mm : Milimét
Nxb : Nhà xuất bản
TT : Thể trọng
TN : Thí nghiệm


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 4.1. Thực trạng phòng chống bệnh ký sinh trùng nói chung và
bệnh Oesophagostomosis cho lợn ở huyện Phú Bình, tỉnh
Thái Nguyên. 29

Bảng 4.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tròn Oesophagostomum spp
ở lợn tại một số xã 31


Bảng 4.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tròn Oesophagostomum spp.

theo tuổi lợn 34

Bảng 4.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tròn Oesophagostomum spp.
theo giống lợn 36

Bảng 4.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tròn Oesophagostomum spp.
theo các tháng theo dõi tại một số xã 38

Bảng 4.6. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tròn Oesophagostomum spp.
theo phương thức chăn nuôi 40

Bảng 4.7. Sự ô nhiễm trứng Oesophagostomum spp. ở nền chuồng,
xung quanh chuồng nuôi và vườn trồng cây thức ăn cho lợn 42

Bảng 4.8. Tỷ lệ lợn nhiễm giun tròn Oesophagostomum spp. có biểu
hiện lâm sàng 43

Bảng 4.9. Hiệu lực của thuốc tẩy giun tròn Oesophagostomum spp.
cho lợn 44

Bảng 4.10.

Độ an toàn của thuốc tẩy giun tròn Oesophagostomum
spp. cho lợn trên thực địa 45







DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1. Loài O. dentatum 5
Hình 2.2. Loài O. longicaudum 5
Hình 2.3. Giun O. dentatum 5
Hình 2.4. Trứng giun O. dentatum 5
Hình 4.1. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun tròn Oesophagostomum spp. ở
lợn tại một số xã. 31
Hình 4.2. Biểu đồ cường độ nhiễm giun tròn Oesophagostomum spp.
tại các địa phương 33
Hình 4.3. Đồ thị tỷ lệ nhiễm giun tròn Oesophagostomum spp. ở lợn
theo tuổi. 36
Hình 4.4. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun tròn Oesophagostomum spp. ở
lợn theo giống lợn 37
Hình 4.5. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun tròn Oesophagostomum spp. theo
các tháng. 39
Hình 4.6. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun tròn Oesophagostomum spp. theo
phương thức chăn nuôi 41


MỤC LỤC
trang
Phần 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục đích nghiên cứu 1
1.3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 2
1.3.1. Ý nghĩa khoa học 2

1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 2
Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Cơ sở lý luận 3
2.1.1. Đặc điểm sinh học của giun tròn Oesophagostomum spp. 3
2.1.2. Đặc điểm dịch tễ của bệnh 9
2.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh 10
2.1.4. Các biện pháp phòng và điều trị 14
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước 17
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 17
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 18
Phần 3: ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ 21
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21
3.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu 21
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 21
3.1.2. Vật liệu nghiên cứu 21
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 22
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu 22
3.2.2. Thời gian nghiên cứu 22
3.3. Nội dung nghiên cứu 22
3.3.1. Nghiên cứu về tình hình nhiễm Oesophagostomum spp. 22
3.3.2. Nghiên cứu sự ô nhiễm của trứng giun tròn Oesophagostomum
spp. ở ngoại cảnh 23
3.3.3. Nghiên cứu biểu hiện triệu chứng lâm sàng của lợn mắc bệnh
Oesophagostomosis. 23
3.3.4. Nghiên cứu biện pháp phòng trị bệnh 23
3.4. Phương pháp nghiên cứu 23
3.4.1. Phương pháp điều tra công tác phòng chống bệnh ký sinh trùng
nói chung, bệnh Oesophagostomosis nói riêng cho lợn ở địa
phương 23
3.4.2. Quy định một số yếu tố dịch tễ 23

3.4.3. Phương pháp thu thập, xét nghiệm mẫu 24
3.4.4. Phương pháp xác định tỷ lệ nhiễm giun tròn Oesophagostomum
spp. 25
3.4.5. Phương pháp xác định cường độ nhiễm giun tròn
Oesophagostomum spp 25
3.4.7. Phương pháp xác định độ an toàn và hiệu lực của thuốc trị
Oesophagostomosis. 26
3.4.8. Đề xuất biện pháp phòng trị bệnh do Oesophagostomum spp.
gây ra ở lợn 26
3.5. Phương pháp xử lý số liệu 27
3.5.1. Một số công thức tính tỷ lệ 27
3.5.2. Một số tham số thống kê 27
Phần 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 29
4.1. Đặc điểm dịch tễ bệnh Oesophagostomosis ở lợn tại huyện Phú
Bình, tỉnh Thái Nguyên 29
4.1.1. Thực trạng phòng chống bệnh cho lợn ở huyện Phú Bình, tỉnh
Thái Nguyên 29
4.1.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tròn Oesophagostomum spp. ở lợn
tại một số xã của huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên 30
4.1.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tròn Oesophagostomum spp. theo
tuổi lợn 33
4.1.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tròn Oesophagostomum spp. theo
giống lợn 36
4.1.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tròn Oesophagostomum spp. theo
các tháng theo dõi tại một số xã 38
4.1.6. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tròn Oesophagostomum spp. theo
phương thức chăn nuôi 39
4.2. Nghiên cứu sự ô nhiễm của trứng giun tròn Oesophagostomum spp.
ở ngoại cảnh 42
4.3. Nghiên cứu biểu hiện triệu chứng lâm sàng của lợn mắc bệnh

Oesophagostomosis 43
4.4. Nghiên cứu biện pháp phòng trị bệnh Oesophagostomosis 44
4.4.1 Hiệu lực của thuốc tẩy giun tròn Oesophagostomum spp. cho lợn 44
4.4.2.

Độ an toàn của thuốc tẩy giun tròn Oesophagostomum spp. cho
lợn. 45
4.4.3. Đề xuất biện pháp phòng chống bệnh Oesophagostomosis cho
lợn 45
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 48
5.1. Kết luận 48
5.2. Tồn tại 49
5.3. Đề nghị 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO 50

1
Phần 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây ngành chăn nuôi phát triển khá
mạnh, đặc biệt là chăn nuôi lợn đã đáp ứng được nhu cầu về thực phẩm của
nhân dân, góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương,
chính sách nhằm thúc đẩy ngành chăn nuôi, trong đó có ngành chăn nuôi lợn
phát triển. Tuy nhiên, dịch bệnh vẫn thường xuyên xảy ra trên đàn lợn, gây nên
những thiệt hại đáng kể cho ngành chăn nuôi. Nước ta nằm trong vùng khí hậu
nhiệt đới có điều kiện thuận lợi cho nhiều loài ký sinh trùng phát triển, ký sinh
và gây bệnh cho vật nuôi. Đây chính là vấn đề khó khăn lớn cho ngành chăn
nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng trong công tác phòng trừ và điều trị
bệnh ký sinh trùng. Bệnh ký sinh trùng không gây ra các ổ dịch lớn như bệnh

truyền nhiễm, song bệnh ký sinh trùng thường diễn ra ở thể mãn tính, làm lợn
sinh trưởng và phát triển chậm, tiêu tốn thức ăn tăng, các chi phí như thuốc
điều trị, công chăm sóc nuôi dưỡng cũng tăng.
Trong các bệnh ký sinh trùng, bệnh do giun tròn Oesophagostomum spp.
gây ra ở lợn phân bố ở hầu hết các vùng miền, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi
phía Bắc. Tuy không làm cho lợn chết nhiều nhưng giun tròn Oesophagostomum
spp. làm cho lợn gầy yếu, giảm tăng trọng, gây thiệt hại đáng kể về kinh tế cho người
chăn nuôi lợn.
Trong những năm gần đây, chăn nuôi lợn ở Thái Nguyên phát triển khá
mạnh. Tuy nhiên, việc phòng trị bệnh ký sinh trùng, đặc biệt là bệnh do giun tròn
Oesophagostomum spp. còn ít được chú ý. Xuất phát từ nhu cầu cấp bách của thực
tế chăn nuôi lợn ở tỉnh Thái Nguyên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu một
số đặc điểm dịch tễ bệnh do giun tròn Oesophagostomum spp. gây ra trên lợn tại
huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên và dùng thuốc điều trị”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ của bệnh do giun tròn Oesophagostomum
spp. gây ra ở lợn tại huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên và biện pháp phòng trị.
2
1.3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về đặc điểm dịch tễ bệnh
do giun tròn Oesophagostomum spp. gây ra, góp phần cho việc nghiên cứu các
biện pháp phòng và điều trị Oesophagostomosis ở lợn, từ đó đề xuất quy trình
phòng chống bệnh cho lợn.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo người chăn nuôi
cách phòng trị bệnh do giun tròn Oesophagostomum spp. gây ra, nhằm hạn chế
tác hại cho lợn, góp phần nâng cao năng suất chăn nuôi và thúc đẩy ngành chăn
nuôi lợn phát triển.









3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Đặc điểm sinh học của giun tròn Oesophagostomum spp.
2.1.1.1. Vị trí của giun tròn Oesophagostomum spp. trong hệ thống phân loại
động vật học
Oesophagostomum dentatum và Oesophagostomum longicaudum
thuộc giống Oesophagostomum spp. là tác nhân gây ra bệnh giun kết hạt
(Oesophagostomosis) ở lợn.
Theo Skrjabin K. I. và cs (1963) [30], Phan Thế Việt và cs (1977) [27], giun
tròn Oesophagostomum spp. ở lợn có vị trí trong hệ thống phân loại động vật như
sau:
Ngành
Nemathelminthes Shneider, 1873
Phân ngành Nemathelmintha Shaneider và Schulz, 1940
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Secerentea Chitwood, 1933
Bộ Rhabditida Chitwood, 1933
Phân bộ Strogylata Railliet, 1916
Họ Trichonematidae Cram, 1927
Phân họ Oesophagostomatinae Railliet et Henr, 1913

Giống Oesophagostomum Molin, 1861
Loài Oesophagostomum dentatum Rudolphi, 1803
Loài Oesophagostomum longicaudum Goodey, 1925
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái và cấu tạo giun tròn Oesophagostomum spp.
Đề cập đến hình thái và cấu tạo giun kết hạt, Skrjabin K. I. và cs (1963)
[30] cho biết:
Loài O. dentatum: Dài từ 7 - 14 mm, đầu được giới hạn với thân rõ rệt
bởi ngăn bụng sâu. Bao miệng dài tới thực quản hình đinh ghim. Con đực có
túi đuôi, hai gai giao hợp bằng nhau dài 0,90 - 0,94 mm. Con cái âm hộ nằm
gần hậu môn, hậu môn ở cách mút đuôi 0,255 - 0,265 mm.
4
Loài O. longicaudum: Con đực dài 8,8 - 9,6 mm. Con cái dài 8 - 11 mm,
đuôi rất dài và thon, nhọn. Hậu môn nằm cách mút đuôi 0,453 - 0,543 mm. Âm
hộ cách đuôi 0,906 - 0,951 mm.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [12]: Giun O. dentatum là loài giun tròn
nhỏ, không có cánh đầu. Giun đực có kích thước 7,6 - 8,8 x 0,35 - 0,38 mm, có túi
đuôi, có hai gai giao hợp dài 0,792 - 1,037 mm. Giun cái dài 7,8 - 12,5 x 0,38 - 0,43
mm; đuôi dài 0,405 - 0,430 mm. Âm hộ ở trước hậu môn, cách hậu môn 0,208 -
0,388 mm, dài 0,1 - 1,15 mm hơi xuyên vào cơ quan thải trứng. Trứng hình ovan,
kích thước 0,056 - 0,071 x 0,032 - 0,045 mm.
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [9] cho biết: Các loài thuộc giống
Oesophagostomum spp. có đặc điểm hình thái chung là: Túi miệng hình ống rất nhỏ,
quanh miệng có một bờ gồ lên hình đĩa, có các tua ở quanh miệng, có rãnh cổ; phía
trước rãnh cổ biểu bì nở ra tạo thành túi đầu, sau rãnh cổ có gai cổ, giun đực có túi
đuôi và một đôi gai giao hợp dài bằng nhau, âm hộ giun cái ở gần hậu môn.
Loài O. dentatum ký sinh ở ruột già của lợn, là loài giun tròn nhỏ, không có
cánh đầu, có 9 rua ngoài và 18 rua trong. Túi đầu to, gai cổ ở hai bên chỗ phình to
của thực quản. Giun đực dài 8 - 9 mm, rộng 0,14 - 0,37 mm, có túi đuôi, có 2 gai giao
hợp bằng nhau dài 1 - 1,14 mm. Giun cái dài 8 - 11,2 mm, âm đạo dài 0,1 - 0,15 mm,
nằm gần hậu môn, hơi xuyên vào cơ quan thải trứng. Trứng hình bầu dục, dài 0,060 -

0,088 mm, rộng 0,035 - 0,050 mm.
5

Hình 2.1. Loài O. dentatum
(Rudolphi, 1803)
1,2: Phần đầu cơ thể.
3: Phần đuôi cá thể cái.
4: Mút và gốc gai giao phối.
5: Cơ quan điều chỉnh.
6: Túi đuôi cá thể đực.
7: Nón sinh dục.
(Nguồn: Phan Thế Việt và cs, 1977) [27]

Hình 2.2. Loài O. longicaudum
(Goodey, 1925)
1: Đầu.
2: Đuôi của con cái.
3: Đuôi của con đực.
4: Phần cuối gai giao phối.
5: Lái.
6: Nón sinh dục của con đực.
(Nguồn: Phan Thế Việt và cs, 1977) [27]





Hình 2.3. Giun O. dentatum

Hình 2.4. Trứng giun O. dentatum

(Nguồn:http://courseware_s/kcxxl)[35] (Nguồn:

6
2.1.1.3. Vòng đời của giun tròn Oesophagostomum spp.
Hagsten (2000) [29] cho rằng: Thực chất của bất kỳ chương trình khống
chế giun sán nào thì việc phá vỡ vòng đời của chúng là cần thiết. Do vậy, hiểu
được chu kỳ (vòng đời) phát triển của giun sán có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc phòng chống các bệnh giun sán nói chung và bệnh giun kết hạt nói riêng.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [9]: Toàn bộ quá trình phát
triển, thay đổi qua những giai đoạn khác nhau của đời sống ký sinh trùng, kể từ
khi nó là mầm sinh vật đầu tiên, cho đến khi nó lại có khả năng sản sinh ra
mầm sinh vật mới, tạo ra một thế hệ mới thì toàn bộ quá trình đó được gọi là
chu kỳ. Vòng đời giun tròn Oesophagostomum spp. không cần vật chủ trung
gian. Trứng theo phân ra ngoài, gặp nhiệt độ 25 - 27
o
C, sau 10 - 17 giờ nở
thành ấu trùng, qua hai lần lột xác, sau 7 - 8 ngày thành ấu trùng gây nhiễm.
Khi ký chủ nuốt phải ấu trùng này, tới ruột thì ấu trùng chui vào niêm mạc ruột
tạo thành những u kén, lột xác lần thứ ba, tới ngày 6 - 8 thành ấu trùng kỳ IV,
sau đó rời khỏi niêm mạc ruột và lột xác lần nữa và phát triển thành giun
trưởng thành. Thời gian hoàn thành vòng đời của giun O. longicaudum là 50
ngày, giun O. dentatum là 45 - 60 ngày.
Phan Lục (2006) [18] cho biết: Ấu trùng O. dentatum khi vào ruột lợn
chui sâu vào niêm mạc ruột già và hình thành hạt (u kén), trong có ấu trùng.
Sau 23 ngày, ấu trùng chui ra khỏi kén, vào xoang ruột và phát triển thành giun
trưởng thành sau 1,5 - 2 tháng. Tuổi thọ của giun từ 8 - 10 tháng.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [13]: Giun trưởng thành ký sinh trong
ruột già lợn, đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài môi trường. Trứng gặp điều
kiện nhiệt độ 25 - 27
o

C, sau 10 - 17 giờ nở thành ấu trùng. Ấu trùng I sau 24
giờ, ở nhiệt độ 22 - 24
o
C phát dục thành ấu trùng II, dài 0,44 - 0,64 mm. Ấu
trùng II phát triển được hai ngày thì thành ấu trùng gây nhiễm III. Ấu trùng này lẫn
trong thức ăn, nước uống vào cơ thể ký chủ. Khi tới ruột, ấu trùng chui sâu vào niêm
mạc ruột tạo thành những u kén và phát triển thành giun trưởng thành ở ruột già.
Skrjabin K. I. và cs (1963) [30] đã mô tả chi tiết về chu kỳ phát triển của
giun tròn Oesophagostomum spp. lợn như sau: Trứng bài xuất ra ngoài ở giai
đoạn phân chia 8 - 16 phôi bào. Người ta đã xác định được rằng, khi nhiệt độ thích
7
hợp (30
o
C), ở trong trứng ấu trùng phát triển rất nhanh, chỉ qua 16 - 18 giờ ấu
trùng đã nở ra khỏi trứng. Ấu trùng giai đoạn 1 ra khỏi trứng phát triển trong
môi trường bên ngoài, đến ngày thứ tư thì lột xác lần thứ nhất. Sau đó 24 giờ
ấu trùng lột xác lần thứ 2, tức là tách lớp vỏ và trở thành ấu trùng giai đoạn 2,
rồi lột xác lần thứ hai thành ấu trùng giai đoạn 3. Ấu trùng giai đoạn 3 là ấu
trùng cảm nhiễm, tức là có khả năng gây bệnh đối với ký chủ.
Tác giả cũng cho biết, khi gây nhiễm thực nghiệm trên lợn bằng ấu trùng
cảm nhiễm O. longicaudum, thấy có sự tạo thành các hạt ký sinh trong thành
ruột sau hai ngày nhiễm bệnh. Sau 17 ngày, đa số ấu trùng chui ra khỏi hạt, ký
sinh trong ống ruột ở giai đoạn phát triển thứ 4. Sau 35 ngày cảm nhiễm thấy
có hiện tượng mất các hạt ký sinh, ở chỗ hạt đó chỉ thấy mô niêm mạc dày lên.
Giun O. longicaudum đạt đến giai đoạn trưởng thành sau 50 ngày cảm nhiễm.
Vòng đời giun kết hạt có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau





Phân 25-27ºC
10-17 giờ
Trứng
Ấu trùng có
sức gây nhiễm

Ruột
Lột xác lần 3
Ấu trùng
kỳ IV
Lột xác lần 4
Rời
khỏi
u kén
Oesophagostomum spp.
trưởng thành
(ký sinh ở ruột già lợn)
Ấu trùng
Qua 2
lần lột
xác
Ký chủ
nuốt
phải

Hình 2.5. Sơ đồ vòng đời giun tròn Oesophagostomum spp.

8
2.1.1.4. Sự phát triển và sức đề kháng của trứng giun tròn Oesophagostomum
spp. ở ngoại cảnh

Việc nghiên cứu sự phát triển và sức đề kháng của trứng giun tròn
Oesophagostomum spp. ở ngoại cảnh có ý nghĩa quan trọng trong dịch tễ học
bệnh Oesophagostomosis ở lợn, đồng thời là cơ sở khoa học đề ra những biện
pháp phòng trị bệnh Oesophagostomosis.
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [9] cho biết: Ở nhiệt độ 5 - 9
o
C trứng
ngừng phát triển, nhiệt độ 35
o
C trứng bị chết, gặp điều kiện thích hợp trứng
phát triển thành ấu trùng gây nhiễm sau trên dưới một tuần.
Archie Hunter (2000) [28] nhận xét: Sự phát triển, khả năng sống sót của
trứng và ấu trùng cảm nhiễm ở môi trường trước hết phụ thuộc vào khí hậu.
Gặp nhiệt độ và ẩm độ thích hợp, sau 5 - 6 ngày trứng phát triển thành ấu trùng
cảm nhiễm. Khi nhiệt độ thấp trứng giun nở và phát triển chậm hơn.
Thí nghiệm ủ phân lợn có nhiễm trứng giun đũa, trứng giun kết hạt và ấu
trùng cảm nhiễm L
3
của giun kết hạt; kiểm tra sau 7, 14, 28, 56 ngày ủ, kết quả
cho thấy: Trứng giun đũa không bị tiêu diệt, mặc dù khả năng sống suy giảm;
trứng giun kết hạt và ấu trùng cảm nhiễm L
3
bị phá huỷ trong 7 - 14 ngày đầu
của quá trình ủ.
Theo Phan Địch Lân và cs (2002) [14], Phan Lục (2006) [18], Phạm Sỹ
Lăng và cs (2009) [13]: Trứng giun tròn Oesophagostomum spp. theo phân ra ngoài
môi trường, gặp điều kiện nhiệt độ 25 - 27
o
C, sau 10 - 17 giờ nở thành ấu trùng.
Theo Skrjabin K. I. và cs (1963) [30]: Ở nhiệt độ thích hợp (30

o
C), trong
trứng ấu trùng phát triển rất nhanh, chỉ qua 16 - 18 giờ nở ra và vào môi trường
bên ngoài. Ở nhiệt độ cao 45 - 50
o
C trứng bị chết, còn ở nhiệt độ thấp 3
o
C
trứng không phát triển.
2.1.1.5. Khả năng sống của ấu trùng cảm nhiễm (L
3
) ở ngoại cảnh
Theo Oparin P. G. (1958): Ấu trùng gây nhiễm của giun tròn
Oesophagostomum spp. có thể duy trì khả năng sống ở môi trường bên ngoài 13
tháng (dẫn theo Phan Địch Lân và cs, 2002) [14].
9
Nghiên cứu về ấu trùng cảm nhiễm của giun tròn Oesophagostomum spp.
người ta thấy sức đề kháng của nó với nhiệt độ khá cao: Ở - 15
o
C, 93% ấu trùng cảm
nhiễm sau 24 giờ có khả năng hoạt động trở lại khi đưa về nhiệt độ môi trường xung
quanh. Các ấu trùng này cũng có thể sống sót trong môi trường axit được tổng hợp
nhân tạo tương tự như môi trường axit trong dạ dày. (Pit D. S. S. và cs, 2000) [31].
Skrjabin K. I. và cs (1963) [30] cho biết: Ấu trùng cảm nhiễm
Oesophagostomum spp. sống lâu hơn ở môi trường ẩm thấp, súc vật nhiễm
bệnh này chủ yếu trên đồng cỏ ẩm ướt và khi uống nước ở những ao, đầm nhỏ
cũng như máng nước lâu ngày không cọ rửa. Những ấu trùng cảm nhiễm có
sức đề kháng với nhiệt độ cao và nhiệt độ thấp, với sự làm khô và với tác động
của các nhân tố hoá học tốt hơn so với ấu trùng của các giai đoạn trước. Ngoài
ra, ấu trùng cảm nhiễm có khả năng di chuyển theo hướng thẳng đứng hay nằm

ngang.
Archie Hunter (2000) [28] nhận xét: Ấu trùng trên đồng cỏ chịu ảnh
hưởng trực tiếp của khí hậu. Điều kiện tối ưu cho ấu trùng cảm nhiễm phát
triển là ẩm độ tương đối cao và nhiệt độ môi trường trong khoảng 18 - 26
o
C.
Điều kiện khô và nóng diệt ấu trùng, điều kiện lạnh làm chậm lại quá trình nở
của trứng và sự phát triển của ấu trùng.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [13] cho biết: Ấu trùng có sức đề kháng tốt
với nhiệt độ thấp, để ở - 19
o
C đến - 29
o
C qua 10 ngày ấu trùng vẫn sống; để ở
nhiệt độ phòng bình thường ấu trùng có thể sống một năm.
Stromberg B. E. (1997) [34] cho biết: Nhiệt độ quá cao sẽ tác động bất
lợi đến sự phát triển của ấu trùng và ấu trùng có thể bị chết. Mưa có ảnh hưởng
quan trọng đến sự phân tán của ấu trùng, làm ấu trùng cảm nhiễm di chuyển xa
90 cm so với vị trí ban đầu và di chuyển vào trong đất ở độ sâu 15 cm. Có lẽ
khả năng này giúp ấu trùng sống sót được trong những điều kiện bất lợi và
tránh được sức nóng mặt trời.
2.1.2. Đặc điểm dịch tễ của bệnh
Theo Trịnh Văn Thịnh (1963) [22], Phan Thế Việt (1977) [27], Bùi Lập
(1979) [15], Phạm Văn Khuê (1982) [6], Nguyễn Đăng Khải (1996) [5], Vũ Tứ
Mỹ (1999) [20], Phan Lục (2006) [18], Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [13]: Bệnh
10
Oesophagostomosis là một trong các bệnh giun tròn phổ biến gây hại cho lợn,
phân bố rộng trên toàn thế giới. Ở Việt Nam, bệnh có ở tất cả các vùng sinh
thái từ Bắc đến Nam.
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [9] cho biết, tỷ lệ nhiễm giun tròn

Oesophagostomum spp. theo tuổi lợn như sau:
Lợn < 2 tháng tuổi : 46,9%
Lợn 3 - 4 tháng tuổi : 67,4%
Lợn 5 - 6 tháng tuổi : 72,1%
Lợn > 8 tháng tuổi : 73,3%
Lợn con có tỷ lệ nhiễm giun tròn Oesophagostomum spp. thấp và cường
độ nhiễm nhẹ, ở lợn con bị nhiễm bệnh không có nhiều u kén ở ruột. Ở lợn lớn
tỷ lệ nhiễm cao và cường độ nhiễm nặng. Khi lợn lớn bị bệnh có rất nhiều u
kén ở ruột.
Phan Lục và cs (2000) [17] nhận xét: Lợn nuôi thả rông nhiễm hầu hết các
loại ký sinh trùng. Đối với lợn nuôi nhốt, gần như rất ít nhiễm những ký sinh trùng
có vật chủ trung gian. Loài giun tròn Oesophagostomum spp. có thể hoàn thành
vòng đời ngay trong chuồng đối với lợn nuôi nhốt, nhưng khả năng này phụ thuộc
trực tiếp vào mức độ vệ sinh sạch sẽ của chuồng trại. Tác giả cho biết, giun tròn
Oesophagostomum spp. có nhiều ở lợn trưởng thành nuôi sinh sản.
Theo Phan Địch Lân và cs (2002) [14]: Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun
tròn Oesophagostomum spp. phụ thuộc vào phương thức chăn nuôi. Tỷ lệ nhiễm
giun kết hạt lợn cao ở vụ hè - thu và giảm đi ở vụ đông - xuân.
Qua nghiên cứu các tác giả cho biết, lợn bị nhiễm giun sán khi được nuôi
ở cả ba tình trạng vệ sinh thú y tốt, trung bình và kém. Tuy nhiên, tỷ lệ và cường
độ nhiễm tăng lên rõ rệt trong tình trạng vệ sinh thú y kém. Vệ sinh thú y kém là
điều kiện thuận lợi để ký sinh trùng và vi khuẩn gây bệnh đường tiêu hoá nhiễm
vào cơ thể lợn, gây tiêu chảy (dẫn theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 2009) [11].
2.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh
* Đặc điểm bệnh lý của bệnh
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [9], tác động của ký sinh trùng
lên cơ thể ký chủ có nhiều mặt:
11
- Tác động cơ giới: Hầu hết các ký sinh trùng đều gây lên những biến
loạn cơ giới, ngăn trở ít hay nhiều khí quan mà nó xâm nhập; hoặc làm tắc,

hoặc chèn ép và phá hoại các tổ chức, hoặc làm thủng, làm rách hoặc do khí
quan bám hút của ký sinh trùng mà làm tróc niêm mạc, xuất huyết. Thường
thấy gây viêm cấp tính, thứ cấp tính, mạn tính. Viêm dẫn tới sản sinh một cái
vỏ bằng tổ chức liên kết bọc lấy ký sinh trùng; cái vỏ và ký sinh trùng bọc bên
trong chết đi biến thành một cái hạt, thành vữa rồi thành vôi.
- Tác động chiếm đoạt: Ký sinh trùng tự nuôi dưỡng bằng ăn tổ chức của
ký chủ, cướp một phần thức ăn của ký chủ đã tiêu hoá, hút máu ký chủ. Tác
động này tiếp diễn liên tục bởi rất nhiều ký sinh trùng, gây nên tổn hại rất lớn
cho ký chủ (thiếu máu, gầy rộc,…).
- Tác động đầu độc: Ký sinh trùng bài tiết các chất độc hàng ngày, ký
chủ hấp thụ chất độc, sinh ra những biến loạn khác nhau, nhưng thường thấy
nhất là biến loạn thần kinh và tuần hoàn. Nói chung, chất độc do ấu trùng bài
tiết mạnh hơn so với chất độc của ký sinh trùng trýởng thành.
- Tác động truyền bệnh: Giun sán bám vào các niêm mạc, gây thương
tích, phá vỡ phòng tuyến thượng bì, mở đường cho các vi khuẩn trong môi
trường xâm nhập cơ thể, vi khuẩn gây bệnh khác ghép với bệnh ký sinh trùng.
Ký sinh trùng và vi khuẩn thường kết hợp làm tổn hại thêm cho ký chủ.
Skrjabin K. I. và cs (1963) [30] đã mô tả chi tiết cơ chế sinh bệnh của
giun tròn Oesophagostomum spp. như sau:
Bệnh lý do Oesophagostomum spp. phụ thuộc trực tiếp vào giai đoạn
phát triển của ký sinh vật. Ở giai đoạn ấu trùng, Oesophagostomum spp. là
nguyên nhân gây “bệnh hạt ruột”, còn giai đoạn trưởng thành, chúng gây ra
bệnh giun kết hạt (Oesophagostomosis) đường ruột. Nếu như gia súc tái nhiễm
bệnh này thì ở gia súc đó cùng một lúc thấy có cả giai đoạn hạt và giai đoạn
giun trưởng thành ở ruột.
Giai đoạn hạt được coi là giai đoạn bệnh nguy hiểm hơn cả. Sau khi ấu
trùng được nuốt cùng với thức ăn và nước uống vào ruột, chúng nhanh chóng
chui sâu vào niêm mạc, tới hạ niêm mạc. Ở chỗ ấu trùng chui vào tạo thành
những hạt mà mắt thường có thể nhìn thấy được. Niêm mạc ở chỗ này sưng,
sung huyết, trên mặt có những hạt nhỏ, chính giữa có nhân màu vàng. Trong

12
các hạt, ấu trùng hoặc ở trạng thái tự do (chui vào chưa được bao lâu), hoặc
trong những kén (già hơn); những hạt này có thể ăn sâu vào lớp cơ của ruột.
Qua thời gian nhất định, ấu trùng từ hạt chui vào ruột. Sau khi ấu trùng chui ra
khỏi hạt, ở chỗ chúng cư trú tạo thành những chấm sẹo.
Trong thời gian phát triển hạt, ở thành ruột xuất hiện triệu chứng bệnh (cơn
đau do loét). Cùng với sự thối rữa các hạt (vào ngày thứ 7 sau khi cảm nhiễm), ấu
trùng chui ra khỏi hạt để vào ruột, lợn bị đau ở vùng bụng, gầy còm, bỏ ăn, ỉa chảy.
Nếu có số lượng lớn ấu trùng ra khỏi kén thì đôi khi lợn tự khỏi bệnh. Trường hợp
ngược lại, bệnh chuyển sang thể mạn tính. Một số hạt có thể bị vỡ ra từ phía tương
mạc ruột, trong những trường hợp này bệnh trở nên phức tạp hơn do viêm xơ hoá,
hay có mủ ở màng bụng, có thể làm lợn bị chết.
Sức gây bệnh của giun trưởng thành sống trong ruột ít hơn. Chúng có khả
năng gây viêm cata, niêm mạc ruột phủ kín chất nhầy đặc, bên trong là giun tròn
Oesophagostomum spp. Ở vật mắc bệnh do giun tròn Oesophagostomum spp.
trưởng thành thấy có hiện tượng ỉa chảy xen lẫn từng thời gian.
* Triệu chứng lâm sàng của bệnh
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [9], Phan Lục (2006) [18], Chu
Thị Thơm và cs (2006) [25], Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [13], lợn bị bệnh
Oesophagostomosis thể hiện hai giai đoạn:
- Giai đoạn ấu trùng chui vào niêm mạc ruột gây triệu chứng cấp tính: Ỉa
chảy, phân có chất nhầy, đôi khi có máu tươi, có một số ít con nhiệt độ tăng
cao, bỏ ăn, gầy còm, thiếu máu, niêm mạc nhợt nhạt, ỉa chảy kéo dài làm con
vật gầy dần rồi chết.
- Giai đoạn giun trưởng thành gây triệu chứng mạn tính, có từng thời kỳ
con vật kiết lị, chậm lớn, gầy còm. Các triệu chứng khác không rõ lắm.
Skrjabin K. I. và cs (1963) [30] cho biết: Oesophagostomosis tiến triển
ở thể cấp tính và mạn tính. Theo dẫn liệu của Oparin, thể thứ cấp có liên quan
tới sự xâm nhập của hàng loạt ấu trùng vào thành ruột, và sau đó lại quay về
ruột. Thể mạn tính có liên quan tới sự ký sinh của giun trưởng thành. Tuy

nhiên, thường Oesophagostomosis xuất hiện ở thể ghép vì có cả ấu trùng và
giun trưởng thành ký sinh trong cơ thể súc vật.
13
Bệnh lý do Oesophagostomum spp. phụ thuộc vào giai đoạn phát triển
của giun. Ở giai đoạn ấu trùng, Oesophagostomum spp. là nguyên nhân gây
“bệnh hạt ruột”, còn giai đoạn trưởng thành chúng gây Oesophagostomosis
đường ruột. Giai đoạn hạt được coi là giai đoạn nguy hiểm hơn cả. Ấu trùng
chui vào ruột tạo thành những hạt mà mắt thường có thể nhìn thấy được. Trong
thời gian phát triển hạt, con vật đau bụng, gầy còm, bỏ ăn, ỉa chảy. Giai đoạn
trưởng thành sức gây bệnh ít hơn, ruột viêm cata, phủ chất nhày đặc và giun kết
hạt. Con vật thỉnh thoảng bị ỉa chảy (Trịnh Văn Thịnh và cs, 1982) [24].
* Bệnh tích của bệnh
Theo Phan Lục (2006) [18], Chu Thị Thơm và cs (2006) [25]: Ở ruột có
những u kén nhỏ bằng đầu đinh ghim hay hạt đậu, có điểm màu vàng, bên
trong có ấu trùng giun. Kết tràng thường bị viêm và đôi khi thấy vài nghìn u
kén ở ruột. Có khi u kén bị hoại tử, bên trong có mủ, có những u kén đã thành
chấm sẹo. Niêm mạc ruột già sung huyết, xuất huyết, trong xoang ruột có nhiều
giun tròn Oesophagostomum spp. trưởng thành.
Miaxnikova (1946) khi nghiên cứu gây nhiễm thực nghiệm cho lợn con
bằng ấu trùng O. dentatum đã cho biết, sự tạo thành các hạt ký sinh trong thành
ruột xảy ra vào hai ngày sau khi cảm nhiễm. Đến ngày thứ 20, những ấu trùng
này ra khỏi hạt và vào ruột, ở đây chúng phát triển thành giun trưởng thành vào
ngày thứ 43 (dẫn theo Skrjabin K. I. và cs, 1963) [30].
Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [13] cho biết: Sau khi nhiễm giun 5 ngày, ở
niêm mạc ruột già lợn thấy những u kén nhỏ. Ở giữa kén này có điểm màu
vàng, bên trong có ấu trùng giun. Tới ngày thứ 7 - 8 thì kết tràng bị viêm có
mủ. Có khi có tới vài nghìn u kén ở trong một đoạn ruột, u kén to bằng hạt đậu,
có khi chỉ dài 0,1 cm.
Skrjabin K. I. và cs (1963) [30] đã gây nhiễm thực nghiệm cho lợn ấu
trùng cảm nhiễm O. longicaudum, thấy có sự tạo thành các hạt ký sinh trong

thành ruột sau 2 ngày nhiễm bệnh. Sau 17 ngày, đa số ấu trùng chui ra khỏi hạt
và vào ruột ở giai đoạn phát triển thứ tư. Sau 35 ngày cảm nhiễm, thấy có hiện
tượng mất các hạt, ở chỗ hạt chỉ thấy mô niêm mạc ruột dày lên. Giun O.
longicaudum đạt đến giai đoạn trưởng thành sau 50 ngày cảm nhiễm.
14
2.1.4. Các biện pháp phòng và điều trị
* Biện pháp phòng bệnh
Theo quan điểm của Skrjabin K. I. và cs (1963) [30], muốn thanh toán
bệnh giun sán phải phòng bệnh có tính chất chủ động. Dùng tất cả mọi phương
pháp vật lý (ánh sáng, nhiệt độ), cơ giới, hoá học, sinh vật học, để tiêu diệt
giun sán trên cơ thể ký chủ, ở ngoại cảnh, ở tất cả các giai đoạn phát dục
(trứng, ấu trùng, giun sán trưởng thành).
Phạm Hữu Doanh và cs (1995) [2] cho biết: Lợn rất mẫn cảm với bệnh
ký sinh trùng, vì vậy chỉ cho lợn ăn rau bèo khi đã rửa sạch sẽ và định kỳ tẩy
giun sán bằng các thuốc đặc hiệu. Thức ăn, nước uống phải luôn luôn sạch.
Biện pháp hữu hiệu để phòng chống bệnh giun sán ở gia súc là biện
pháp phòng trừ bệnh tổng hợp, nghĩa là ở những vùng sinh thái nhất định, đồng
thời sử dụng nhiều biện pháp có hiệu quả đối với tất cả các giai đoạn phát triển
của giun sán, ở môi trường cũng như trong cơ thể vật chủ (Nguyễn Thị Lê và
cs, 1996) [16].
Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996) [8], biện pháp phòng bệnh tổng hợp
đối với các bệnh giun tròn nói chung ở lợn gồm:
- Diệt căn bệnh trong cơ thể lợn: Định kỳ tẩy giun cho lợn. Mỗi năm tẩy
mấy lần là tuỳ điều kiện của từng vùng và từng loại lợn.
- Diệt căn bệnh bên ngoài: Trứng giun khuếch tán ra bên ngoài là
nguyên nhân chủ yếu làm căn bệnh lan tràn, cần thực hiện các biện pháp sau:
+ Có thể diệt trứng giun bằng cách ủ phân hoặc các biện pháp lý hoá. Các loại
thuốc hoá học diệt trứng giun có hiệu quả như: Creolin, axit cacbonic kiềm tính,
+ Thường xuyên quét dọn phân và rơm rác ở chuồng lợn, thay ổ cho lợn,
máng ăn, dụng cụ chăn nuôi cần định kỳ sát trùng. Đối với sân chơi có thể hót

lớp đất bề mặt rồi phủ một lớp đất mới và rắc vôi bột ở trên. Ngoài ra, cần chú
ý vệ sinh thức ăn, nước uống.
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [9] cho biết: Phòng bệnh ký sinh
trùng có nhiều biện pháp, nhýng ðều nhằm mục ðích không cho mầm bệnh ký
sinh trùng phát triển và thực hiện tốt các giai đoạn trong vòng đời của nó, để nó
không thể tạo ra ký sinh trùng trưởng thành mới được. Các phương pháp tấn
công ký sinh trùng ở từng giai đoạn như sau:
15
- Chống giai đoạn thứ nhất: Ký sinh trùng trưởng thành đẻ trứng ở ký
chủ cuối cùng. Có thể tiêu diệt nó bằng hai phương pháp: Dùng thuốc đặc hiệu
diệt ký sinh trùng (việc tẩy ký sinh trùng này có tính chất dự phòng, tức là thực
hiện trước khi súc vật phát ra triệu chứng bệnh và trước khi súc vật reo rắc
mầm bệnh ra bên ngoài môi trường), tiêu diệt ký sinh trùng bằng cách giết tất
cả những vật mắc bệnh (phương pháp này triệt để nhưng tốn kém mặc dù thịt
súc vật vẫn sử dụng được).
- Chống giai đoạn thứ hai: Trứng. Có thể dùng hai phương pháp: Tiêu
diệt hầu hết trứng bằng cách thu nhặt hết phân của gia súc ốm trong chuồng và
đem chôn (biện pháp này phải làm đi làm lại nhiều lần để trứng không có thời
gian phát triển thành phôi thai) hoặc có thể ủ phân theo phương pháp nhiệt sinh
học.
- Chống giai đoạn thứ ba và thứ tư: Diệt phôi thai và ấu trùng tự do
ngoài thiên nhiên bằng hai cách: diệt toàn bộ phôi thai và ấu trùng ngoài đồng
cỏ và ao tù bằng vôi bột, sunfat sắt, sunfat đồng với lượng dùng 400 kg cho 1
ha đồng cỏ, 5 kg cho 100 m
3
nước ao. Không cho phôi thai hay ấu trùng xâm
nhập vào cơ thể ký chủ (cách ly súc vật ốm, tiêu độc dụng cụ và chuồng nuôi,
vệ sinh thức ăn, nước uống, diệt ký chủ trung gian).
Theo tác giả, cần thực hiện các biện pháp phòng trừ tổng hợp để phòng
bệnh Oesophagostomosis như: Định kỳ tẩy trừ giun, phân gia súc phải ủ để diệt

trùng, giữ vệ sinh thức ăn, nước uống. Nếu cơ sở chăn nuôi có bệnh thì cần cho
gia súc uống thuốc phòng bệnh. Uống liên tục liều nhỏ Phenothiazin có thể hạn
chế giun kết hạt đẻ trứng.
Phan Lục (2006) [18], Chu Thị Thơm và cs (2006) [25] cho biết: Để
phòng bệnh giun kết hạt phải thường xuyên vệ sinh chuồng trại, dụng cụ chăn
nuôi. Phân, rác ủ đúng kỹ thuật để diệt trứng giun. Định kỳ tẩy giun cho lợn.
Tăng cường chăm sóc, nuôi dưỡng để gia súc có sức đề kháng cao với bệnh tật.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [13], để phòng bệnh
Oesophagostomosis cho lợn, cần áp dụng các biện pháp như: Tẩy giun định kỳ 3
- 4 lần/năm cho đàn lợn bằng một trong các thuốc Levamisole, Ivermectin,
Phenothiazin; giữ vệ sinh chuồng trại và môi trường; ủ phân diệt trứng giun.
16
* Biện pháp điều trị
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [9] cho biết: Chữa bệnh ký sinh trùng
phải đạt được 3 yêu cầu:
- Trước hết phải tiêu diệt ký sinh trùng, dùng thuốc tẩy trùng cho vật
nuôi. Phải dùng thuốc hướng ký sinh trùng, tức là độc với nó và không độc với
ký chủ. Nên chọn thuốc nào có hiệu lực nhất đối với ký sinh trùng, đồng thời ít
nguy hiểm nhất đối với ký chủ, rẻ tiền và dễ dùng nhất.
- Phải ngăn chặn không cho con vật ốm tái nhiễm, đưa ngay con vật ra
khỏi nơi có bệnh, tiêu độc chỗ đó trước khi cho súc vật vào lại.
- Phải làm cho súc vật ốm hồi sức: Cho ăn nhiều, đủ dinh dưỡng, vitamin
và muối. Có khi dùng thuốc bổ, thuốc kích thích, tiếp máu. Giữ vệ sinh tốt,
chữa các triệu chứng.
Có nhiều loại thuốc có tác dụng phòng trị giun tròn đường tiêu hoá.
Thuốc có tác dụng làm cho giun bị tê liệt, làm tăng co bóp ruột, làm ngưng sự
phát triển của trứng và ấu trùng, ức chế phong toả quá trình trao đổi chất và tạo
ATP, từ đó làm cho ký sinh trùng bị tê liệt, cộng với tác động kích thích nhu
động ruột của thuốc, từ đó đẩy giun ra ngoài. Phạm Đức Chương và cs (2003)
[1] cho biết, các thuốc thường được dùng để điều trị bệnh ký sinh trùng đường

tiêu hoá là:
Levamisole: Là thuốc chống giun tròn phổ tác dụng rộng, trên nhiều loài
vật chủ. Ưu điểm của thuốc là có tác dụng tốt để điều trị các bệnh giun tròn
đường tiêu hoá, nó có thể ở dạng viên, cho uống hay bổ sung vào thức ăn.
Thuốc có tác dụng đối với cả ấu trùng và giun trưởng thành. Hiệu lực tẩy giun
kết hạt là 72 - 99%.
Ivermectin: Tác dụng trên phổ rộng đối với nhiều loại giun tròn. Ưu
điểm của Ivermectin là tẩy được cả nội ngoại ký sinh trùng. Tiêm dưới da liều
0,3 mg/kg TT cho lợn có tác dụng làm giảm 94 - 100% các giai đoạn chưa
trưởng thành của giun kết hạt.
Theo Nguyễn Đức Lưu và cs (2004) [19]: Mebendazol là thuốc chủ yếu
tẩy giun tròn. Thuốc có tác dụng rộng, diệt cả ấu trùng và giun trưởng thành
17
thông qua sự ức chế, sự hấp thu Glucoza, Glucozen, giảm ATP và gây liệt các
hệ cơ của ký sinh trùng. Liều dùng cho lợn là 2 gam/10kg TT.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [13] cho biết, có thể điều trị bệnh giun kết
hạt lợn bằng một trong các loại hoá dược đặc hiệu sau:
Levamisole: Dùng liều 12 - 15 mg/kg TT, cho uống hoặc tiêm.
Phenothiazin: Dùng liều 0,2 - 0,3 g/kg TT, cho uống 2 lần vào hai buổi sáng.
Ivermectin: Dùng liều 0,2 mg/kg TT, tiêm thuốc cho lợn 2 lần với liều
trên, cách nhau 1 ngày.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Theo Trịnh Văn Thịnh (1978) [23], lợn nhiễm các loài giun tròn nặng
nhất là từ 2 - 4 tháng tuổi, trên một tỷ lệ nhiễm chung là 49 - 65,9%. Qua mổ
khám cho thấy, các loại giun sán chính ở lợn là Ascaris suum, Metastrongylus,
O. dentatum, Trichocephalus suis.
Bùi Lập (1979) [15] cho biết, lợn dưới 2 tháng tuổi nhiễm 7 loài giun sán
trong đó có Oesophagostomosis. Các loài nhiễm tăng theo tuổi lợn là:
Fasciolopsis buski, Stephanurus dentatus và O. dentatum.

Lương Văn Huấn (1994) [3] nghiên cứu mức độ nhiễm giun sán ở 3 khu
vực miền Trung, Đông và đồng bằng Sông Cửu Long cho biết tỷ lệ nhiễm giun
O. dentatum ở 3 vùng tương ứng là: 32,1%; 34,9% và 28,6%.
Nguyễn Đăng Khải (1996) [5] đã mổ khám toàn diện cơ quan tiêu hoá
của 900 lợn ở 6 tỉnh, thành thuộc miền Tây Nam Bộ và miền Đông Nam Bộ,
kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm các loài giun sán ở lợn khá cao: Ascaris suum
31,04%; O. dentatum 23,88% và Trichocephalus suis 10,99%.
Nghiên cứu hiệu lực của các thuốc tẩy giun tròn trên lợn, Phan Lục và cs
(2000) [17] đánh giá: Thuốc Levamisole, Pyrantel, Dichlorvos, Feben dazole,
Ivermectin có hiệu quả rất mạnh (++++) đối với giun kết hạt (Oesophagostomosis);
thuốc Piperazine có hiệu quả một phần (+) và thuốc Thiabendazole không có hiệu
quả trong điều trị bệnh Oesophagostomosis ở lợn (-).
Phạm Đức Chương và cs (2003) [1] cho biết: Thuốc Thiophanate dùng liều
một lần 50 - 100 mg/kg TT có tác dụng khá tốt với các giai đoạn trưởng thành và ấu
trùng giun kết hạt, giun tóc, giun dạ dày và giun lươn ký sinh ở lợn.

×