Tải bản đầy đủ (.docx) (139 trang)

Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh các trường THPT huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (625.47 KB, 139 trang )

B GIO DC V O TO
HC VIN QUN Lí GIO DC
_____________

_____________
NGUYN TH PHNG THY
QUảN Lý HOạT ĐộNG GIáO DụC ĐạO ĐứC
CHO HọC SINH CáC TRƯờNG TRUNG HọC PHổ THÔNG
HUYệN THANH THủY, TỉNH PHú THọ
Chuyờn ngnh: Qun lý giỏo dc
Mó s: 60.14.01.01
LUN VN THC S QUN Lí GIO DC
Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS. Lấ TH TUYT HNH
H NI - 2014
2
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cám ơn Học viện Quản lý Giáo dục, Trung tâm Đào tạo
sau đại học - Bồi dưỡng nhà giáo và CBQL cùng toàn thể các cán bộ, các thầy cô
giáo đã tham gia giảng dạy và tư vấn, hỗ trợ, giúp đỡ em trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Đặc biệt, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới PGS.TS Lê
Thị Tuyết Hạnh - người Thầy hướng dẫn khoa học đã trực tiếp giúp đỡ, tận tình chỉ
bảo, khích lệ, động viên và luôn cho em những lời khuyên hữu ích để em thực hiện
đề tài và hoàn thành luận văn này.
Em cũng xin chân thành cám ơn Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo và học sinh
tại 3 trường THPT huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ cùng các cơ quan đoàn thể xã
hội và phụ huynh học sinh của các trường đã nhiệt tình cộng tác, cung cấp thông tin,
số liệu, đóng góp ý kiến và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình nghiên
cứu, khảo sát thực tế làm luận văn.
Em xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã tin tưởng, cổ vũ, tạo động lực giúp em
vượt qua khó khăn để kiên trì theo đuổi việc học.


Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do khả năng và kinh nghiệm nghiên cứu khoa
học của em còn hạn chế, nên chắc rằng luận văn không tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy,
em rất mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô giáo, bạn bè đồng
nghiệp và những người quan tâm đến vấn đề được trình bày trong luận văn.
Xin trân trọng cám ơn!
Tác giả
Nguyễn Thị Phương Thúy
2
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Cán bộ CB
Cán bộ quản lý CBQL
Giáo dục công dân GDCD
Giáo dục đạo đức GDĐĐ
Giáo dục ngoài giờ lên lớp GDNGLL
Giáo viên GV
Giáo viên bộ môn GVBM
Giáo viên chủ nhiệm GVCN
Học sinh HS
Hội đồng nhân dân HĐND
Nhân viên NV
Phụ huynh học sinh PHHS
Thanh niên Trung Nghĩa
Trung học phổ thông THPT
Ủy ban nhân dân UBND
Xã hội chủ nghĩa XHCN
3
4
MỤC LỤC
4

5
DANH MỤC CÁC BẢNG
5
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ cổ chí kim, từ đông sang tây, dù ở chế độ nào, thời đại nào, con người
cũng luôn là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Vai trò của con người trong xã hội là hết
sức to lớn. Đảng ta đã xác định, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
phát triển xã hội, là nguồn lực của mọi sự phát triển. Trong đó, giáo dục là nhân tố
quan trọng nhất tạo ra nguồn lực cho sự phát triển đó.
Nhận thức được vai trò to lớn của giáo dục, Đảng và Nhà nước ta đã coi giáo
dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu. Về chiến lược con người trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghị quyết hội nghị lần thức hai Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII khẳng định: “Xây dựng những con người và thế hệ thiết tha
gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có
ý chí kiên cường để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước…, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa ‘hồng” vừa
“chuyên”.
Điều 2 Luật Giáo dục (sửa đổi, bổ sung năm 2009) cũng chỉ rõ: “Mục tiêu
giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức,
sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…”
Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Bồi dưỡng các giá trị văn hóa
trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí
tuệ, đạo đức và bản lĩnh con người Việt Nam.”
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng
và nhân dân ta đòi hỏi thế hệ thanh niên, học sinh, sinh viên trở thành lực lượng tiên
phong có cả tài năng và đạo đức, trong đó đạo đức là yếu tố cơ bản nhất. Bác Hồ đã

từng nói rằng: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả đức lẫn tài. Đức là đạo đức
cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng”. “Người có tài mà không có đức thì là
người vô dụng.”
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển nền kinh tế thị
trường, xu thế toàn cầu hóa và sự bùng nổ của công nghệ thông tin, những mặt trái
6
7
của nó đang tác động rất lớn đến thế hệ trẻ. Trong đó, học sinh THPT đang trong độ
tuổi vị thành niên, tâm sinh lý có sự biến đổi mạnh mẽ, rất nhạy cảm, rất thích cái
mới nhưng chưa đủ tri thức và bản lĩnh nên dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động tiêu
cực của đời sống xã hội.
Thanh Thủy là một huyện miền núi của tỉnh Phú Thọ. Tuy nhiên, học sinh
THPT trong huyện cũng không thoát khỏi vòng xoáy tiêu cực đó. Những công ty, xí
nghiệp mọc lên, những khu du lịch được mở ra, điện thoại và internet về với mọi
nhà kéo theo nhiều tệ nạn xã hội, ảnh hưởng không nhỏ đến đạo đức của các em.
Điều này gây ra rất nhiều khó khăn cho hoạt động giáo dục đạo đức. Trước tình
hình này, công tác quản lý hoạt động giáo dục đạo đức đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất
cập. Những biện pháp quản lý của các trường chưa thực sự mang lại hiệu quả như
mong muốn. Vì thế, việc phải tìm ra những biện pháp quản lý phù hợp với tình hình
mới trở nên vô cùng cấp thiết. Với mong muốn góp một phần công sức nhỏ bé của
mình vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trong huyện, tác giả đã chọn đề
tài “Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh các trường THPT huyện
Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ” làm luận văn tốt nghiệp chương trình Thạc sỹ quản lý
Giáo dục tại Học viện quản lý Giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh
các trường THPT huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của địa phương.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sơ lí luận về quản lư hoạt động GDĐĐ học sinh THPT.

- Đánh giá thực trạng quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh của các trường
THPT huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh của Hiệu
trưởng các trường THPT huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lí hoạt động GDĐĐ cho học sinh các
trường THPT huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.
7
8
- Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh của Hiệu
trưởng các trường THPT huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về nội dung: Tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt
động giáo dục đạo đức cho học sinh của Hiệu trưởng các trường THPT huyện
Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.
- Giới hạn về không gian: 03 trường THPT trên địa bàn huyện Thanh Thủy,
tỉnh Phú Thọ.
- Giới hạn về thời gian: 5 năm, từ năm học 2008 – 2009 đến năm học 2012 - 2013.
- Giới hạn về đối tượng khảo sát:
+ CB, GV: 100 (Ban Giám hiệu: 8, Tổ trưởng chuyên môn: 12, GVCN: 50,
GVBM: 22, CB đoàn: 8)
+ Học sinh: 300
6. Giả thuyết khoa học
Công tác quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh các trường THPT tên địa
bàn huyện Thanh Thủy còn nhiều hạn chế bất cập, chất lượng GDĐĐ chưa đáp ứng
được yêu cầu. Nếu nghiên cứu đề xuất được các biện pháp quản lý hoạt động
GDĐĐ phù hợp với đối tượng và tình hình thực tế của địa phương sẽ góp phần nâng
cao chất lượng GDĐĐ cho học sinh.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Các phương pháp nghiên cứu lí luận: Phân tích, tổng hợp, so sánh, thống

kê, phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu có liên quan đến giáo dục đạo
đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức nhằm xác định cơ sở lý luận của đề tài.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:\
+ Phương pháp quan sát: quan sát các cử chỉ, hành vi, thái độ của học sinh
khi tổ chức hoặc tham gia các hoạt động giáo dục đạo đức.
+ Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: tìm hiểu thực trạng GDĐĐ và quản lý
hoạt động GDĐĐ cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn huyện Thanh Thủy.
Tác giả sử dụng hệ thống các câu hỏi đóng và mở để hỏi các đối tượng đa dạng như:
cán bộ quản lý (Ban Giám hiệu, tổ trưởng chuyên môn), cán bộ đoàn, học sinh (cán
bộ lớp và chi đoàn, các thành viên của lớp).
8
9
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: tổng kết những kinh nghiệm rút ra từ
những thành công và chưa thành công trong công tác quản lý hoạt động GDĐĐ cho
học sinh của các trường THPT huyện Thanh Thủy.
+ Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn một số cán bộ quản lý, giáo viên chủ
nhiệm, học sinh, đại diện phụ huynh học sinh và chính quyền địa phương nhằm thu
thập thêm thông tin về thực trạng giáo dục đạo đức, quản lý giáo dục đạo đức cho
học sinh, nguyên nhân và các biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả của công
tác quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
- Phương pháp hỗ trợ
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lí các số liệu từ điều tra thực
trạng vấn đề nghiên cứu và khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các biện pháp
đề xuất.
8. Đóng góp của luận văn
- Về lý luận: Luận văn góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về
GDĐĐ và quản lý hoạt động GDĐĐ cho HS THPT.
- Về thực tiễn: Luận văn đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ có
tính khả thi, hiệu quả, góp phần giúp cho các nhà quản lý của các trường THPT
huyện Thanh Thủy nâng cao chất lượng GDĐĐ cho HS.

9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về quản lư hoạt động giáo dục đạo đức cho học
sinh THPT
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh các
trường THPT huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh các
trường THPT huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
9
10
1.1 Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện từ buổi bình minh của lịch sử
xã hội loài người. Những tư tưởng đạo đức, giá trị đạo đức, đạo đức học đã hình thành
hơn 26 thế kỷ trước đây trong triết học phương Đông: Trung Quốc, Ấn Độ… và triết
học phương Tây: Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại… Nó được hoàn thiện và phát triển trên
cơ sở các chế độ kinh tế-xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao, mà hiện nay chúng ta
đang phấn đấu để đạt tới một nền đạo đức văn minh và tiến bộ hơn.
Ở phương Tây, thời Hy lạp cổ đại, nhà triết học Socrate(469 – 399 TCN) cho
rằng; cái gốc của đạo đức là tính thiện, bản thân con người vốn thiện. Nếu tính thiện
ấy được lan tỏa thì con người sẽ hạnh phúc. Muốn xác định được chuẩn mực đạo
đức, theo ông phải nhận thức bằng lý tính với phương pháp nhận thức khoa học.
Ở phương Đông cổ đại, Khổng Tử (551 – 479 TCN) là nhà hiền triết nổi
tiếng của Trung Quốc đã xây dựng học thuyết “Nhân – Lễ - Chính danh”, trong đó
Nhân (lòng thương người) là yếu tố hạt nhân, là đặc điểm cơ bản nhất của con
người. Đứng trên lập trường coi trọng đạo đức, ông có câu nói nổi tiếng truyền lại

đến ngày nay: “Tiên học lễ, hậu học văn”.
Các tôn giáo lớn trên thế giới: Phật giáo, Ki tô giáo, Islam giáo … đều đặt ra
vấn đề đạo đức trong giáo lý và giáo luật như một giải pháp tất yếu để giải thoát con
người khỏi khổ đau và đạt đến bến bờ hạnh phúc.
Thế kỷ XVII, Komenxky – nhà giáo dục nổi tiếng Tiệp Khắc đã có nhiều
đóng góp cho hoạt động GDĐĐ qua tác phẩm “Khoa sư phạm vĩ đại. Komenxky đã
chú trọng đến môi trường bên trong và bên ngoài để GDĐĐ HS.
Thế kỷ XX, một số nhà giáo dục nổi tiếng của Xô Viết cũng nghiên cứu về
GDĐĐ HS như: A.S Macarenco, V.A Xukhomlinxky…Nghiên cứu của họ đã đặt nền
tảng cho việc GDĐĐ mới trong giai đoạn xây dựng CNXH ở Liên Xô trước đây.
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở nước ta, hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặc biệt quan tâm đến
đạo đức và GDĐĐ cho CB, HS. Người cho rằng đạo đức cách mạng là gốc, là nền
10
11
tảng của người cách mạng. Bác còn căn dặn Đảng ta phải chăm lo GDĐĐ cách
mạng cho đoàn viên, thanh niên, HS thành những người thừa kế xây dựng CNXH
vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư
tưởng của Người, trong đó có tư tưởng đạo đức. Người cũng chính là một tấm
gương sáng ngời về đạo đức. Từ tư tưởng đến thực tiễn Người luôn chăm lo đến
giáo dục đạo đức. Với mỗi người Bác ví “đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát
triển con người” [15, tr 29]: “Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có
nước thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo” [17, t9, tr 23].
Người đã xác định nhân tố con người là động lực của sự phát triển: “Muốn xây dựng
CNXH, trước hết phải có con người XHCN” [17, t10, tr 310]. Chủ tịch Hồ Chí Minh
còn rất chú ý đến con đường, phương pháp xây dựng đạo đức cách mạng: “Đạo đức
cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng
ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong”. [15, tr 288]

Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, phát triển và hội nhập toàn cầu, thực
hiện CNH - HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề GDĐĐ.
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ V BCHTW khoá VIII (07/1998) Đảng ta đã xác
định chiến lược xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới. Đến
Nghị quyết Hội nghị lần thứ X BCH TW khoá IX (07/2004) Đảng ta tiếp tục xác định
nhiệm vụ cụ thể của thời kỳ mới đó là: “Đẩy mạnh giáo dục xã hội chủ nghĩa, bồi
dưỡng lòng yêu nước, tạo sự chuyển biến rõ rệt về bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối
sống, năng lực trí tuệ con nguời Việt Nam, đủ sức thực hiện thành công sự nghiệp
CNH- HĐH đất nước [7, tr 60]. Đồng thời Hội nghị còn nhấn mạnh hai trong ba
nhiệm vụ trọng tâm đó là: “Tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng,
đạo đức, lối sống và đời sống văn hoá lành mạnh trong xã hội…” và “Nâng cao chất
lượng, hiệu quả nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam theo năm đức tính được xác
định trong Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII)”.[7, tr 65, 67]
11
12
Đặc biệt là gần đây nhất, Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã phát động
cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Bộ Giáo
dục và Đào tạo cũng đã kịp thời phát động cuộc vận động: “Nói không với tiêu cực
trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”. Hai cuộc vận động lớn này đã và
đang có những tác động sâu sắc đến đời sống văn hóa, tinh thần của toàn xã hội,
đến nền GD nước nhà, đặc biệt là công tác GDĐĐ cho HS.
Trong những năm qua, nhiều giáo trình đạo đức được biên soạn khá công
phu. Tiêu biểu như giáo trình Đạo đức học của Trần Hậu Kiêm (NXB Chính trị
Quốc gia, 1997), Phạm Khắc Chương – Hà Nhật Thăng (NXB Giáo dục, 2001);
Giáo trình Đạo đức học do GS.TS Nguyễn Ngọc Long chủ biên (NXB Chính trị
Quốc gia, 2000); Giáo trình đạo đức học Mác-Lenin (PGS.TS Vũ Trọng Dung chủ
biên, NXB Chính trị Quốc gia, 2005),…
Vấn đề GDĐĐ cũng được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu: Đặc trưng và
phương pháp GDĐĐ (Hoàng An, 1982); GDĐĐ trong nhà trường (Hà Thế Ngữ -
Đặn Vũ Hoạt, 1988); Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong

điều kiện kinh tế thị trường (Thái Duy Tuyên, 1994); Các nhiệm vụ GDĐĐ
(Nguyễn Sinh Huy, 1995); Giáo dục giá trị truyền thống cho HS, sinh viên (Phạm
Minh Hạc, 1997); Một số vấn đề GDĐĐ và GDĐĐ ở trường THPT (Phạm Khắc
Chương, 1997); Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức nhân văn (Hà Nhật Thăng, 1998);
Về phát triển toàn diện con người thời kỳ CNH, HĐH (Phạm Minh Hạc, 2001); Một
số vấn đề về đạo đức, lối sống, chuẩn giá trị xã hội (Huỳnh Khải Vinh, 2001); Một
số nguyên tắc giáo dục nhân cách có hiệu quả trong nhà trường phổ thông (Nguyễn
Thị Kim Dung, 2005)…
Nhìn chung các công trình nghiên cứu của các tác giả trên đã đưa ra những
vấn đề lý luận, hướng nghiên cứu và những định hướng rất cơ bản, quan trọng cho
công tác GDĐĐ công dân và GDĐĐ cho HS.
Đặc biệt vấn đề GDĐĐ cho HS cũng đã được một số nhà giáo dục chọn làm
đề tài luận văn thạc sĩ như: GDĐĐ GDĐĐ GDĐĐ
Đề tài: “Những biện pháp quản lý GDĐĐ của Hiệu trưởng cho HS trường
THPT Mỹ Văn huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ” của Nguyễn Thị Thanh Hằng, 2005.
12
13
Đề tài: “ Biện pháp quản lý GDĐĐ cho HS của Hiệu trưởng trường THPT
Ba Vì – Hà Tây” của Hoàng Châu Tấn, 2005
Đề tài: “Biện pháp quản lý GDĐĐ cho HS ở trường THPT chuyên Thái Bình
trong giai đoạn hiện nay” của Trần Gia Khánh, 2011.
Các đề tài trên của các thạc sỹ thường đi sâu vào việc nghiên cứu thực trạng
và tìm ra giải pháp cho công tác GDĐĐ và nâng cao chất lượng GDĐĐ cho HS
THPT. Mặc dù vậy, các biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ cho HS của Hiệu
trưởng các trường THPT vẫn còn là vấn đề khiến nhiều người trăn trở. Đặc biệt là
trước sự biến đổi và phát triển không ngừng của cuộc sống thời kỳ phát triển nền
kinh tế tri thức, đất nước ra nhập WTO hiện nay tình trạng sút kém chất lượng đạo
đức của HS nói chung và HS THPT nói riêng đang có những diễn biến phức tạp,
công tác quản lý hoạt động GDĐĐ cho HS đang đứng trước những thách thức mới
cần phải được giải quyết và phải tính đến đặc điểm kinh tế, xã hội cụ thể của từng

vùng, miền, địa phương cụ thể. Trong khi đó, trong giai đoạn hiện nay chưa có đề
tài nào đi sâu nghiên cứu về các biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ cho HS các
trường THPT trên địa bàn huyện Thanh Thủy. Vì vậy, tác giả chọn đề tài này với
tâm nguyện góp một phần nhỏ bé vào việc đưa ra các biện pháp quản lý hoạt động
GDĐĐ cho HS, nhằm nâng cao chất lượng GDĐĐ cho HS các trường THPT huyện
Thanh Thủy trong bối cảnh mới hiện nay.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Đạo đức
Theo quan điểm học thuyết Mác – Lênin: “Đạo đức là một hình thái ý thức
xã hội có nguồn gốc từ lao động sản xuất và đời sống cộng đồng xã hội. Đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội phản ánh và chịu sự chi phối của tồn tại xã hội. Vì vậy,
tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức xã hội (đạo đức) cũng thay đổi theo. Và như vậy,
đạo đức xã hội luôn mang tính lịch sử, tính giai cấp và tính dân tộc.” [5, tr 23]
Theo phân tích của các nhà nho thì đạo đức gồm “Đạo” và “Đức”. “Đạo” là
con đường, là lối đi phù hợp với lẽ đời. Sống trên đời phải có “đạo” tức là giữ đúng
cương vị, đường lối, phải đúng “đạo làm mẹ”, “đạo làm con”, “đạo làm chồng”,
“đạo làm cha”, “đạo làm vua”, “đạo làm tướng”,”đạo làm tôi”… Những người
13
14
không tuân theo lẽ phải đó, không giữ đúng ngôi… tức là những kẻ vô đạo. “Đức”
là tình cảm và hành động rất quý toát ra từ tâm con người. Nó chỉ cái đẹp bên trong.
Những người tốt thực sự, yêu thương con người, tỏ lòng tôn trọng và sẵn sàng giúp
đỡ người khác mà không vụ lợi thì được coi là con người có đức độ. Ngược lại, một
người chỉ tốt bên ngoài để che giấu cái xấu xa bên trong thì người ta gọi là kẻ đạo
đức giả, kẻ thất đức… Đạo đức là kết hợp cả cái lẽ cần có (yêu cầu bên ngoài) với
cái tâm (bên trong) của con người. Nó là sự kết hợp giữa cái tự nguyện với những
quy định chung của xã hội; giữa nhu cầu và lợi ích của mình với nhu cầu và lợi ích
của tập thể, của cộng đồng.
Theo Từ điển Tiếng Việt (Nhà xuất bản Khoa học xã hội) thì: “Đạo đức là
những tiêu chuẩn, những nguyên tắc quy định hành vi quan hệ của con người đối

với nhau và đối với xã hội. Đạo đức là những phẩm chất tốt đẹp của con người theo
những tiêu chuẩn đạo đức của một giai cấp nhất định” [13, tr 211]
Theo GS.TS Phạm Minh Hạc: “ Đạo đức theo nghĩa hẹp là luân lý, những
quy định và chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con người. Nhưng bên trong điều
kiện hiện nay, chính quan hệ của con người cũng đã mở rộng và đạo đức bao gồm
những quy định, những chuẩn mực ứng xử của con người với con người, với công
việc và với bản thân, kể cả với thiên nhiên và môi trường sống. [27, tr 10]
Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm trù chính
trị, pháp luật đời sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh bộ
mặt nhân cách của một cá nhân đã được xã hội hóa. Đạo đức được biểu hiện ở cuộc
sống tinh thần lành mạnh, trong sáng, ở hành động giải quyết hợp lý, có hiệu quả
những mâu thuẫn.
Theo PGS.TS Phạm Khắc Chương: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
là tổng hợp những quy tắc, nguyên tắc chuẩn mực xã hội, nhờ nó con người tự giác
điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người
và tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã
hội.” [30, tr 51]
Như trên đã trình bày, có nhiều định nghĩa khác nhau về đạo đức. Tuy nhiên,
ta có thể hiểu khái niệm này dưới 2 góc độ:
14
15
Một là góc độ xã hội, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, phản
ánh dưới dạng những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực điều chỉnh hoặc chi phối
hành vi của con người trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con
người với xã hội, giữa con người với nhau và với chính bản thân.
Hai là góc độ cá nhân, đạo đức là những phẩm chất, nhân cách của con
người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử của họ
trong các mối quan hệ của họ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa bản thân
họ với người khác và với chính bản thân.
Khái niệm đạo đức bao gồm ba nội dung chính: Quan hệ đạo đức, ý thức đạo

đức và hành vi đạo đức. Chúng có quan hệ hữu cơ với nhau: Quan hệ đạo đức là hệ
thống những mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội về
mặt đạo đức. Ý thức đạo đức là sự phản ánh những quan hệ đạo đức dưới dạng
những quy tắc, chuẩn mực phù hợp với những quan hệ đạo đức. Ý thức đạo đức là
tiêu chuẩn giá trị cao nhất tạo nên bản chất đạo đức của con người. Nó bao gồm tri
thức đạo đức và tình cảm đạo đức. Hành vi đạo đức là sự hiện thực hoá ý thức đạo
đức. Nó làm cho ý thức được cụ thể hoá và trở nên có ý nghĩa.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội luôn mang tính lịch sử, tính giai cấp,
tính dân tộc gắn với tiến trình phát triển của nhân loại và dân tộc. Đạo đức cũng
chịu sự quy định của điều kiện kinh tế, vật chất xã hội đồng thời cũng chịu sự tác
động qua lại chế ước lẫn nhau của các hình thái ý thức khác như pháp luật, văn hoá,
giáo dục, tập quán…
Đạo đức của con người biến đổi cùng với sự biến đổi và phát triển của các
điều kiện kinh tế xã hội. Theo thời gian phạm trù đạo đức ngày càng được hoàn
thiện, đầy đủ hơn. Trong xã hội ta hiện nay, các giá trị đạo đức là sự kết hợp hài hoà
của đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc với đạo đức cách mạng và xu thế tiến
bộ của thời đại, nhân loại. Đạo đức XHCN được thể hiện cụ thể trong những yêu
cầu, chuẩn mực sau:
- Yêu nước, yêu XHCN.
- Yêu thương và có trách nhiệm với gia đình, quý trọng và bảo vệ hạnh phúc
gia đình, hiếu kính với cha mẹ.
15
16
- Yêu lao động và có thái độ lao động XHCN.
- Có tinh thần tập thể, ý thức cộng đồng và tính đoàn kết kỷ luật.
- Tinh thần nhân đạo XHCN.
- Có tinh thần quốc tế XHCN trong thời đại mới.
- Nếp sống văn minh.
Những chuẩn mực đạo đức đó là mục tiêu giáo dục ở nhiều bậc học, nhiều
lứa tuổi. Đồng thời, chúng có giá trị định hướng, chi phối quá trình nhận thức và

điều chỉnh hành vi của mỗi con người.
Đạo đức có các chức năng cơ bản:
- Chức năng nhận thức: Đạo đức là công cụ giúp con người nhận thức xã hội
về mặt đạo đức. Các quan điểm đạo đức, nguyên tắc đạo đức là kết quả của phản
ánh tồn tại xã hội được con người đánh giá, thừa nhận và khái quát thành những
khuôn mẫu đạo đức, các giá trị đạo đức. Con người muốn thực hiện đúng những
chuẩn mực đạo đức thì trước hết họ phải hiểu được những chuẩn mực và những giá
trị đạo đức.
- Chức năng giáo dục: Trên cơ sở nhận thức đạo đức, chức năng giáo dục
giúp con người hình thành những phẩm chất nhân cách, hình thành hệ thống định
hướng giá trị và các chuẩn mực đạo đức, điều chỉnh ý thức và hành vi đạo đức.
- Chức năng điều chỉnh hành vi đạo đức: Sự điều chỉnh hành vi đạo đức làm
cho cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển, đảm bảo quan hệ lợi ích cá nhân và
cộng đồng. Chức năng này thể hiện bằng hai hình thức chủ yếu. Trước hết là chủ
thể tự giác điều chỉnh hành vi của mình trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức xã
hội. Thứ hai là tập thể cần tạo ra dư luận để khen ngợi, khuyến khích, đánh giá hoặc
phê phán những biểu hiện cụ thể của hành vi đạo đức trên cơ sở những chuẩn mực
giá trị đạo đức. Đây là chức năng xã hội cơ bản và hết sức quan trọng của đạo đức.
Những chức năng trên của đạo đức có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chức
năng nhận thức là cơ sở để có hành động đúng. Chức năng giáo dục giúp cho đạo
đức luôn luôn được thực hiện ở mọi lúc mọi nơi và trở thành thói quen của mỗi
người. Chức năng điều chỉnh hành vi là hết sức quan trọng vì nó điều chỉnh hành vi
con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.Trong giáo dục cần phải giáo dục
16
17
thế hệ trẻ theo ba chức năng trên. Song trên thực tế các chức năng đó có quan hệ
mật thiết với nhau nên trong giáo dục không thể tách rời việc giáo dục theo từng
chức năng được.
1.2.2. Giáo dục đạo đức
1.2.2.1. Giáo dục

Giáo dục theo nghĩa rộng là giáo dục xã hội được coi là lĩnh vực hoạt động
của xã hội nhằm truyền đạt những kinh nghiệm xã hội-lịch sử chuẩn bị cho thế hệ
trẻ trở thành lực lượng tiếp nối sự phát triển xã hội, kế thừa và phát triển nền văn
hóa của loài người và dân tộc.
Giáo dục theo nghĩa hẹp là giáo dục trong nhà trường. Đó là quá trình tác
động có tổ chức, có kế hoạch, có quy trình chặt chẽ nhằm mục đích cung cấp kiến
thức, kỹ năng hình thành thái độ, hành vi cho thiếu niên, xây dựng và phát triển
nhân cách theo chuẩn mực, quy mô mà xã hội đương thời mong muốn.
1.2.2.2. Giáo dục đạo đức
Như vậy, GDĐĐ là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức
của nhà giáo dục và yếu tố tự giáo dục của người học để trang bị cho học sinh tri
thức, ý thức đạo đức, niềm tin và tình cảm đạo đức và quan trọng nhất là hình
thành ở các em hành vi, thói quen đạo đức phù hợp với các chuẩn mực xã hội.
GDĐĐ về bản chất là quá trình biến hệ thống các chuẩn mực đạo đức từ
những đòi hỏi bên ngoài xã hội đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của
cá nhân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của đối tượng giáo dục.
GDĐĐ cho HS là một quá trình lâu dài, liên tục về thời gian và rộng khắp về
ko gian, từ mọi lực lượng xã hội, trong đó nhà trường giữ vai trò rất quan trọng.
GDĐĐ trong nhà trường là một bộ phận không thể thiếu được của quá trình
giáo dục tổng thể. Nó có quan hệ biện chứng với các quá trình giáo dục bộ phận
khác như giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mĩ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động
hướng nghiệp.
GDĐĐ không chỉ là khoa học mà còn là nghệ thuật. Nó đòi hỏi nhà giáo dục
vừa phải tuân theo quy luật hình thành phát triển nhân cách vừa phải tìm và vận
17
18
dụng khéo léo các biện pháp sư phạm tác động vào ý thức học sinh để tổ chức và
quản lí được các hoạt động GDĐĐ một cách có hiệu quả. Đây là quá trình lâu dài,
phức tạp đòi hỏi phải công phu, kiên trì, liên tục về thời gian, rộng khắp về không
gian, từ mọi lực lượng xã hội, trong đó nhà trường giữ vai trò rất quan trọng.

1.2.3. Quản lý hoạt động GDĐĐ
1.2.3.1. Quản lý
Theo cách tiếp cận hệ thống: quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý (hay đối tượng quản lý) nhằm tổ chức, phối hợp hoạt động của
con người trông quá trình sản xuất, xã hội để đạt được mục đích đã định.
Theo cách tiếp cận điều khiển học: quản lý là chức năng của những hệ thống
có tổ chức, với bản chất khác nhau (sinh học, xã hội, kỹ thuật…). Nó bảo toàn cấu
trúc các hệ, duy trì cấu trúc hoạt động. Quản lý là tác động hợp quy luật khách
quan, làm cho hệ vận động vận hành và phát triển.
Theo cách tiếp cận quá trình: quản lý gồm 2 quá trình tích hợp vào nhau là
quá trình “quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái ổn định; quá trình “lý”
gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ thống vào trạng thái phát triển. Nếu
người đứng đầu tổ chức chỉ lo việc “quản” tức là chỉ lo việc coi sóc, giữ gìn thì tổ
chức dễ trì trệ. Tuy nhiên nếu chỉ quan tâm vào việc “lý”, tức là chỉ lo việc sắp xếp
tổ chức, đổi mới mà không dặt nền tảng của sự ổn định, thì sự phát triển của tổ chức
không bền vững. Trong “quản” phải “lý”, trong “lý” phải có”quản” để động thái của
hệ luôn ở thế cân bằng động. Hệ vận động phù hợp, thích ứng có hiệu quả trong mối
tương tác giữa các nhân tố bên trong (nội lực) với các nhân tố bên ngoài (ngoại lực).
Mác đã lột tả bản chất quản lý là: “Nhằm thiết lập sự phối hợp giữa các công
việc cá nhân và thực hiện những chức năng chung, nảy sinh từ sự vận động của toàn
bộ cơ thể sản xuất, khác với sự vận động của các bộ phận riêng lẻ của nó. Một
người chơi vĩ cầm riêng lẻ tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì cần người chỉ huy.”
[5, tr 342]
18
19
Các nhà lý luận quốc tế như: Fredrich William Taylor (1856 – 1915) Mỹ,
Henry Fayol (1841 – 1925) Pháp, Max Weber (1864 – 1920) Đức… đều khẳng
định: quản lý là khoa học, đồng thời là nghệ thuật thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Theo Arnapuff: “Quản lý là một hệ thống xã hội chủ nghĩa, là một khoa học
và là một nghệ thuật tác động vào hệ thống xã hội chủ yếu là quản lý con người

nhằm đạt được những mục tiêu xác định. Hệ thống đó vừa động, vừa ổn định bao
gồm nhiều thành phần có tác động qua lại lẫn nhau.” [1, tr 54]
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang, người góp phần đổi mới lý luận dạy học;
Quản lý là hệ thống tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến
đối tượng bị quản lý trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất
định.[21, tr 34]
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý, nhưng ta có thể hiểu một
cách tổng quát: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản
lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Quản lý có 4 chức năng cơ bản là: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra -đánh
giá và thông tin là trung tâm của quản lý. Có thể mô hình hóa mối quan hệ giữa các
chức năng quản lý như sau:
1.2.3.2. Quản lý giáo dục
Khi hoạt động giáo dục ra đời tất yếu kéo theo sự xuất hiện của quản lý giáo
dục.Nếu giáo dục là một hiện tượng xã hội thì quản lý giáo dục là một dạng của quản
lý xã hội đặc thù. Quản lý giáo dục là một trong những yếu tố cơ bản và quan trọng
trong trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Vì vậy, người ta rất quan tâm đến hoạt
động quản lý giáo dục và có nhiều khái niệm khác nhau về quản lý giáo dục.
Theo nhà nghiên cứu giáo dục M.I. Konzacov: “Quản lý giáo dục là tác động
có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và có hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp
khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo việc hình
thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật
chung của xã hội cũng như những quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển
thể lực và tâm lý trẻ em.” [19, tr 10]
19
20
Theo cố GS. Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là những tác động có
mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ thống
vận hành theo đường lối, nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện các tính chất của
nhà trường XHCN Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học – giáo dục thế

hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.” [21, tr 35]
Theo PGS.TS. Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là quản lý trường học,
thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là
đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, tiến tới mục tiêu giáo dục, mục
tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng HS.” [24, tr 13]
Theo PGS.TS. Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là
hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh công tác
đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội.” [11, tr 37]
Từ những khái niệm trên, ta có thể hiểu khái niệm quản lý giáo dục ở 2 cấp
độ: cấp độ hệ thống và cấp độ trường học.
Ở cấp độ hệ thống có thể hiểu: Quản lý giáo dục là những tác động có hệ
thống, có ý thức, hợp quy luật của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả
các mắt xích của hệ thống giáo dục nhằm đảm bảo cho hệ thống giáo dục vận hành
bình thường và liên tục phát triển, mở rộng cả về số lượng và chất lượng.
Ở cấp độ trường học có thể hiểu: quản lý giáo dục là hệ thống những tác
động có chủ đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý đến tập thể GV,
NV, HS, cha mẹ HS và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực
hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục.
Trong luận văn này, tác giả đề cập đến quản lý giáo dục theo nghĩa hẹp trong
phạm vi quản lý một trường học.
1.2.3.3. Quản lý nhà trường
Trường học là một tổ chức giáo dục, là một đơn vị cấu trúc cơ sở của ngành
GD&ĐT. Quản lý nhà trường là một phần quan trọng trong quản lý giáo dục. Có
nhiều khái niệm khác nhau về quản lý nhà trường.
Theo M.I.Konzacov: “Quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy và học,
tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần
tiến tới mục tiêu giáo dục” [19, tr 112]
20
21
Theo cố GS. Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý nhà trường là quản lý hệ thống

xã hội sư phạm chuyên biệt, hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có
khoa học và có hướng của chủ thể quản lý trên tất cả các mặt của đời sống nhà
trường để đảm bảo sự vận hành tối ưu xã hội – kinh tế và tổ chức sư phạm của quá
trình dạy học và giáo dục thế hệ đang lớn lên.” [21, tr 2]
Theo GS. Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối của
Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo
nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành
giáo dục.” [25, tr 56]
Như vậy, có thể hiểu quản lý nhà trường thực chất là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhà trường lên tất
cả các nguồn lực nhằm đẩy mạnh hoạt động nhà trường theo nguyên lý giáo dục
tiến tới mục tiêu giáo dục mà trọng tâm của nó là đưa hoạt động dạy học và giáo
dục tiến lên trạng thái mới về chất.
1.2.3.4. Quản lý hoạt động GDĐĐ
Trong nhà trường, hoạt động quản lý bao gồm nhiều nội dung, trong đó quản
lý hoạt động GDĐĐ cho HS là một nội dung quan trọng.
Quản lý hoạt động GDĐĐ là sự tác động mục đích, có kế hoạch của chủ thể
quản lý tới các đối tượng quản lý nhằm đưa hoạt động GDĐĐ đạt được hiệu quả và
mục tiêu đề ra.
Đó là quá trình chủ thể quản lý xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch, vạch
ra những phương hướng, tìm biện pháp, huy động các nguồn lực, triển khai thực
hiện, đôn đốc, giám sát điều chỉnh và đưa ra những quyết định sáng suốt, kịp thời
nhằm thực hiện được các mục tiêu, đáp ứng được những yêu cầu của xã hội về chất
lượng đạo đức HS .
GDĐĐ cho HS là một lĩnh vực quản lý rất khó khăn, phức tạp đòi hỏi người
quản lý phải có năng lực quản lý vững vàng, toàn diện; khả năng vận dụng các biện
pháp quản lý linh hoạt và phải luôn là tấm gương về đạo đức nhà giáo cho cán bộ,
giáo viên, nhân viên, HS.
21
22

1.2.4. Biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ
1.2.4.1. Biện pháp
Biện pháp là phạm trù gắn liền với hoạt động có ý thức của con người, phản
ánh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Do đó, biện pháp là
một trong những yếu tố quyết định thành công hay thất bại trong hoạt động nhận
thức và cải tạo hiện thực.
Theo M.I. Konzacov: “Biện pháp là hệ thống những nguyên tắc được rút ra
từ tri thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và thực
tiễn nhằm thực hiện mục đích nhất định.[19, tr 72]
Theo từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên: “Biện pháp là cách làm,
cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể”. [13, tr 64]
Theo cuốn “Từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng” của tác giả Nguyễn
Văn Đạm: “Biện pháp là cách làm, cách hành động đối phó để đi đến một mục đích
nhất định.” [23, tr 66]
Như vậy, có thể hiểu biện pháp là cách làm, cách thực hiện một công việc
nào đó nhằm
Từ khái niệm trên, ta thấy biện pháp có những đặc điểm sau:
- Biện pháp xuất hiện khi có một vấn đề mới cần giải quyết hoặc đã giải
quyết nhưng chưa đem lại hiệu quả như mong muốn.
- Biện pháp là căn cứ vào các điều kiện để đưa ra và thực hiện những hoạt
động, những cách thức, những việc làm, những cách giải quyết…một vấn đề đang
đặt ra.
- Đối tượng thực hiện các biện pháp là sự phối kết hợp một cách thống nhất
giữa chủ thể biện pháp và người có liên quan.
- Việc đề ra và thực hiện các biện pháp là nhằm đat được một mục tiêu nhất định.
Trong giáo dục người ta thường quan niệm biện pháp là yếu tố hợp thành của
phương pháp, phụ thuộc vào phương pháp. Trong từng tình huống sư phạm cụ thể
phương pháp và biện pháp giáo dục có thể chuyển hoá lẫn nhau.
22
23

1.2.4.2. Biện pháp quản lý
Biện pháp quản lý là cách thức chủ thể quản lý sử dụng các công cụ quản lý
tác động vào việc thực hiện từng khâu của chức năng quản lý trong mỗi quá trình
quản lý nhằm tạo thêm năng lực thực hiện mục tiêu quản lý.
Biện pháp quản lí là cách thức con đường cụ thể để thực hiện nhiệm vụ quản
lí nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức.
1.2.4.3. Biện pháp quản lý giáo dục
Trong giáo dục, biện pháp quản lý là cách thức mà nhà quản lý giáo dục
(Hiệu trưởng) khai thác và sử dụng các công cụ giáo dục (nhân lực, tài lực, vật
lực…) vào việc tổ chức các hoạt động, các cách thức cho GV, HS và các lực lượng
xã hội phối hợp một cách thống nhất việc thực hiện các nội dung giáo dục trong quá
trình quản lý giáo dục nhằm đạt mục tiêu giáo dục nhất định.
Biện pháp quản lí giáo dục là cách thức tiến hành, cách thức giải quyết quá
trình tác động đến con người nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người
phù hợp với những nguyên tắc, chuẩn mực mà xã hội đương thời đặt ra.
1.2.4.4. Biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ
Biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ là những cách thức tác động có hướng
đích của chủ thể quản lý lên hoạt động GDĐĐ cho HS nhằm đạt được các mục tiêu
đề ra.
Biện pháp quản lý GDĐĐ cho HS là cách thức tác động có hướng đích của
nhà quản lý giáo dục lên hoạt động GDĐĐ cho HS để đạt được mục tiêu đề ra.
Biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh là cách thức, con đường
tác động có định hướng của chủ thể quản lý tới các thành tố tham gia vào quá trình
GDĐĐ cho học sinh nhằm làm cho mọi lực lượng giáo dục nhận thức đúng đắn về
tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức, tích cực tham gia vào quá trình
GDĐĐ để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã đề ra.
1.3. GDĐĐ cho học sinh THPT
1.3.1. Đặc điểm của học sinh THPT
HS THPT là những em đang ở độ tuổi từ 15-18. Ở tuổi vị thành niên này
diễn ra những biến động hết sức mạnh mẽ và phức tạp từ thể chất đến thế giới tâm

hồn các em. Tuổi vị thành niên được coi là giai đoạn con người chuyển từ trẻ con
23
24
sang người lớn, chuyển tiếp từ tuổi ấu thơ sang tuổi trưởng thành. Ở độ tuổi này
những biến đổi của các em chịu sự tác động của cộng đồng, dân tộc và các yếu tố
ảnh hưởng của môi trường kinh tế, văn hoá, xã hội.
Thời kỳ này, các em có sự phát triển nhanh, mạnh cả về trí tuệ và thể lực.
Đây cũng là thời kỳ đánh đấu những bước phát triển lớn về mặt xã hội. Các em có
xu hướng thoát khỏi phạm vi gia đình hoà nhập vào tập thể cùng lứa tuổi, ham
muốn tìm hiểu, khám phá và phát triển những kỹ năng mới để tự khẳng định mình.
1.3.1.1. Về thể lực và trí tuệ
Dưới tác dụng sinh lý của tuyến yên và tuyến sinh dục, ở các em diễn ra
hàng loạt những thay đổi nhanh chóng hình dáng của cơ thể. Đây là thời kỳ thể lực
của cơ thể phát triển sung mãn, sinh lực dồi dào có tính đột biến (bước ngoặt).
Ở thời kỳ này, quá trình nhận thức của các em có tính chủ định cao; các em
có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập sáng tạo trước các
đối tượng đã biết đã đọc, đã học và cả các đối tượng chưa biết, chưa học trong
trường. Các em bắt đầu có khả năng nhận xét đánh giá về bản thân, về mọi người
xung quanh và các vấn đề của cuộc sống theo cách của riêng mình, có căn cứ và
chuẩn xác hơn. Đương nhiên tư duy của các em cũng không thể tránh khỏi những
nhận thức sai lầm, thiếu chuẩn xác bởi tính nóng vội và nhu cầu bộc lộ bản thân
phát triển mạnh mẽ. “Đây là thời kỳ mà trí tuệ được liên tục phát triển Tuy
nhiên, điều đó cũng còn tuỳ thuộc vào sự nỗ lực cố gắng và sự tập trung cho việc
học tập của các em. ’’ [6, tr 11]
1.3.1.2. Về mặt tính cách
Ở độ tuổi này tính khí của các em thường hay thay đổi thất thường do chức
năng nội tiết phát triển mạnh, những tác dụng ức chế của vỏ não chưa tới mức hoàn
hảo, có nhiều nhu cầu nhưng chưa có được nhận thức đầy đủ với tính phức tạp của
cuộc sống, chưa hiểu rõ và làm chủ được hành vi của bản thân… nên thường xẩy
ra xao động dẫn đến hay bực bội, lo lắng, buồn, vui thất thường.

Nhưng cũng ở chính độ tuổi này tính độc lập của các em phát triển rất cao,
các em ngày càng trở nên ít hoặc không muốn phụ thuộc vào cha mẹ mà chú ý
nhiều đến bạn bè để đạt được nhu cầu được độc lập, được khẳng định bản thân.
24
25
1.3.1.3. Về giao tiếp và đời sống tình cảm
Do những biến đổi sinh lý sâu sắc, hoóc môn sinh dục phát triển mạnh mẽ
dẫn đến những biến đổi rõ rệt về tâm lý, tình cảm. Các em chuẩn bị bước vào mối
quan hệ yêu đương, học cách biểu lộ tình cảm yêu và được yêu, tỏ ra thân mật và
tạo sức hấp dẫn trong quan hệ với bạn khác giới.
Sự phát triển cảm xúc làm các em thay đổi không những trong tính tình mà
còn trong cách cư xử hàng ngày.
1.3.2. Mục tiêu, nhiệm vụ GDĐĐ cho học sinh THPT
1.3.2.1. Mục tiêu GDĐĐ cho HS
GDĐĐ là một bộ phận của quá trình giáo dục toàn diện của nhà trường. Do
đó mục tiêu GDĐĐ nằm trong mục tiêu chung của nhà trường THPT.
GDĐĐ ở trường THPT nhằm giáo dục cho HS các chuẩn mực xã hội đối với
người công dân ở mức độ phù hợp trên cơ sở đóng góp hình thành nhân cách của
con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay phù hợp với xu thế phát triển và tiến
bộ của thời đại. GDĐĐ cần đạt được các mục tiêu sau:
Về kiến thức:
- Hiểu được những chuẩn mực đạo đức và pháp luật cơ bản, phổ thông, thiết
thực, phù hợp với lứa tuổi HS THPT trong các quan hệ với bản thân, với mọi người,
với công việc và môi trường sống.
- Hiểu được ý nghĩa của các chuẩn mực đạo đức được đúc kết từ truyền
thống đến hiện đại, mang bản sắc văn hóa dân tộc trong sự hội nhập thế giới với
những tinh hoa tiến bộ của nhân loại; hiểu được sự phát triển cá nhân và xã hội, sự
cần thiết phải rèn luyện và cách thức rèn luyện để đạt được những chuẩn mực đó.
Về thái độ tình cảm:
- Có thái độ đúng đắn, rõ ràng trước các hiện tượng, sự kiện đạo đức, pháp

luật, văn hóa trong đời sống hàng ngày, có tình cảm trong sáng, lành mạnh với mọi
người, với gia đình, nhà trường, quê hương đất nước.
- Có niềm tin vào tính đúng đắn của các chuẩn mực đạo đức đã học và hướng
tới những giá trị xã hội tốt đẹp.
25

×