Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Hãy chứng minh cái đẹp là phạm trù cơ bản và trung tâm của Mỹ học Liên hệ bản thân là một chủ thể nhà báo đẹp, trác tuyệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.22 KB, 14 trang )

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Hãy chứng minh cái đẹp là phạm trù cơ bản và trung tâm của Mỹ học Liên
hệ bản thân là một chủ thể nhà báo đẹp, trác tuyệt

BÀI LÀM

Khách thể thẩm mỹ là một trong ba thành tố tạo nên đời sống thẩm mỹ.
Khách thể thẩm mỹ là một hệ thống bao gồm năm phạm trù khái quát toàn bộ
những hiện tượng, những quy luật thẩm mỹ trong tự nhiên, trong xã hội và trong
nghệ thuật. Năm phạm trù tạo nên khách thể thẩm mỹ bao gồm: phạm trù cái
đẹp, phạm trù cái xấu, phạm trù cái bi, phạm trù cái hài và phạm trù cái trác
tuyệt. Trong năm phạm trù hợp thành khách thể thẩm mỹ thì phạm trù cái đẹp là
phạm trù cơ bản và trung tâm của mỹ học.
Cái đẹp là đại diện cho thẩm mỹ, cái đẹp trong cuộc sống của con người,
của nhân loại như là khơng khí và nước uống và ánh sáng. Thiếu nó con người
khơng thể tồn tại, khơng thể có niềm tin vào cuộc sống, xa rời nó con người trở
nên cơ đơn, chống lại nó con người trở nên thấp hèn. Cái đẹp giữ một vị trí hết
sức quan trọng trong đời sống của con người, cái đẹp làm phong phú đời cống
con người và xã hội. Thực tiễn của toàn bộ lịch sử nhân loại cho thấy ở đâu có
cái đẹp, ở đâu cái đẹp xuất hiện thì ở đó con người có tình yêu và hạnh phúc, ở
đâu khát vọng nhập vào tình cảm con người thì xã hội khơng ngừng hồn thiện,
quan hệ giữa con người và con người ngày càng vui tươi và hạnh phúc. Không
phải vô cớ mà nhà văn người Nga Đơstơiepxki đã nói một câu nói rất nổi tiếng
rằng: “Cái đẹp đã cứu rỗi nhân loại”.
Cái đẹp mang trong mình một giá trị, nhưng giá trị mà nõ mang khơng
tồn tại vĩnh hằng trường cửu, mà nó vừa mang vẻ đẹp thời sự, vưa mang tính
mn thủa.
Cái đẹp thời sự là hơm nay đẹp, nhưng ngày mai nó sẽ khơng cịn đẹp
nữa. Ví dụ như mốt quần cáo, có thể là hơm nay cái áo này là đẹp là hợp mốt
nhưng ngày mai cái áo trở nên lỗi mốt và khơng cịn được coi là đẹp nữa. Tuy
nhiên, cũng có cái đẹp mang tính trường cửu, đó là những cái đẹp đã đạt đến




THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
mức trác tuyệt, cái đẹp đó sẽ tồn tại mãi mãi, ví dụ như: Truyện Kiều của
Nguyễn Du…
Nói đến cái đẹp chúng ta sẽ nhìn nhận đánh giá cái đẹp ở hai hệ tiêu chí,
tính chân thiện mĩ, tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại.
Nói đến cái đẹp ai cũng muốn vươn tới đến cái đẹp làm sao để đạt được
cái đẹp. Vươn tới với đến cái đẹp tức là vươn đến với cái chân - thiện - mĩ. Cái
đẹp mang tính nhân dân - tính dân tộc và tính nhân loại, vì cái đệp phải phục vụ
đa số nhân dân lao động. Như chèo ở miền Bắc, tuồng ở miền Trung và cải
lương ở miền Nam nước ta… Không những vậy cái đẹp cịn mang đậm bản sắc
văn hố dân tộc để cho nhân loại biết đến ta là ai, là dân tộc nào? Bản sắc văn
hoá của dân tộc là diện mạo, là hồn vía của dân tộc, là bàn thờ của cha ông….

2


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
I. BẢN CHẤT CÁI ĐẸP
Cái đẹp có mặt kháp nơi trong cuộc sống quanh ta, được biểu hiện qua
muôn vàn những sự vật hiện tượng với những kích thước, màu sắc, hình dáng,
phẩm chất khác nhau. Từ những cái đẹp của thế giới tự nhiên do tạo hố sinh ra
như sơng, núi, biển… cho đến những thành phố, làng mạc, nhà cửa… do bàn tay
con người làm ra, và ngay cả bản thân con người với những hành động, cử chỉ,
ánh mắt, lời nói và hình thể đều chứa đựng trong đó những yếu tố của cái đẹp.
Đặc biệt trong nghệ thuật, chúng ta có thể tìm thấy vơ số cái đẹp trong những
bức tranh, pho tượng, bộ phim hay cuốn sách.
Cái đẹp gần gũi và thân thiết với mỗi con người trong cuộc sống hàng
ngày. Tuy nhiên, cái đẹp là phạm trù phức tạp, từ xưa tới nay con người luôn

gặp phải trở ngại trong việc đưa ra một chân lý khái quát, phổ biến về cái đẹp.
Khơng dễ gì nhận diện được bản chất mang tính khái qt của nó và khó khăn
hơn nữa là cái đẹp khơng hồn tồn mang tính khách quan. Trong việc đánh giá
về cái đẹp có một phần rất quan trọng nếu khơng muốn nói là quyết định, ở phía
chủ quan. Mà nói đến chủ quan là nói đến những tiêu chuẩn đánh giá rất khác
biệt nhau do những thước đo thực tiễn xã hội và cá nhân khơng giống nhau. Đó
là lý do giải thích vì sao nhân loại đã mất hàng ngàn năm đi tìm kiếm một khái
niệm phổ biến về cái đẹp mà vẫn chưa thể minh định được rõ ràng.
Trải qua hàng ngàn năm với các trường phái Mỹ học khác nhau. Dưới ánh
sáng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mỹ học
Mác-Lênin khẳng định rằng Bản chất của cái đẹp là sự thống nhất biện chứng
giữa 2 nhân tố khách quan và chủ quan.
Cái đẹp gắn liền với ý thức chủ quan, với sự đánh giá của con người,
nhưng đó khơng phải là những ý niệm được mang từ bên ngồi vào sự vật mà
nó phải xuất phát từ cơ sở khách quan, từ chính những phẩm chất thẩm mỹ tồn
tại bên trong bản thân sự vật. Cơ sở của những quan niệm chủ quan về cái đẹp
bắt nguồn từ chính cái đẹp khách quan tức là từ những thuộc tính của sự vật có
khả năng gợi lên ở con người một thái độ thẩm mĩ tích cực. Đó là kích thước,
đường nét, màu sắc, âm thanh, nhịp điệu v.v. Được kết hợp với nhau theo một
3


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
trật tự và tỉ lệ hài hoà toàn vẹn và cân đối. Hài hoà là sự kết hợp thống nhất giữa
yếu tố theo những tỉ lệ nhất định hết sức uyển chuyển giữa các bộ phận, các
mảng khối v.v… Sự toàn vẹn biểu hiện sự cân đối, tỷ lệ hoà hợp cả cái bên
ngoài và yếu tố bên trong giữa chất và lượng giữa hình thức và nội dung. Cấu
trúc hài hoà, toàn vẹn và cân đối là những phẩm chất quan trọng tạo nên cái đẹp.
Tuy nhiên, bản chất của cái đẹp không chỉ gắn liền với phẩm chất khách quan
của sự vật; hài hồ, cân đối, mực thước, tồn vẹn mà cịn bao hàm trong đó cả

quan niệm chủ quan của con người. Một cái đẹp là có tính khách quan, hàm
chứa yếu tố hài hoà - toàn vẹn. Song vấn đề là ở chỗ cái gì qui định và thừa nhận
tính hài hoà - toàn vẹn đối với các sự vật và hiện tượng của con người. Tại sao
con người lại cho rằng như thế này là hài hoá, như thế kia là toàn vẹn. Giải
quyết vấn đề này gắn liền với lịch sử hình thành ý thức thẩm mĩ, chuẩn mực
đánh giá cái đẹp.
Đánh giá cái đẹp trong quan hệ khách thể, chủ thể trước hết là một sự
đánh giá phức tạp, nó đạt tới cái chung thơng qua cái riêng. Cái đẹp được đánh
giá mang tính chủ thể và bộc lộ qua cá nhân. Rộng hơn cái đẹp được bộc lộ qua
nhóm người. Theo nguyên tắc này, quan niệm về cái đẹp được qui định bởi tính
dân tộc. Mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng, ngơn ngữ, phong tục tập quán, lối sống
riêng… Những sự vật, hiện tượng, lý tưởng, hành vi, nếp sống, nếp nghĩ… được
xem là đẹp phụ thuộc rất lớn vào bản sắc riêng đó.
Ngồi tính dân tộc, tính giai cấp, cái đẹp cịn mang tính nhân loại. Thể
hiện những qui chuẩn chung cho mọi nhóm người, mọi dân tộc, mọi giai cấp.
Cái đẹp mang tính nhân loại còn được thể hiện khi chủ thể tiếp xúc với khách
thể đã vượt qua mọi đặc tính riêng, có tính bộ phận để cùng qui tụ và vươn tới
những chuẩn mực chung có tính chung của tồn thể con người.
Tính thời đại của cái đẹp liên quan đến tính vĩnh hằng qui chuẩn đẹp,
chúng nằm trong mối liên hệ biện chứng. Dù là thời đại nào cũng có những quy
chuẩn cái đẹp riêng. Song cái qui chuẩn có tính thời đại đó lại cần những yếu tố
của cái chung mà mọi thời đại đều có thể chấp nhận. Thực tế, đó là cái qui chuẩn
có tính vĩnh hằng mà mọi người, mọi thời đại đều chấp nhận. Trước hết chính là
4


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
cái yếu tố hài hồ - toàn vẹn của cái đẹp khách quan qui định. Sau đó được qui
định bởi các tiêu chuẩn lý tưởng mà lồi người chân chính muốn vươn tới - cái
tiêu chuẩn mang tính nhân văn cao cả - sự tiến bộ, sự hồn thiện, hồn mĩ.

Đây chính là ngun nhân lý giải vì sao có những cái đẹp chỉ trong chốc
lát hơm nay đẹp, nhưng ngày mai rất có thể bị coi là xấu của một kiểu tóc, một
mốt quần áo, mốt nhà cửa, thậm chí cả mốt chọn chồng. Tuy nhiên bên cạnh đó
là những tác phẩm kinh điển, trác tuyệt như truyện Kiều của Nguyễn Du, những
vở kịch nổi tiếng của Sechxpia (Ơtenlơ, Macbét…), những tác phẩm văn học
của Victohuygo, những kiệt tác của Moza Bettoven thì sẽ tồn tại mãi mãi trường
cửu với thời gian.
Như vậy, cơ sở để đánh giá một sự vật, hiện tượng là đẹp căn cứ theo hai
hệ tiêu chí:
-Chân - Thiện - Mỹ:
Trong đó:
Chân - Sự đúng đắn, tính chân thực của cuộc sống.
Thiện - Tính nhân bản, nhân văn tốt đẹp.
Mỹ - Sự hồn thiện, hồn mỹ.
Và tính nhân dân - dân tộc - tính nhân loại.
Trong đó:
- Tính nhân dân: cái đẹp phải phục vụ đại đa số nhân dân lao động: VD:
Chèo - Miền Bắc; Tuồng - miền Trung; Cải lương - Miền Nam; nhạc thính
phịng, giao hưởng - Đơ thị, thành phố lớn..
- Tính dân tộc: Cái đẹp mang đậm bản sắc dân tộc - đa nhân loại có thể
phân biệt anh là ai, thuộc dân tộc nào. Cái đẹp mang đậm chân dung diện mạo
dân tộc. VD: Bản sắc dân tộc Việt Nam là tuồng, chèo, ca trù.
- Tính nhân loại: Cái đẹp của từng dân tộc cộng lại - cái đẹp của nhân
loại.
Như vậy: Một sự vật, hiện tượng chưa thể gọi là đẹp khi nó mới chỉ đáp
ứng một mặt nào đó hoặc chỉ là tính đúng đắn, chân thực của cuộc sống hay mới
chỉ đáp ứng mặt tốt đẹp của các yêu cầu nhân sinh như những hành vi đạo đức…
5



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
mà là một sự đánh giá thẩm định tổng hợp có ý nghĩa tồn vẹn: chân - thiện mỹ.
II. CÁC LĨNH VỰC BIỂU HIỆN CÁI ĐẸP
1. Cái đẹp trong tự nhiên
Nói tới cái đẹp trong tự nhiên là nói tới những cái đẹp do tạo hố sinh ra.
Đó là những cái đẹp thuộc về thế giới vơ sinh như sơng, núi, biển… Nó cũng
bao gồm cả những cái đẹp của thế giới hữu sinh: cỏ cây, hoa lá, chim mng…
Trong đó, cái đẹp tự nhiên của hình thể con người là một ân huệ mà tạo hoá đã
ban tặng cho con người.
Đặc trưng thẩm mỹ của cái đẹp trong lĩnh vực này được biểu hiện qua
những thuộc tính vật chất của sự vật, hiện tượng như hình dáng, màu sắc, đường
nét, âm thanh… được cấu tạo một cách cân đối, hài hoà với một mức độ và tỉ lệ
hợp lý, có khả năng tác động trực tiếp đến giác quan của con người và gây nên
những cảm xúc thẩm mĩ.
Cái đẹp trong tự nhiên rời rạc, lẻ tẻ. Nhưng nhờ có thế giới tự nhiên mà
con người mới hình thành cảm xúc và ý niệm về cái đẹp. Đây chính là nguồn
cảm xúc bất tận là đề tài muôn thở cho các nghệ sĩ sáng tạo nên các tác phẩm thi
ca, nhạc, hoạ.
2. Cái đẹp trong xã hội
Được thể hiện qua văn hoá ứng xử - Chính là lối sống, lối suy nghĩ, lối
hoạt động. Là triết lý sống của con người với tự nhiên và xã hội trong một phạm
vi nhỏ gia đình (vi mô) tới phạm vi lớn - xã hội, cơ quan, đồn thể (vĩ mơ). Văn
hố ứng xử trong cuộc sống. Bản chất là chữ tâm và chữ nhẫn.
3. Cái đẹp trong nghệ thuật
Là cái đẹp tồn tại trong các tác phẩm nghệ thuật của 7 loại hình do người
nghệ sĩ sáng tạo ra. Nét đặc trưng của cái đẹp trong nghệ thuật là tính điển hình.
Cái đẹp trong nghệ thuật chứa đựng những nét chủ yếu và đặc sắc của cái đẹp
khách quan ngồi cuộc sống, bao qt được tính thời gian, tính khơng gian… cái
đẹp trong nghệ thuật cũng là cái gắn liền với mọi chiều sâu thẩm mĩ chưa được ý
thức rõ ràng; vốn mang tính khát vọng căng thẳng được yêu cầu giải đáp.

6


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Nhờ tính điển hình mà cái đẹp trong nghệ thuật có thể sống mãi cùng thời
gian, có khả năng đem lại niềm vui, sự thích thú cho muôn người. Trong khi cái
đẹp trong tự nhiên, trong đời sống xã hội không chỉ là cái đẹp nhất thời, sẽ thay
đổi và tàn phai theo năm tháng. Những tác phẩm nghệ thuật bất hủ của nhân loại
như bức tượng nữ thần Venus của Velatxke. David của Michelangelo, bức tranh
Jomde của Leonardo Davinci, Mùa thu vàng của Lêvitan. Những tác phẩm âm
nhạc tuyệt vời của Morazt, Beethoven, Chaikorski… Những tác phẩm văn học
của Shakespeare, V.Huygo, Pushkin, L.tolstoi, Balzac… là những minh chứng
hùng hồn cho lời khẳng định của nghệ sĩ Xêrop… “Thời gian đành phải bất lực
trước cái đẹp chân chính trong nghệ thuật”.
Một đặc điểm khác làm cho cái đẹp trong nghệ thuật không đồng nhất với
cái đẹp trong tự nhiên và cũng khác cái đẹp trong sản phẩm do con người làm ra
- đó là tính biểu cảm của cái đẹp trong nghệ thuật.
Nhờ tính biểu cảm đó, chỉ một đơi câu Kiều của Nguyễn Du, ta cảm nhận
cả một mùa xuân đang bừng dậy:
Cỏ non xanh tận chân trời.
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Ngay cả khi miêu tả cái đẹp của tự nhiên, người nghệ sĩ cũng khong thể
khơng lồng vào đó tâm hồn, tình cảm của mình. Nói cách khác, nghệ sĩ đã thổi
hồn mình vào đối tượng, làm cho cái đẹp khi được mơ tả, tái hiện thì cũng gắn
liền với nó là một thái độ, một cảm xúc tình cảm của người nghệ sĩ.
Cũng viết về đề tài tình yêu, nhưng lời tỏ tình của nhờ thơ Thế Hùng đối
với người yêu trong bài Biển động mang một sắc thái đặc biệt và ấn tượng so với
Xuân Diệu và một số nhà thơ tình trước đó.
Biển động.
Khơng em chiều nay.

Cơn bão say lay thành phố.
Cơn nóng giận làm bao cây đổ.
Có cây ngả ngang đường chắn lối tới nhà em.
Anh đã quen.
7


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Dẫu biết rằng em khơng cịn đó.
Chỉ lá sấu âm thầm rơi trong gió.
Ngóng em về.
Biển mênh mông.
Biển quyến rũ say mê.
Em mang cả gia tài Anh ra biển.
Anh trắng tay.
Biển động.
Bão dông.
Nơi này.
Mặt khác nữa, cái đẹp trong nghệ thuật là sự thống nhất giữa hai mặt nội
dung và hình thức. Nội dung đẹp là nội dung của lý tưởng sống phải được chiếu
sáng một cách sâu sắc và lấp lánh, có thể xâm nhập đến tận cùng của tâm hồn
con người, góp phần định hướng hành động của con người. Cịn hình thức đẹp là
hình thái tổ hợp cấu trúc và vật chất cái bản chất bên trong của nội dung bằng
một ngoại hình có sức cuốn hút mỹ cảm. Do vậy, bất cứ một yếu tố nào của hình
thức cũng đều liên quan đến nội dung, đều nhằm biểu hiện một mặt nội dung
nào đó. Một gam màu trong hội hoạ, một âm thanh trong âm nhạc, một từ ngữ
trong văn học v.v… Đều gắn liền với chức năng biểu hiện một nội dung nhất
định. Vì vậy, khơng thể thay đổi dù chỉ là một yếu tố của hình thức mà lại khơng
làm ảnh hưởng đến nội dung của nó.
Chẳng hạn, câu thơ của Tú Xương trong bài “Thương vợ”.

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nếu thay từ mom bằng từ ven thì giá trị thẩm mĩ của câu thơ cũng như ý
nghĩa biểu đạt của nó đã khơng cịn như cũ. Cũng như vậy với trường hợp ta
thay từ nghé thành từ ngó ở một câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Khách đà lên ngựa người cịn nghé theo.
Có thể nói rằng, khơng ở đâu, lý tưởng - khát vọng, ý chí vươn lên của
con người lại được tập trung cao độ, độc đáo mà đầy sức sống như trong cái đẹp
nghệ thuật. Với tư cách là thành quả sáng tạo có định hướng của người nghệ sĩ
8


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
bao giờ cái đẹp nghệ thuật cũng là tín hiệu thẩm mĩ đặc biệt. Ở đó được tập
trung cao độ đời sống tinh thần của lồi người, nó được sử dụng và phản chiếu
bởi mn vàn màu sắc cuộc sống. Nó mang ước mơ, lý tưởng, ý chí lồi người
tiến bộ. Cho nên nó có sức mạnh to lớn, trong nhận thức cải tạo thế giới, vươn
tới sự hồn thiện thế giới vơ cùng sinh động đó của con người.
III. VỊ TRÍ CỦA CÁI ĐẸP TRONG ĐỜI SỐNG THẨM MỸ
Như trên đã khẳng định: Mỹ học Mác - Lênin là khoa học nghiên cứu sự
vận động của cái đẹp và các hình thức tồn tại khác nhau của cái đẹp. Marx đã
khẳng định rằng trong bất cứ một ngành sản xuất vật chất nào, con người cũng
đều sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Ở đâu có cuộc sống của con người là ở
đó có cái đẹp. Cái đẹp đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc, nâng đỡ con người
trong mọi khó khăn, tiếp thêm sức mạnh để con người vượt qua thử thách. Nhờ
có cái đẹp mà con người khơng mất niềm tin vào vào cuộc sống, vào chân lý,
vào ngày mai. Cái đẹp luôn là khát khao vươn tới của con người. Mặc dù những
quan niệm cụ thể về nó rất khác nhau, thậm chí là đối lập nhau đối với những
trường phái mỹ học khác nhau. Song có một điều chúng ta không thể phủ nhận
là: Bao giờ cái đẹp cũng được coi là tiêu chuẩn quan trọng nhất, phổ biến nhất,
là điểm tựa trung tâm để con người đánh giá đời sống về mặt thẩm mĩ. Mối quan

hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực, xét đến cùng là mối quan hệ được
khởi nguồn từ cái đẹp. Chỉ có điều, cái đẹp được thể hiện ở dạng trực tiếp hay
tiềm ẩn mà thôi.
Với tư cách là chủ thể thẩm mỹ con người ln đi tìm cái đẹp, khám phá
cái đẹp và cao hơn là sáng tạo ra cái đẹp . Bởi vậy, con người cũng đánh giá các
sự vật và hiện tượng xung quanh mình theo tiêu chí Đẹp hoặc không đẹp…
Đánh giá một con người tốt hay xấu, một hành động cao cả hoặc đớn hèn. Người
ta cũng dựa vào cái đẹp và các tiêu chuẩn xã hội của nó. Đặc biệt, đối với một
tác phẩm nghệ thuật, cái đẹp chính là lý do sống cịn của nó. Nhu cầu cái đẹp
của con người là vơ tận, khát khao vươn tới cái đẹp của con người là khơng
cùng. Dù nhu cầu đó là chủ yếu hay thứ yếu, nhưng hầu như không thể thiếu.

9


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Cũng trong quan hệ thẩm mĩ nhưng xét từ góc độ khách thể, các phạm trụ
thẩm mĩ như cái bi, cái hài, cái trác tuyệt đều ẩn chứa trong đó mối quan hệ với
cái đẹp, dù là trực tiếp hay gián tiếp. Cái bi không thể không liên quan đến cái
đẹp bởi cái bi chân chính chỉ gắn liền với sự bất hạnh, mất mát, tiêu vong của
những nhân vật mang trong mình những lý tưởng đẹp đẽ, những khát vọng chân
chính. Bởi vậy, thực chất của cái bi chính là sự mất mát, tiêu vong của cái đẹp,
cái lý tưởng. Quan hệ giữa cái đẹp và cái hài tỏ ra gián tiếp hơn, nhưng từ trong
bản chất của nó, cái hài khơng thể khơng liên quan đến cái đẹp. Cái hài đó chính
là những cái xấu, nhưng lại đội lốt cái đẹp, được che đậy, giấu giếm, ngộ nhận
bằng hình thức của cái đẹp, và khi bị lột tẩy, bị soi chiếu bởi chính cái đẹp thì nó
trở thành cái hài.
So với cái bi và cái hài thì cái trác tuyệt là phạm trù liên quan trực tiếp và
gần gũi nhất với cái đẹp. Cái trác tuyệt đó là cái đẹp ở mức tuyệt đỉnh; là cái đẹp
mang một tầm vóc lớn lao, phi thường là cái đẹp qúa mức bình thường. Như

vậy, ở mức độ này hay mức độ khác thì cái đẹp đều liên quan, chi phối đến các
phạm trù khác, nó được xem là tiêu chuẩn, là điểm tựa để khái qúat nên các
phạm trù khác. Nếu khơng có cái đẹp thì nghĩa là khơng có các phạm trù kia.
Bởi vậy, hồn tồn xác đáng khi nói rằng: “Cái xấu chính là mặt đối lập của cái
đẹp - Cái bi chính là cái đẹp bị thất bại tạm thời. Cái hài là cái xấu giả danh cái
đẹp bị phát hiện đột ngột. Cái trác tuyệt là cái đẹp vượt lên bản thân nó để xác
lập một giá trị mới”.
Như vậy, dù xét ở phương diện nào, khách thể hoặc chủ thể thì cái đẹp
bao giờ cũng đứng ở vị trí trung tâm trong mối quan hệ thẩm mĩ của con người
với hiện thực. Hay với một cách ngắn gọn hơn, cái đẹp là phạm trù cơ bản và
trung tâm của Mỹ học.
IV. LIÊN HỆ BẢN THÂN VỚI TƯ CÁCH LÀ NHÀ BÁO ĐẸP, TRÁC
TUYỆT
Trước hết nhà báo là chủ thể sáng tạo ra các tác phẩm báo chí. Nói theo
ngơn ngữ báo chí thì người làm báo là một chiến sĩ trên mặt trận văn hố- tư
tưởng có nhiệm vụ tạo nên những thơng tin có khả năng thuyết phục, phải trao
10


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
đổi với cơng chúng về những vấn đề kinh tế, văn hoá và đạo đức. Nói cách khác,
nhà báo có nhiệm vụ chăm lo đời sống tinh thần cho nhân dân, góp phần nâng
cao dân trí, phẩm chất con người, truyền bá chân thiện mỹ, xây dựng xã hội văn
minh. Để thực hiện được công việc đó, địi hỏi nhà báo phải có kiến thức sâu
rộng giàu nghị lực, can đảm và giỏi nghiệp vụ.
Tuy nhiên, mỗi tác phẩm báo chí cần được xem như một tác phẩm nghệ
thuật, một cơng trình nghệ thuật do nhà báo sáng tạo ra. Xét trên góc độ tính
thẩm mỹ, ngoài những yêu cầu về phẩm chất nghiệp vụ và đạo đức thì nhà báo
cịn cần đến những tốt chất của một người nghệ sĩ. Có như vậy mới đảm bảo
được tính nghệ thuật của tác phẩm báo chí.

Nếu một hoạ sĩ, nhạc sĩ, nhà thơ cần đến một tài năng, một khả năng thiên
bẩm, thì nhà báo, với đặc thù nghề nghiệp trước khi sáng tạo nên những tác
phẩm báo chí mang tính thẩm mĩ, thì trước hết nhà báo phải là người có quan
điểm thẩm mỹ đúng đắn. Vậy nhà báo khi nào được coi là một nhà báo thẩm
mỹ, nhà báo đẹp.
Như chúng ta đều biết, xuất phát điểm cho chủ thể sáng tạo được coi là có
tính thẩm mỹ chính là tình cảm thẩm mỹ sâu sắc, một thị hiếu thẩm mỹ lành
mạnh, đúng đắn. Cao hơn, chủ thể đó phải có lý tưởng thẩm mỹ. Bởi đó là hình
dung, là ước mơ về những gì hồn thiện nhất, tốt đẹp nhất mà con người cho
rằng cần phải phấn đấu để đạt tới. Ước mơ lý tưởng chính là những hình dung
tốt đẹp về tương lai, là một động lực quan trọng không thể thiếu để thúc đẩy,
nâng đỡ con người không ngừng vươn tới những hiện thực tươi sáng đẹp đẽ hơn.
Xét trên góc độ một chủ thể sáng tạo tác phẩm báo chí, cũng giống như
một hoạ sĩ, nhà thơ, nhạc sĩ phẩm chất đầu tiên cần có cho q trình sáng tạo đó
là lý tưởng thẩm mỹ. Đây chính là kim chỉ nam để nhà báo phát hiện và tôn vinh
cái đẹp, cái tốt, cái chân thật, bản chất, đồng thời chỉ mặt vạch tên cái xấu, cái
ác. Lý tưởng thẩm mỹ cũng chính là động lực thúc đẩy nhà báo có tinh thần
dũng cảm trong đấu tranh chống tham nhũng, chống tiêu cực.
Nhà báo là chủ thể sáng tạo nên các tác phẩm báo chí theo tiêu chí cái
đẹp. Đồng thời cũng là người thưởng thức và tham gia thẩm định các tác phẩm
11


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
nghệ thuật hoặc phát hiện hiện thực khách quan theo tiêu chí cái đẹp cái thẩm
mỹ. Do vậy nhà báo, ngoài kiến thức nghiệp vụ chuyên môn cần được trang bị
một cách kỹ lưỡng kiến thức về triết học và mỹ học. Phải có tư duy hệ thống,
nắm chắc khoa học thẩm mỹ mà đối với từng loại hình nghệ thuật khác nhau,
địi hỏi vốn liếng, hiểu biết khác nhau.
Ở một góc độ khác, một nhà báo được coi là đẹp khi kết hợp được cái đẹp

trong nội dung và hình thức. Nếu hình thức bề ngoài thể hiện ở sự cân đối hài
hoà của vẻ đẹp hình thể, sự lịch lãm, trang nhã của cách lựa chọn trang phục,
đầu tóc… của phong cách giao tiếp, ứng xử có văn hố - mà ở đây BTV Quang
Minh của Đài truyền hình Việt Nam là một ví dụ điển hình. Thì nội dung chính
muốn nói lên trình độ học vấn, phẩm chất nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của
một nhà báo. Một nhà báo đẹp trước hết phải là một nhà báo giỏi có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có lý tưởng thẩm mỹ và lương tâm đạo đức trong sáng.
Trước mọi cám dỗ, thử thách, khơng ít nhà báo đã sa ngã, thể hiện sự sa sút
nghiêm trọng về phẩm chất đạo đức - Trần Mai Hạnh và một số nhà báo trong
vụ án Trương Văn Cam và đồng bọn. Tuy nhiên, nếu bản lĩnh nghề nghiệp vững
kết hợp được với lương tâm đạo đức trong sáng, đó sẽ là điểm tựa chắc chắn
giúp cho nhà báo không ngả nghiêng - chao đảo khi phải đối mặt với cái xấu. Đó
chính là cái Tài, cái Tâm và cái Tầm của nhà báo.

12


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
KẾT LUẬN
Tóm lại, Mỹ học là khoa học nghiên cứu khách thể thẩm mỹ, chủ thể
thẩm mỹ và nghệ thuật. Trong đó, cái đẹp được xem là phạm trù cơ bản và trung
tâm. Xét với tư cách là chủ thể thẩm mỹ thì cái đẹp ln là đối tượng để con
người tìm hiểu, khám phá và sáng tạo. Nhìn từ góc độ thẩm mỹ, tất cả các phạm
trù khác cái bi, cái hài, các trác tuyệt đều ẩn chứa trong đó mối liên hệ với cái
đẹp dù là gián tiếp hay trực tiếp. Và đối với nghệ thuật thì cái đẹp chính là lý do
sống cịn của nó.
Một sự vật hiện tượng được xem là đẹp khi nó mang trong mình những
phẩm chất hài hồ, cân đối, mực thước, toàn vẹn và đáp ứng được hai hệ tiêu
chí:


Chân - Thiện - Mỹ.
Tính nhân dân, dân tộc, tính nhân loại.
Sự vật, hiện tượng đó chưa thể gọi là đẹp nếu nó mới chỉ đáp ứng được

một mặt nào đó hoặc chỉ là tính đúng đắn, chân thực hay mới chỉ đáp ứng mặt
tốt đẹp của các yêu cầu nhân sinh như những hành vi đạo đức cái đẹp. Đó chính
là sự đánh giá thẩm định tổng hợp có ý nghĩa tồn vẹn chân - thiện mỹ.
Cũng trên cơ sở tiêu chí đó, một nhà báo được coi là đẹp - là trác tuyệt khi
kết hợp được cái đẹp nội dung và hình thức. Nếu cái đẹp hình thức chỉ bộc lộ ở
vẻ đẹp hình thức, cách lựa chọn trang phục, đầu tóc … Thì cái đẹp nội dung có
những địi hỏi nghiêm khắc hơn. Đó là nghiệp vụ chun mơn, trình độ văn hố,
phẩm chất nghề nghiệp, lương tâm đạo đức và lý tưởng sống, lý tưởng thẩm mỹ.
Có như vậy, nhà báo mới xứng đáng với vị trí tiên phong trong lĩnh vực văn hố
tư tưởng. Phát hiện, bảo vệ, tôn vinh cái đẹp, cái tốt; phê phán, đấu tranh chống
lại cái xấu, cái tiêu cực về một cuộc sống cơng bằng, bình dẳng, vì sự văn minh
và tiến bộ của xã hội./.

13


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
MỤC LỤC

I. BẢN CHẤT CÁI ĐẸP ...................................................................... 3
II. CÁC LĨNH VỰC BIỂU HIỆN CÁI ĐẸP ......................................... 6
1. Cái đẹp trong tự nhiên ................................................................. 6
2. Cái đẹp trong xã hội ..................................................................... 6
3. Cái đẹp trong nghệ thuật .............................................................. 6
III. VỊ TRÍ CỦA CÁI ĐẸP TRONG ĐỜI SỐNG THẨM MỸ .............. 9
IV. LIÊN HỆ BẢN THÂN VỚI TƯ CÁCH LÀ NHÀ BÁO ĐẸP,

TRÁC TUYỆT ................................................................................... 10
KẾT LUẬN ........................................................................................ 13

14



×