Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với quá trình phát triển và cải cách kinh tế, cũng như các nền
kinh tế chuyển đổi khác, Việt Nam hình thành hệ thống các doanh nghiệp và
ngân hàng thương mại. Đây là hai trụ cột của nền kinh tế và giữa chúng có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Đối với doanh nghiệp, trong điều kiện một thị
trường tài chính còn chưa phát triển thì tín dụng ngân hàng vẫn là kênh huy
động vốn truyền thống và chủ yếu. Về phần mình, các NHTM đang đứng
trước một thị trường rộng lớn là các doanh nghiệp với khoảng hơn 300000
doanh nghiệp thuộc đủ các thành phần kinh tế. Có thể thấy rằng, sau hơn 20
năm đổi mới, NHTM và doanh nghiệp đã xây dựng được mối quan hệ tương
hỗ, dìu dắt nhau cùng vượt qua thời kỳ khó khăn để rồi lớn mạnh và phát triển
như ngày hôm nay. Tuy nhiên, đứng trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và
yêu cầu của sự phát triển, quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với NHTM
không chỉ có thuận lợi và tốt đẹp, mà nó còn chứa đựng rất nhiều vấn đề cần
giải quyết nếu muốn quan hệ này tồn tại và phát triển trong thời gian tới. Vấn
đề tác giả đang muốn đề cập ở đây chính là chất lượng của các khoản tín
dụng, cụ thể là các khoản cho vay doanh nghiệp của NHTM. Thực tế cho
thấy, nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng theo báo cáo thường niên của
NHNN năm 2007 là 2.85%, con số tuyệt đối là hơn 12000 tỷ đồng. Tuy
nhiên, chỉ cần tính toán sơ bộ với 5000 tỷ đồng nợ đọng của các doanh nghiệp
mía đường, hàng nghìn tỷ đồng thua lỗ của các công ty cà phê, và khoảng hơn
10000 tỷ nợ đọng tại các công trình xây dựng cơ bản của các doanh nghiệp
xây lắp. Mới sơ sơ như vậy nhưng đã vượt xa con số báo cáo của NHNN, cho
thấy đây đang là vấn đề cần được NHTM và cả các doanh nghiệp giải quyết,
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
làm sao để hoạt động cho vay doanh nghiệp của NHTM thật sự mang lại hiệu
quả, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển nhưng cũng an toàn cho các NHTM.
Chính vì tính cấp thiết của vấn đề như vậy, nên trong quá trình thực tập
tại ngân hàng Đông Á - Chi nhánh Hà Nội, tác giả chọn đề tài: “Nâng cao
chất lượng cho vay doanh nghiệp của ngân hàng TMCP Đông Á - Chi
nhánh Hà Nội” làm nội dung tìm hiểu và nghiên cứu. Với mong muốn được
học tập và đóng góp nhất định vào việc khắc phục những hạn chế, góp phần
nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp tại đơn vị.
Để có thể nhìn rõ hơn vấn đề này, trong nội dung nghiên cứu tác giả
chia chuyên đề thành ba phần chính:
Chương I: Các vấn đề cơ bản về chất lượng cho vay doanh nghiệp của
NHTM
Chương II: Thực trạng chất lượng cho vay doanh nghiệp của ngân hàng
Đông Á - Chi nhánh Hà Nội
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp của
ngân hàng Đông Á - Chi nhánh Hà Nội
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY
DOANH NGHIỆP CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm ngân hàng thương mại
Như chúng ta đã biết, lịch sử hình thành và phát triển của NHTM gắn
liền với lịch sử hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Nghề ngân
hàng bắt đầu với hoạt động cho vay nặng lãi của các nhà buôn. Đầu tiên, các
nhà buôn là những người giàu có, họ dùng vàng và các tài sản khác của mình
để cho vay. Hoạt động này làm cho các nhà buôn giàu lên nhanh chóng. Sau
này, những người dân trong vùng thấy rằng việc cất giữ tài sản của họ trong
nhà không an toàn bằng việc mang đến nhờ các nhà buôn giữ hộ. Từ thực tế
đó, các nhà buôn nhận thấy thường xuyên có người gửi tiền vào và người lấy
tiền ra, song tất cả người gửi tiền không lấy tiền ra cùng một lúc. Điều này
hình thành nên một khoản tiền nhàn rỗi trong két của các nhà buôn, do tính
chất vô danh của tiền, nhà buôn có thể sử dụng khoản tiền này để cho vay.
Hoạt động này đã biến các nhà buôn từ kẻ cho vay nặng lãi thành nhà buôn
tiền - Ngân hàng. Về sau, do có sự cạnh tranh giữa các nhà buôn tiền nên để
thu hút được tiền từ trong dân cư, các nhà buôn đã trả lãi cho việc gửi tiền, từ
đó hình thành nên hai dịch vụ truyền thống và lâu đời nhất của ngành ngân
hàng đó là, huy động tiền gửi và cho vay.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động ngân hàng
đã không dừng lại ở hoạt động huy động tiền gửi và cho vay, mà ngân hàng
đã trở thành một trung gian tài chính quan trọng nhất, chuyên cung cấp một
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng, góp phần trở lại vào sự vận động và
phát triển của cả nền kinh tế.
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Khái niệm NHTM
Từ thực tế đó, các nhà kinh tế học trên thế giới đã đưa ra nhiều khái
niệm khác nhau về NHTM. Căn cứ vào chức năng, các dịch vụ mà chúng
cung cấp hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Có thể kể ra dưới
đây một số khái niệm tiêu biểu trong số đó:
Theo David W.Pearce (Anh) nêu trong cuốn Từ điển kinh tế học hiện
đại của Học viện công nghệ Massachusette thì NHTM “ là một tổ chức trung
gian tài chính mà hoạt động kinh doanh của nó chủ yếu là nhận tiền gửi không
kỳ hạn hoặc có kỳ hạn và sử dụng số tiền này để cho vay ngắn hạn, dài hạn,
chủ yếu dưới dạng chiết khấu kỳ phiếu, hoặc mua bán các loại tài sản tài
chính khác. Chức năng quan trọng của NHTM là duy trì hệ thống chuyển tiền
bằng cách nhận tiền gửi vào các tài khoản vãng lai và chuyển vốn bằng séc
hoặc chuyển khoản”.
Theo Giáo sư Peter S. Rose (Mỹ) thì “ngân hàng là loại hình tổ chức tài
chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là
tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Như vậy, đa số các nhà kinh tế học trên thế giới đều cho rằng NHTM là
một tổ chức trung gian tài chính, một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, hoạt
động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng.
Tại Việt Nam, do lịch sử phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh đã tàn
phá nền kinh tế đất nước, hệ thống ngân hàng ra đời muộn và hoạt động còn
non yếu. Ngày 6/5/1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký 2 Sắc lệnh, Sắc lệnh số
15/SL về thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và Sắc lệnh số 17/SL quy
định ngân hàng có 2 chức năng là ngân hàng và ngân khố (kho bạc). Đó là
thời kỳ Việt Nam thực hiện ngân hàng một cấp, tức là ngân hàng thực hiện
luôn hai chức năng phát hành, ổn định tiền tệ và kinh doanh tiền tệ. Đến năm
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1988, theo tinh thần của Nghị Định số 53/1988/NĐ-HĐBT đã thực hiện tách
hệ thống kho bạc ra khỏi hệ thống ngân hàng và thành lập hệ thống ngân hàng
chuyên doanh. Đây được xem như là một bước đổi mới trong hệ thống ngân
hàng vì bước đầu đã tách bạch được chức năng quản lý và kinh doanh của
NHNN. Tuy nhiên, tổ chức hệ thống ngân hàng kiểu này vẫn còn hạn chế vì
còn mang tính độc quyền nhà nước, chưa cho phép nhiều thành phần kinh tế
khác tham gia hệ thống ngân hàng. Mãi đến 23/5/1990, sau khi Pháp lệnh về
NHNN và Pháp lệnh về các TCTD ra đời thì hệ thống ngân hàng mới thực sự
trở thành hai cấp, hoạt động ngân hàng mới phù hợp với nền kinh tế thị
trường.
Hiện nay, hoạt động của các NHTM tại Việt Nam được điều chỉnh trực
tiếp bởi Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và Luật sửa đổi bổ sung một số
điều Luật các tổ chức tín dụng năm 2004. Trên cơ sở đó, Chuyên đề xin nêu
ra một khái niệm tổng quan nhất về NHTM, khái niệm này thống nhất với
quan điểm của nhiều nhà kinh tế học trên thế giới và phù hợp với điều kiện cụ
thể của Việt Nam: “NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn
bộ hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt
động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Từ khái niệm trên chúng ta có thể rút ra những đặc điểm cơ bản về
NHTM như sau:
NHTM là một trung gian tài chính. Như chúng ta đã biết, một trong
những chức năng quan trọng của NHTM là trung gian tài chính. Trước đây
quan hệ vay mượn xảy ra khi một người có lượng vốn nhàn rỗi gặp người
đang có nhu cầu sử dụng vốn. Người ta gọi đó là tài chính trực tiếp. Tuy
nhiên, quan hệ vay mượn kiểu này nảy sinh rất nhiều vấn đề bất lợi về không
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
gian, thời gian, quy mô và khả năng đánh giá thông tin. Điều đó đã làm cho
chi phí giao dịch bị đẩy lên cao. Ngân hàng ra đời với chức năng quan trọng
là trung gian tài chính. Từ đây, những người đi vay và cho vay chỉ việc tìm
đến các ngân hàng để được đáp ứng nhu cầu cụ thể của mình. Điều này mang
lại sự thuận tiện cho cả hai bên là người đi vay và người cho vay. Mặt khác,
ngân hàng với trình độ chuyên môn cao, thẩm định các nguồn thông tin chính
xác đã làm giảm rủi ro, đồng thời với nguyên tắc giữ bí mật thông tin khách
hàng nên các ngân hàng đã được dân chúng tín nhiệm.
Hoạt động của các NHTM mang tính rủi ro. Các NHTM hoạt động kinh
doanh tiền tệ - một lĩnh vực đầy nhạy cảm và rủi ro. Đóng vai trò là trung
gian tài chính, NHTM vay tiền của người này để cho người khác vay lại. Do
đó, rủi ro xảy ra khi khách hàng vay tiền của ngân hàng mất khả năng trả nợ,
trong khi đó nghĩa vụ phải thanh toán cho người gửi tiền bất cứ lúc nào khiến
các ngân hàng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Ngoài ra còn rất
nhiều loại rủi ro liên quan đến hoạt động của các ngân hàng, chính vì thế, để
giảm thiểu rủi ro và tăng tính an toàn trong hoạt động ngân hàng, hiện nay các
NHTM phải thực hiện rất nhiều các biện pháp phòng ngừa rủi ro như phải
thực hiện dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi của khách hàng, trích lập các quỹ
dự phòng, thực hiện các biện pháp khác theo quy định của pháp luật.
NHTM là một doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu tối đa hoá giá trị vốn
chủ sở hữu, đảm bảo khả năng thanh toán và áp đặt được các giá trị của tổ
chức lên công chúng. Cũng như các doanh nghiệp khác, hoạt động của NHTM
hướng tới mục tiêu tối đa hoá vốn chủ sở hữu, thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận.
Các NHTM luôn tìm cách tăng doanh thu, đồng thời tiết giảm tối đa chi phí
nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Lợi nhuận của ngân hàng sẽ được bổ sung
một phần vào vốn chủ sở hữu. Bên cạnh đó, như chúng ta đã biết, các NHTM
là một trung gian tài chính. Do đó, việc đảm bảo khả năng thanh toán có ỹ
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nghĩa rất to lớn, đảm bảo hoạt động của ngân hàng được bền vững. Thông qua
việc thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc và các tỷ lệ bảo đảm an toàn khác,
NHTM sẽ hạn chế thấp nhất những rủi ro có thể gặp phải. Đồng thời, một
trong những mục tiêu dài hạn của các NHTM là trở thành một thương hiệu
mạnh trên thị trường, sản phẩm của ngân hàng được khách hàng biết đến rộng
rãi và tin dùng. Để làm được điều đó, ngay từ bây giờ các NHTM cần có tầm
nhìn xa và chiến lược phát triển phù hợp.
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động quan trọng, nền tảng của NHTM. Muốn
thực hiện hoạt động kinh doanh thì bên cạnh vốn tự có, các NHTM phải huy
động thêm vốn từ các nguồn khác nhằm đáp ứng các nhu cầu đa dạng của
khách hàng. Các NHTM có thể huy động vốn thông qua các nguồn như sau:
Nhận tiền gửi: Các NHTM được nhận tiền gửi của các tổ chức, cá
nhân và tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, có
kỳ hạn và các loại tiền gửi khác (Luật các TCTD). Tiền gửi luôn là nguồn tài
nguyên quan trọng và chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng nguồn tiền của các
NHTM. Đặc biệt trong điều kiện ở Việt Nam đang có một lượng tiền nhàn rỗi
rất lớn trong dân. Do đó, huy động vốn thông qua nhận tiền gửi luôn được các
ngân hàng xác định là kênh huy động chính, chủ yếu. Các ngân hàng hiện nay
không ngừng cạnh tranh nhau về lãi suất huy động, nhằm thu hút được nhiều
vốn. Bên cạnh đó là các chiêu thức marketing nhằm giới thiệu, quảng bá hình
ảnh, sản phẩm và các hình thức khuyến mại đi kèm rất hấp dẫn.
Phát hành giấy tờ có giá: Các NHTM được phép phát hành các loại
giấy tờ có giá như trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá
khác để huy động vốn khi được NHNN cho phép. Đây là kênh huy động vốn
không thường xuyên của các NHTM. Do gặp các vấn đề về chi phí cao, lượng
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vốn huy động lớn và đòi hỏi khả năng đánh giá, thẩm định chính xác các yếu
tố liên quan đến đợt phát hành như lãi suất, kỳ hạn,… mà các ngân hàng ít sử
dụng hình thức này. Chỉ khi nào xuất hiện nhu cầu vốn lớn như tài trợ cho các
dự án, mở rộng mạng lưới hoạt động,… các NHTM mới thực hiện huy động
vốn thông qua phát hành các giấy tờ có giá.
Vay các tổ chức tín dụng khác: Theo quy định của Luật các TCTD
thì, các TCTD được vay vốn của nhau và của TCTD nước ngoài. Trong quá
trình hoạt động các NHTM thường xuyên có mối quan hệ vay mượn lẫn nhau
để đáp ứng những nhu cầu thanh toán cấp thiết. Đặc điểm của các khoản vay
này là có kỳ hạn ngắn, thường tính bằng ngày. Người ta gọi đó là hoạt động
cho vay qua đêm giữa các NHTM. Trong điều kiện NHNN đang thực hiện
nhiều chính sách thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát như hiện nay, các
NHTM có thời điểm khan hiếm tiền VNĐ để thanh toán, vì thế hoạt động vay
mượn lẫn nhau của các NHTM diễn ra hết sức sôi động, đẩy lãi suất cho vay
qua đêm lên ở mức cao. Tuy vậy nhiều ngân hàng vẫn không có tiền để cho
vay. Trong những trường hợp cấp bách cần có tiền để thanh toán, trong khi
các hình thức huy động nêu trên không đáp ứng kịp, NHTM còn một kênh để
huy động vốn - vay của NHNN.
Vay NHNN: Theo quy định của Luật các TCTD, tổ chức tín dụng là
ngân hàng được vay vốn ngắn hạn của NHNN dưới hình thức tái cấp vốn.
NHNN đóng vai trò là người cho vay cuối cùng sẽ tài trợ cho những nhu cầu
thanh toán ngay của các NHTM, đồng thời thông qua hoạt động cho các
NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn, NHNN thực hiện chức năng điều hành
chính sách tiền tệ của mình - đó là thắt chặt hay nới lỏng tiền tệ thông qua
tăng hay giảm lãi suất tái cấp vốn.
Huy động từ các nguồn khác: Bao gồm nguồn uỷ thác đầu tư, nguồn
tiền thanh toán,…Các nguồn uỷ thác đầu tư có thể từ Ngân sách Nhà nước,
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế,… uỷ thác cho ngân hàng sử
dụng vốn hoặc rải ngân vốn tới người thụ hưởng. Ngoài ra ngân hàng có thể
sử dụng nguồn tiền thanh toán như tiền ký quỹ mở L/C hoặc xin bảo lãnh.
Nguồn huy động này phụ thuộc vào hoạt động ngoại bảng của NHTM và chất
lượng các dịch vụ thanh toán mà ngân hàng cung cấp.
1.1.2.2 Hoạt động cho vay và đầu tư
Các NHTM hoạt động chủ yếu dựa trên nguồn vốn huy động, hoạt
động cho vay và đầu tư là hoạt động cơ bản và thường xuyên của NHTM để
bảo toàn và tăng trưởng nguồn vốn.
Cho vay: Theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN về quy chế cho vay
của TCTD đối với khách hàng quy định: “Cho vay là một hình thức cấp tín
dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử
dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc
hoàn trả cả gốc và lãi”.
Như chúng ta đã biết, cho vay là một hoạt động truyền thống và lâu đời
của các ngân hàng, hiện nay cho vay là khoản mục chiếm tỷ lệ lớn nhất trong
tổng tài sản của ngân hàng và là khoản mục đem lại thu nhập nhiều nhất cho
ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động cho vay luôn ẩn chứa nhiều rủi ro, rủi ro về
khả năng vỡ nợ của các khoản vay. Chính vì thế, mỗi ngân hàng đều xây dựng
cho mình một quy trình cho vay rất chặt chẽ, chỉ thực hiện cho vay theo đúng
nguyên tắc và quy trình đã đề ra, nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro có thể gặp
phải.
Hoạt động đầu tư: Đầu tư là hoạt động của các NHTM nhằm đa dạng
hoá tài sản và phân tán rủi ro theo nguyên tắc không nên bỏ trứng vào cùng
một giỏ. Các NHTM có thể đầu tư vào thị trường tài chính hoặc tham gia hùn
vốn kinh doanh. Hiện nay các NHTM đang nắm giữ một lượng lớn các loại
chứng khoán, vì đây là tài sản không những mang lại tỷ suất sinh lời cao mà
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
còn rất thanh khoản. Ngoài ra, các NHTM còn đầu tư góp vốn vào những dự
án lớn hoặc thành lập các công ty. Với khả năng phân tích tài chính và thẩm
định dự án tốt, những dự án mà các NHTM góp vốn thường mang lại hiệu quả
tài chính cao. Tuy nhiên, để ngăn ngừa rủi ro cho các NHTM, Chính phủ một
số quốc gia đã quy định việc các NHTM tham gia đầu tư trên thị trường
chứng khoán phải có công ty tài chính hạch toán độc lập, đồng thời giới hạn
một tỷ lệ trên vốn điều lệ của công ty được phép đầu tư vào thị trường chứng
khoán.
1.1.2.3 Hoạt động trung gian khác
Với vai trò là một trung gian tài chính, NHTM cung cấp một danh mục
các dịch vụ trung gian như: Ngân quỹ, thanh toán, chuyển tiền, tư vấn tài
chính, bảo lãnh, bảo quản vật có giá, mua bán ngoại tệ, ngân hàng điện tử,
thanh toán không dùng tiền mặt,… và thu phí từ những dịch vụ đó. Với sự hỗ
trợ đắc lực của công nghệ thông tin, các NHTM đang ngày càng mở rộng hơn
nữa việc cung cấp các dịch vụ đến tận tay khách hàng một cách nhanh nhất,
tiện lợi nhất mà tốn ít chi phí nhất.
1.2 Chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM
1.2.1 Hoạt động cho vay doanh nghiệp của NHTM
1.2.1.1 Khái niệm, đặc điểm và vốn của doanh nghiệp
Khái niệm, đặc điểm của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một thành phần quan trọng không thể thiếu trong nền
kinh tế thị trường. Xét theo quan điểm phát triển thì “doanh nghiệp là một
cộng động người sản xuất ra của cải vật chất. Nó sinh ra, phát triển, có những
thất bại, có những thành công, có lúc vượt qua những thời kỳ nguy kịch và
ngược lại, có lúc phải ngừng sản xuất, đôi khi tiêu vong do gặp phải những
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vấn đề không vượt qua được (Kinh tế doanh nghiệp của D. Larua. A Caillat -
NXB Khoa Học Xã Hội 1992).
Trên phương diện tổ chức quản lý, có thể hiểu doanh nghiệp là một tập
hợp các bộ phận được tổ chức, có tác động qua lại và theo đuổi một mục tiêu.
Các bộ phận tập hợp trong doanh nghiệp bao gồm bốn phân hệ: sản xuất,
thương mại, tổ chức, nhân sự.
Xét theo quan điểm chức năng thì “doanh nghiệp là một đơn vị tổ chức
sản xuất mà tại đó người ta kết hợp các yếu tố sản xuất khác nhau do các nhân
viên của công ty thực hiện nhằm bán ra trên thị trường những sản phẩm hàng
hoá hay dịch vụ để nhận được khoản tiền chênh lệch giữa giá bán sản phẩm
với giá thành sản phẩm ấy”. (M. Francois Peroux)
Dưới góc độ pháp lý, theo điều 4 - Luật doanh nghiệp 2005 thì “doanh
nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định,
được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh. Hoạt động kinh doanh là việc thực hiện một,
một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”.
Như vậy, nhìn nhận doanh nghiệp ở các góc độ khác nhau chúng ta lại
có những khái niệm khác nhau. Tuy nhiên, giữa các khái niệm đó đều có
những điểm chung nhất, nếu tổng hợp chúng lại với tầm nhìn bao quát trên
phương diện tổ chức quản lý là xuyên suốt từ khâu hình thành tổ chức, phát
triển đến các mối quan hệ với môi trường cho thấy đã là một doanh nghiệp thì
nhất thiết phải được cấu thành bởi các yếu tố: tổ chức, sản xuất, trao đổi, phân
phối.
Từ cách nhìn đó, chuyên đề xin đưa ra một khái niệm chung nhất, bao
quát nhất về doanh nghiệp như sau: Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế có tư cách
pháp nhân, quy tụ các phương tiện tài chính, vật chất và con người nhằm thực
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ, trên
cơ sở tối đa hoá lợi ích người tiêu dùng thông qua tối đa hoá lợi ích chủ sở
hữu, đồng thời kết hợp một cách hợp lý các mục tiêu xã hội.
Như vậy, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp như
sau:
Thứ nhất: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh với
mục tiêu tối đa hoá giá trị của doanh nghiệp. Nghĩa là, hoạt động của doanh
nghiệp thu được lợi nhuận cao, đồng thời phải có tầm nhìn và chiến lược lâu
dài nhằm xây dựng hình ảnh, thương hiệu cho doanh nghiệp - một thứ tài sản
vô hình.
Thứ hai: Doanh nghiệp có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
đinh. Doanh nghiệp tham gia vào các mối quan hệ kinh tế với tư cách là một
chủ thể độc lập về pháp luật.
Thứ ba: Hoạt động của các doanh nghiệp là quá trình đi tìm câu trả lời
cho ba câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai?
Nghĩa là, doanh nghiệp phải xác định sản xuất hàng hoá hay dịch vụ nào, số
lượng cung ứng bao nhiêu, thời điểm nào? Đồng thời, phương pháp, hình thức
tổ chức sản xuất, trình độ công nghệ ứng dụng ra sao? Và cuối cùng doanh
nghiệp phải xác định sản xuất ra hàng hoá phục vụ đối tượng nào, quy mô và
khả năng tiêu thụ bao nhiêu để vừa đạt được lợi ích của doanh nghiệp, vừa
đáp ứng được nhu cầu xã hội.
Vốn của doanh nghiệp
Như chúng ta đã biết, vốn là điều kiện không thể thiếu để một doanh
nghiệp được thành lập và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn kết
hợp với sức lao động và các yếu tố khác làm đầu vào cho quá trình sản xuất.
Đối với doanh nghiệp, sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong quá trình
sản xuất vật chất riêng biệt mà trong toàn bộ quá trình, từ khi bắt đầu đến khi
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kết thúc chu kỳ sản xuất. Một cách tổng quát nhất, “vốn là các nguồn tiền tài
trợ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”.
Việc phân loại vốn tuỳ thuộc vào đặc điểm và loại hình cụ thể của từng
doanh nghiệp. Có thể căn cứ vào nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại vốn:
- Căn cứ vào nguồn hình thành thì vốn của doanh nghiệp bao gồm: Vốn
chủ sở hữu và vốn nợ. Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc sở hữu của chủ doanh
nghiệp, bao gồm các bộ phận : Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, vốn
do phát hành cổ phiếu mới. Vốn nợ là các khoản vốn chiếm dụng và nợ vay
như: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, trái phiếu,…
- Căn cứ vào phương thức chu chuyển thì vốn của doanh nghiệp gồm:
Vốn cố định và vốn lưu động. Vốn cố định là phần vốn có giá trị lớn, có thời
gian sử dụng lâu dài và tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Vốn cố định dùng
để đầu tư vào các tài sản cố định của doanh nghiệp như nhà xưởng, máy móc,
…. Vốn lưu động là phần vốn có giá trị nhỏ, thời gian sử dụng ngắn và chỉ
tham gia vào một chu kỳ sản xuất. Vốn lưu động dùng để mua sắm các tài sản
lưu động như nguyên vật liệu, trả lương cho công nhân viên, …
- Căn cứ vào thời gian sử dụng thì vốn của doanh nghiệp bao gồm: Vốn
ngắn hạn và vốn dài hạn. Vốn ngắn hạn là khoản vốn có thời hạn dưới một
năm, chủ yếu là các khoản tín dụng thương mại có thời hạn trong một chu kỳ
sản xuất kinh doanh. Vốn dài hạn là khoản vốn có thời hạn từ một năm trở
lên, chủ yếu là các khoản tín dụng ngân hàng dùng cho mua sắm tài sản cố
định, trang thiết bị hay mở rộng sản xuất kinh doanh.
Như vậy, vốn của doanh nghiệp có rất nhiều loại, hình thành dưới nhiều
hình thức khác nhau và tại các thời điểm khác nhau. Tuỳ vào từng loại hình
doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể mà doanh nghiệp có các hình thức huy
động vốn khác nhau.
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Các hình thức huy động vốn của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, vốn được xem như một loại
hàng hoá, một loại hàng hoá đặc biệt tách rời được quyền sở hữu và quyền sử
dụng. Nghĩa là, người sở hữu vốn có thể bán quyền sử dụng vốn cho người
khác trong một khoảng thời gian nhất định, giá của quyền sử dụng vốn đó
chính là lãi suất của khoản vốn. Chính nhờ vào đặc điểm này mà vốn có thể
lưu chuyển rộng rãi trong nền kinh tế. Hiện nay các doanh nghiệp có thể huy
động vốn bằng nhiều hình thức, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của thị
trường tài chính, tuỳ thuộc vào đặc điểm và loại hình của từng doanh nghiệp.
- Các hình thức huy động vốn chủ sở hữu: chủ yếu là từ vốn góp ban
đầu, lợi nhuận không chia và phát hành cổ phiếu mới. Trong đó:
+ Vốn góp ban đầu: là khoản vốn mà chủ doanh nghiệp bỏ ra ban đầu
để doanh nghiệp có thể hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuỳ vào từng loại
hình doanh nghiệp mà nguồn hình thành vốn góp ban đầu khác nhau. Nếu là
doanh nghiệp nhà nước thì vốn do nhà nước bỏ ra. Nếu là doanh nghiệp tư
nhân thì vốn do chủ doanh nghiệp tư nhân bỏ ra. Nếu là công ty cổ phần thì
vốn do các cổ đông góp lại,…
+ Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia: đây là nguồn vốn tích luỹ từ lợi
nhuận dùng để tái đầu tư. Tăng vốn từ lợi nhuận không chia được gọi là hình
thức tự tài trợ của doanh nghiệp. Hàng năm cùng với sự tăng lên của quy mô
doanh nghiệp, quy mô vốn chủ sở hữu cũng phải tăng lên. Vốn từ lợi nhuận
không chia làm tăng quy mô vốn ban đầu của doanh nghiệp, nếu doanh
nghiệp làm việc có hiệu quả thì càng có điều kiện tăng trưởng nguồn vốn.
Ngoài ra, tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia là hình thức tạo nguồn tài chính
quan trọng và khá hấp dẫn đối với doanh nghiệp, do chi phí thấp và giảm
được sự phụ thuộc vào bên ngoài.
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu mới: đây là hình thức huy động vốn
chủ yếu của các công ty cổ phần. Các công ty này có thể tăng vốn chủ sở hữu
bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới, cổ phiếu là các chứng chỉ, hoặc các
bút toán ghi sổ do công ty cổ phần phát hành, nhằm xác nhận quyền sở hữu
của người nắm giữ cổ phiếu đối với một phần vốn của công ty. Khi phát hành
thêm cổ phiếu mới, quy mô vốn điều lệ của công ty sẽ tăng lên, do đó vốn chủ
sở hữu tăng lên.
- Các hình thức huy động vốn nợ: chủ yếu là từ việc phát hành trái
phiếu, tín dụng thương mại, tín dụng thuê mua và tín dụng ngân hàng.
+ Phát hành trái phiếu: trái phiếu là một giấy vay nợ trung và dài hạn,
quy định trách nhiệm phải hoàn trả cả gốc và lãi của tổ chức phát hành đối với
người nắm giữ trái phiếu khi đáo hạn. Đối với các doanh nghiệp, phát hành
trái phiếu giúp doanh nghiệp có thể huy động được một lượng vốn lớn trong
một khoảng thời gian ngắn. Tuy nhiên hình thức huy động này tốn nhiều chi
phí và yêu cầu doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ trước khi phát hành về các yếu
tố như loại trái phiếu, lãi suất, kỳ hạn, tổng mức huy động,… Hiện nay trái
phiếu doanh nghiệp có nhiều loại như trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu
có lãi suất thay đổi, trái phiếu có thể thu hồi, trái phiếu có thể chuyển đổi,…
Mỗi loại trái phiếu trên đều có những ưu, nhược điểm riêng, tuỳ vào tình hình
cụ thể của doanh nghiệp phát hành.
Trái phiếu có lãi suất cố định là loại trái phiếu được sử dụng nhiều
nhất. Lãi suất của trái phiếu được ghi ngay trên bề mặt trái phiếu và không
thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Việc phát hành trái phiếu có lãi suất cố
định giúp các doanh nghiệp chủ động có phương án trả lãi và gốc khi đáo hạn.
Trái phiếu có lãi suất thay đổi là loại trái phiếu có lãi suất phụ thuộc
vào một số nguồn lãi suất quan trọng như lãi suất cơ bản, lãi suất LIBOR,
SIBOR,… Tuy nhiên việc quản lý trái phiếu loại này đỏi hỏi tốn nhiều thời
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
gian và gây khó khăn cho việc lập kế hoạch tài chính vì không biết chắc chắn
về chi phí lãi vay của trái phiếu.
Trái phiếu có thể thu hồi là là loại trái phiếu mà doanh nghiệp có thể
mua lại vào một thời gian nào đó. Khi phát hành trái phiếu loại này, doanh
nghiệp cần xác định rõ về thời hạn và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại trái
phiếu.
Trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi
thành một số lượng nhất định các cổ phiếu thường theo một tỷ lệ chuyển đổi
và thời gian chuyển đổi xác định trước. Trái phiếu chuyển đổi là một công cụ
tài chính vừa có khả năng sinh lời của một cổ phiếu vừa có sự an toàn của một
trái phiếu. Trái phiếu chuyển đổi cho phép đáp ứng được nhiều mục tiêu đầu
tư khác nhau, người mua trái phiếu chuyển đổi có thể thu được lãi vốn trong
trường hợp tổ chức phát hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả và giá cổ
phiếu phổ thông tăng cao. Ngược lại nếu giá cổ phiếu của tổ chức phát hành
sụt giảm, người nắm giữ trái phiếu có thể không chuyển đổi mà chỉ đầu tư
đơn thuần như một trái phiếu để nhận lãi coupon hàng năm và thu hồi vốn gốc
khi trái phiếu đáo hạn.
Tóm lại, phát hành trái phiếu là một hình thức huy động vốn trung dài
hạn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc lựa chọn trái phiếu để phát hành cho
thích hợp có một ý nghĩa quan trọng, vì có liên quan đến chi phí trả lãi, cách
thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Do đó ảnh
hưởng tới hiệu quả của đợt phát hành.
+ Tín dụng thương mại: tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa
các doanh nghiệp, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu, mua bán trả
chậm hay trả góp hàng hoá. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết
sức to lớn đối với doanh nghiệp. Tài trợ bằng nguồn tín dụng thương mại là
phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh, tạo khả năng
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Công cụ của tín
dụng thương mại là các thương phiếu. Thương phiếu bao gồm Hối phiếu và
Lệnh phiếu.
Hối phiếu là giấy ghi nợ do người bán ký phát trao cho người mua,
trong đó yêu cầu người mua phải trả một số tiền nhất định khi đến hạn cho
người bán hoặc bất kỳ người thụ hưởng nào khác.
Lệnh phiếu là giấy nhận nợ do người mua ký phát trao cho người bán,
trong đó người mua cam kết trả một số tiền nhất định khi đến hạn thanh toán
cho người thụ hưởng lệnh phiếu.
Các thương phiếu có thể chuyển nhượng từ người thụ hưởng này sang
người thụ hưởng khác bằng cách ký hậu vào thương phiếu. Do đó, thương
phiếu có tính lưu thông và trở thành một công cụ lưu thông tín dụng thay thế
tiền mặt. Không những thế, thương phiếu còn là loại tài sản bảo đảm chắc
chắn khi ngân hàng nhận chiết khấu hay nhận cho vay cầm cố. Do có tính
thanh khoản cao nên các ngân hàng có thể mang thương phiếu đi tái chiết
khấu hoặc tái cầm cố tại NHNN để khôi phục nguồn vốn.
+ Tín dụng thuê mua: là một hình thức tài trợ tín dụng thông qua các
loại tài sản, máy móc thiết bị. Quan hệ tín dụng thuê mua được thực hiện trên
cơ sở thoả thuận giữa người đi thuê và người cho thuê. Theo đó, người cho
thuê sẽ chuyển giao tài sản cho người đi thuê trong một khoảng thời gian nhất
định. Đổi lại người đi thuê phải trả một số tiền gọi là tiền thuê tài sản. Có
nhiều hình thức thuê mua khác nhau như thuê mua hợp tác, thuê mua trả góp,
thuê mua giáp lưng,… Trong đó, thuê mua hợp tác là hình thức cho thuê mà
một bên cho thuê không đủ vốn hoặc sợ rủi ro vì tập trung vốn quá lớn vào
một khách hàng, nên một số bên cho thuê sẽ cùng tài trợ cho một khách hàng.
Thuê mua trả góp là hình thức mua trả góp tài sản trong một khoảng thời gian
nhất định. Theo hình thức này, thuận lợi cho các doanh nghiệp đi thuê là họ
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
được sử dụng tài sản ngay mà không phải trả những khoản tiền lớn. Thuê mua
giáp lưng là hình thức tài trợ mà trong đó được sự đồng ý của người cho thuê,
người thuê thứ nhất cho thuê lại tài sản với người thuê thứ hai. Hình thức này
thường xảy ra trong trường hợp người thuê thứ nhất không còn nhu cầu sử
dụng đối với tài sản thuê, nhưng hợp đồng thuê tài sản không thể huỷ ngang
nên họ tìm người thuê thứ hai để chuyển giao hợp đồng. Kể từ ngày chuyển
giao hợp đồng, mọi quyền lợi và nghĩa vụ về tài sản được chuyển giao cho
người thứ hai, tuy nhiên người thuê thứ nhất vẫn chịu trách nhiệm liên đới.
+ Tín dụng ngân hàng: là hình thức tài trợ mà ngân hàng thoả thuận để
khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Có thể nói, tín dụng ngân hàng là một trong những hình thức huy động vốn nợ
quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Ngày nay, hoạt động của
doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do ngân hàng thương mại
cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn tín dụng.
Phân loại theo thời gian, tín dụng ngân hàng bao gồm: tín dụng ngắn
hạn và tín dụng trung, dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn: nhằm tài trợ cho nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của
doanh nghiệp như mua nguyên vật liệu, trả lương cho công nhân viên và các
nhu cầu thanh toán khác. Để được vay vốn, các doanh nghiệp cần phải làm
đơn và trình bày với ngân hàng kế hoạch sử dụng tiền vay. Ngân hàng xác
định hiệu quả sử dụng vốn vay, rủi ro, khả năng và nguồn trả nợ cùng các
điều khoản có liên quan. Nếu người vay không lập kế hoạch từ trước thì ngân
hàng sẽ tính toán nhu cầu vay cho từng phương án để tính số tiền cần cho vay.
Nếu không phân tích được phương án vay thì ngân hàng sẽ quyết định số tiền
cho vay dựa trên tài sản đảm bảo.
Tín dụng trung và dài hạn: nhằm tài trợ cho các nhu cầu mua sắm trang
thiết bị, xây dựng nhà xưởng, cải tiến trang bị kỹ thuật...
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Khi có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định... để thực hiện dự
án, khách hàng có thể xin vay ngân hàng. Một trong những yêu cầu của ngân
hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư
cũng như quá trình thực hiện dự án sản xuất kinh doanh. Phân tích và thẩm
định dự án là cơ sở để ngân hàng quyết định phần vốn cho vay và xác định
khả năng hoàn trả của doanh nghiệp.
Tín dụng ngân hàng là hình thức huy động vốn có nhiều ưu điểm đối
với các doanh nghiệp. Điển hình đó là ngân hàng đóng vai trò là một trung
gian tài chính, do đó tập trung được các nguồn vốn nhàn rỗi để rồi cho vay ra
với lãi suất thấp hơn, chất lượng nguồn vốn hiệu quả hơn, đáp ứng được nhu
cầu vay của các doanh nghiệp. Đồng thời đi kèm với các khoản tín dụng của
ngân hàng còn có một hệ thống các dịch vụ tài chính khác đáp ứng tối đa nhu
cầu của khách hàng. Tuy nhiên, tín dụng ngân hàng cũng có những hạn chế
nhất định. Các doanh nghiệp muốn được sử dụng vốn của ngân hàng thì cần
phải đáp ứng các yêu cầu tương đối khắt khe về tài sản bảo đảm, đồng thời
phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn
vay. Nói chung, sự kiểm soát này không gây khó khăn cho doanh nghiệp, tuy
nhiên, trong một số trường hợp điều đó cũng làm cho doanh nghiệp có cảm
giác không thoải mái.
1.2.1.2 Hoạt động cho vay doanh nghiệp của NHTM
Quan niệm, đặc điểm về cho vay doanh nghiệp
Cho vay doanh nghiệp là hình thức cấp tín dụng của NHTM cho khách
hàng là các doanh nghiệp, nhằm mục đích đáp ứng cho các nhu cầu khác nhau
như mở rộng sản xuất kinh doanh, tài trợ cho các dự án, thanh toán tiền mua
nguyên vật liệu, chi trả lương,… Cho vay doanh nghiệp của các NHTM có
các đặc điểm sau:
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Khách hàng vay: là pháp nhân Việt Nam và pháp nhân nước ngoài.
Các pháp nhân Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty
TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty hợp
danh và các tổ chức khác có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Các
pháp nhân nước ngoài phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi
dân sự theo quy định của pháp luật nước mà pháp nhân đó mang quốc tịch.
+ Mục đích vay: các NHTM cho doanh nghiệp vay nhằm đáp ứng các
nhu cầu về vốn cho mở rộng sản xuất kinh doanh, nhu cầu thanh toán ngắn
hạn …
+ Quy mô khoản vay: các doanh nghiệp thường vay những khoản vốn
lớn và mang tính kế hoạch. Do những đặc điểm như vậy mà đối với khách
hàng doanh nghiệp các NHTM thường có những bộ phận riêng để đáp ứng
nhu cầu khách hàng. Điều này không những tăng cường tính chuyên nghiệp
của sản phẩm dịch vụ ngân hàng mà còn hạn chế rủi ro cho các khoản vay, do
quy trình thực hiện các khoản vay này rất chặt chẽ.
+ Số lượng khách hàng doanh nghiệp là ít so với những đối tượng
khách hàng khác. Do nhu cầu vốn của các doanh nghiệp lớn và thường xuyên,
chính vì thế các ngân hàng rất thận trọng trong xét duyệt và cho vay đối với
đối tượng khách hàng này. Thay vào đó, các NHTM thường thiết lập một mối
quan hệ lâu dài và tin cậy với từng doanh nghiệp.
+ Thời hạn vay: đối với khách hàng doanh nghiệp thời hạn vay được
căn cứ vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn và khả năng trả
nợ của khách. Hiện nay các NHTM có thể cho doanh nghiệp vay ngắn hạn
(không quá 12 tháng), trung hạn (từ 12 đế 60 tháng) hoặc dài hạn (trên 60
tháng).
+ Nguồn trả nợ: nguồn trả nợ cho các khoản vay đáp ứng nhu cầu kinh
doanh của doanh nghiệp là lợi nhuận thu về từ phương án kinh doanh đó. Nó
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khác với cho các cá nhân vay tiêu dùng, đối với cá nhân vay tiêu dùng thì
nguồn trả nợ là thu nhập của người đi vay. Chính vì thế khi quyết định cho
các doanh nghiệp vay, bên cạnh việc thẩm định các yếu tố khác, NHTM còn
phải thẩm định rất kỹ phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó,
nếu phương án khả thi thì mới quyết định cho vay.
+ Lãi suất: các NHTM có các chính sách lãi suất linh động cho từng
khách hàng tại từng thời điểm cụ thể và phù hợp với các quy định của NHNN.
Các loại lãi suất đó có thể là lãi suất cố định, lãi suất thả nổi, lãi suất gộp, lãi
suất cho vay hợp vốn hoặc lãi suât ưu đãi. Đối với các doanh nghiệp, lãi suất
ngân hàng là một loại chi phí và nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của
doanh nghiệp. Chính vì thế, khi có nhu cầu về vốn, các doanh nghiệp rất quan
tâm đến lãi suất của ngân hàng, một lãi suất có lợi sẽ hấp dẫn các doanh
nghiệp hơn.
+ Tính chu kỳ: đối với các doanh nghiệp, nhu cầu về vốn thường phát
sinh theo chu kỳ kinh doanh vì thế mang tính chu kỳ. Do đó, quan hệ giữa
ngân hàng và doanh nghiệp càng trở nên mật thiết hơn, tin tưởng nhau hơn
nhằm duy trì được mối quan hệ cùng có lợi này.
Phương thức cho vay
Trên cơ sở nhu cầu sử dụng đối với từng khoản vay của khách hàng và
khả năng kiểm tra, giám sát của ngân hàng, ngân hàng có thể thoả thuận với
khách hàng về việc lựa chọn các phương thức cho vay sau đây:
+ Cho vay từng lần: là phương thức cho vay mà mỗi lần vay vốn khách
hàng và ngân hàng thực hiện những thủ tục cần thiết và ký kết hợp đồng tín
dụng.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: là phương thức cho vay mà khách
hàng và ngân hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng
thời gian nhất định. Việc xác định hạn mức tín dụng cần căn cứ vào phương
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
án sản xuất, kinh doanh của khách hàng. Xác định thời hạn cho vay phù hợp
với chu kỳ kinh doanh doanh của khách hàng, tại một số ngân hàng thời hạn
cho vay theo hạn mức tín dụng không vượt quá 12 tháng.
+ Cho vay theo dự án đầu tư: là việc ngân hàng cho khách hàng vay
vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
các dự án đầu tư phảt triển sản xuất. Theo phương thức này, ngân hàng và
khách hàng ký một hợp đồng tín dụng và thoả thuận mức vốn đầu tư cho cả
thời gian đầu tư dự án, phân các kỳ trả nợ. Ngân hàng chỉ giải ngân theo tiến
độ của dự án.
+ Cho vay hợp vốn: là phương thức cho vay mà một nhóm các ngân
hàng sẽ cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của
khách hàng, trong đó, có một ngân hàng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với
các ngân hàng khác.
+ Cho vay trả góp: là phương thức cho vay mà ngân hàng và khách
hàng thoả thuận số lãi phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo
nhiều kỳ hạn trong thời hạn tín dụng.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: là phương thức cho vay mà
ngân hàng đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức
tín dụng nhất định. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực và
mức phí của hạn mức tín dụng dự phòng.
+ Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: là
phương thức cho vay mà ngân hàng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng
vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá,
dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại
lý của ngân hàng.
+ Cho vay theo hạn mức thấu chi: là phương thức cho vay mà ngân
hàng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trên tài khoản thanh toán của khách hàng. Khách hàng chỉ được phép chi vượt
trong hạn mức cho phép đã thoả thuận với ngân hàng.
+ Các phương thức cho vay khác
Quy trình cho vay doanh nghiệp
Quy trình cho vay doanh nghiệp là một bản hướng dẫn về trình tự tổ
chức thực hiện các nội dung cơ bản của kỹ thuật nghiệp vụ cho vay trong
ngân hàng. Quy trình cho vay bắt đầu từ khi món vay phát sinh cho đến khi
ngân hàng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi. Quy trình cho vay được soạn ra nhằm
mục đích giúp cho quá trình vay được diễn ra một cách thống nhất, khoa học,
hạn chế rủi ro đồng thời nâng cao chất lượng cho vay, góp phần đáp ứng tốt
nhu cầu của khách hàng. Quy trình cho vay mang tính chất định hướng cơ bản
và tổng quát nhất, từ đó cán bộ tín dụng cần căn cứ vào tình hình cụ thể của
từng món vay mà vận dụng một cách linh hoạt, góp phần mang lại hiệu quả
cho ngân hàng.
Quy trình cho vay doanh nghiệp tuân theo các bước sau:
Bước 1: Tiếp nhận nhu cầu khách hàng: cán bộ tín dụng gặp gỡ và tìm
hiểu nhu cầu khách hàng. Đối với những khách hàng có quan hệ tín dụng lần
đầu với ngân hàng, thì cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng cung cấp đầy
đủ các thông tin cần thiết để thực hiện vay vốn ngân hàng. Đối với những
khách hàng đã có quan hệ tín dụng lâu dài, uy tín với ngân hàng thì cán bột
tín dụng hướng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ để thực hiện vay vốn.
Bước 2: Thẩm định các điều kiện vay vốn: cán bộ tín dụng cần thẩm
định các nội dung liên quan đến khách hàng vay như: thẩm định hồ sơ pháp lý
của khách hàng, thẩm định mục đích vay vốn, thẩm định phương án sản xuất,
kinh doanh, thẩm định tình hìn tài chính của khách hàng xem có đảm bảo khả
năng trả nợ cho ngân hàng không, thẩm định tài sản bảo đảm cho khoản vay
và các thông tin khác có liên quan.
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bước 3: Thương lượng để ký kết hợp đồng tín dụng: cán bộ tín dụng và
khách hàng tiến hành thương lượng các điều khoản liên quan đến hợp đồng
tín dụng như: lãi suất khoản vay, kỳ hạn, phương thức vay vốn, tài sản bảo
đảm và các vấn đề khác.
Bước 4: Phê duyệt hợp đồng tín dụng: sau khi hoàn tất hồ sơ vay vốn
của khách hàng, cán bộ tín dụng trình bộ hồ sơ cho cán bộ quản trị rủi ro và
cho lãnh đạo ngân hàng để phê duyệt.
Bước 5: Giải ngân: Sau khi thủ tục hồ sơ đã hoàn tất thì sẽ tiến hành
chuyển tiền.
Bước 6: Kiểm tra giám sát khoản vay: sau khi cho vay, cán bộ tín dụng
phải có trách nhiệm kiểm tra giám sát khoản vay nhằm hướng dẫn, đôn đốc
người vay sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả số tiền vay. Đồng thời
phát hiện kịp thời các biểu hiện làm trái với hợp đồng tín dụng của khách
hàng, từ đó có biện pháp kịp thời để xử lý. Việc kiểm tra giám sát các khoản
vay có thể được tiến hành định kỳ hoặc đột xuất và phải có biên bản kiểm tra.
Bước 7: Thu nợ gốc và lãi, đồng thời xử lý những phát sinh: cán bộ tín
dụng có trách nhiệm thu lãi và gốc đúng hạn theo quy đinh trong hợp đồng tín
dụng. Trường hợp có những phát sinh đối với các khoản vay như trả nợ trước
hạn, thu nợ trước hạn, gia hạn nợ, chuyển nợ quá hạn, khoanh nợ,… cần được
xử lý theo đúng với quy định của pháp luật và của ngân hàng.
Bước 8: Thanh lý hợp đồng tín dụng: sau khi khách hàng trả hết nợ gốc,
lãi và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ khác liên quan thì hợp đồng tín dụng
đương nhiên hết hiệu lực. Khi đó ngân hàng tiến hành giải chấp tài sản bảo
đảm, xuất kho các giấy tờ tài sản thế chấp, cầm cố, lập biên bản bàn giao lại
tài sản cho khách hàng.
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2.2 Chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM
1.2.2.1 Khái niệm
Đối với các NHTM, cái được biểu hiện ra bên ngoài vừa cụ thể, vừa
trừu tượng của hoạt động cho vay nói chung và cho vay doanh nghiệp nói
riêng là chất lượng cho vay. Chất lượng cho vay tốt thể hiện ngân hàng sử
dụng vốn hiệu quả, uy tín ngân hàng được nâng cao.
Chất lượng cho vay được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng
phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của
ngân hàng.
Như vậy khi xem xét chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM cần
tính đến ba yếu tố là NHTM, các doanh nghiệp, và nền kinh tế.
Thứ nhất: Chất lượng hoạt động cho vay xét từ giác độ NHTM
Chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM thể hiện ở phạm vi, mức
độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, năng lực theo hướng tích
cực của bản thân NHTM, và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường,
đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động cho
vay doanh nghiệp phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận tăng cao, dư nợ ngày càng
tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng quy định và hợp lý và đảm bảo
được cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn hạn,trung và dài hạn trong nền kinh tế.
Thứ hai: Chất lượng cho vay xét từ giác độ là các doanh nghiệp
Thông qua quan hệ lâu dài với các doanh nghiệp làm cho ngân hàng
hiểu rõ nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay,
chất lượng là yêu cầu hàng đầu, vì vậy chất lượng cho vay doanh nghiệp là sự
đáp ứng nhu cầu hợp lý về vốn của doanh nghiệp với lãi suất hợp lý, thủ tục
đơn giản không phiền hà, thu hút được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo đúng
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B