Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên Học viện Quản lý giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.66 KB, 122 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Yếu tố con người có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội trong mỗi quốc gia. Tất nhiên, con người ở đây được hiểu là những
người có nhân cách hoàn thiện, có đức, có tài mà trong đó đức là gốc bởi vì
đạo đức chi phối mọi hành vi, ứng xử của con người trong xã hội.
Đạo đức là một thành phần cơ bản của nhân cách. Đạo đức là bộ mặt
của nhân cách thể hiện trong mối quan hệ giữa người với người, với xã hội và
tự nhiên, với công việc, với môi sinh vì lý tưởng của cộng đồng. Giáo dục đạo
đức rất quan trọng đối với mọi người, đặc biệt đối với thế hệ trẻ trong xã hội
hội nhập và phát triển như thời đại ngày nay, vì đạo đức là nội lực của quá
trình phát triển nhân cách.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người
cách mạng, theo Người, muốn làm cách mạng thắng lợi thì người cán bộ phải
có đạo đức. Để nhấn mạnh vai trò của đạo đức, Người thường nói: “Cũng như
sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có
gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Nhấn mạnh
đạo đức là gốc Chủ tịch Hồ Chí Minh không coi nhẹ tài năng vì phải có tài
năng, có tri thức mới hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Sinh thời, Người rất quan
tâm đến vấn đề giáo dục cho thế hệ trẻ. Năm 1959, Người nói với các giáo
viên đang học lớp chính trị: “Có tài mà không có đức là hỏng. Có đức mà chỉ
i tờ thì dạy thế nào?”. Đức và tài là hai phạm trù cơ bản để đánh giá phẩm
chất, nhân cách của con người, đức và tài còn là những nội dung giáo dục con
người trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa nước ta hiện nay.
Chính vì vậy, vấn đề giáo dục đạo đức ngày nay càng được Đảng và
Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nghị quyết Trung ương Đảng khóa VIII đã
chỉ ra nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo là “Đào tạo con người Việt Nam phát
1
triển toàn diện: có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp;
hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân,


đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Như vậy,
đạo đức đã trở thành tiêu chí được đề cập đầu tiên trong các nhiệm vụ của
giáo dục.
Đại hội X của Đảng (2006) tiếp tục chỉ rõ nhiệm vụ: “Bồi dưỡng các giá
trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối
sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh con người Việt Nam”.
Quyết định số 42 về công tác tổ chức, quản lý hoạt động học tập và rèn
luyện của HSSV ngày 13 tháng 8 năm 2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
nói rõ: “Tổ chức triển khai công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống cho HSSV; tổ chức cho HSSV tham gia các hoạt động văn hoá, văn
nghệ và các hoạt động ngoài giờ lên lớp khác”.
Xuất phát từ hoàn cảnh hiện tại ở Việt Nam đang thực hiện CNH, HĐH
trong xu thế hội nhập của thế giới, đang chịu tác động giao thoa của truyền
thống và hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại,…Điều đó đang diễn ra với
những biểu hiện cả tiêu cực lẫn tích cực trong đời sống xã hội nói chung và
trong sinh viên nói riêng. Thực tế, hiện nay do tác động mặt trái của kinh tế
thị trường đã dẫn đến tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự
gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là lớp trẻ.
Trong những năm qua, Học viện Quản lý giáo dục đã rất quan tâm đến
công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên. Song thực tế, công tác này ở Học viện
còn nhiều bất cập và chưa thực sự có hiệu quả, đặc biệt là những yếu kém trong
quản lý. Có thể thấy, ở Học viện chưa có những biện pháp nhằm phát huy ý thức
tự giác rèn luyện của sinh viên, chưa huy động được sự tham gia của các lực
lượng xã hội vào hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên.
Là người công tác và gắn bó với Học viện quản lý giáo dục, với mong
muốn được góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất lượng giáo dục tạo ra
2
nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội; đồng thời thể hiện sự quan tâm tới
thực trạng đáng báo động ở nước ta hiện nay, đó là sự suy thoái về đạo đức
của một tầng lớp không nhỏ trong các tầng lớp nhân dân trong xã hội trong đó

có sinh viên nói chung và sinh viên Học viện quản lý giáo dục nói riêng, tôi
xin mạnh dạn chọn đề tài: “Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
cho sinh viên Học viện Quản lý giáo dục” nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
hoạt động giáo dục đạo đức để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cho sinh
viên Học viện quản lý giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Luận văn đề xuất một số
biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên Học viện quản lý
giáo dục để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên tại Học viện Quản lý giáo dục
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên tại Học
viện quản lý giáo dục.
4. Giả thuyết khoa học
Công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên ở Học viện Quản lý giáo dục
đã đạt được những kết quả nhất định song vẫn còn nhiều bất cập. Nếu đề xuất
và thực hiện được một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh
viên phù hợp với thực tế của Học viện thì kết quả giáo dục sẽ được nâng lên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục đạo đức và quản lý hoạt
động giáo dục đạo đức cho sinh viên.
5.2.Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động giáo dục đạo đức
và quản lý giáo dục đạo đức cho sinh viên Học viện quản lý giáo dục.
3
5.3.Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức cho sinh viên Học viện Quản lý giáo dục trong giai đoạn hiện
nay.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

6.1. Giới hạn đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các
biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên Học viện Quản lý
giáo dục.
6.2. Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Luận văn nghiên cứu trọng tâm
về giáo dục đạo đức trong các mối quan hệ xã hội và giáo dục chính trị, tư
tưởng đạo đức cho sinh viên Học viện QLGD.
7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phương pháp này dùng để sưu tầm, hệ thống hóa các vấn đề lý luận về
giáo dục đạo đức cho sinh viên, quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh
viên Học viện quản lý giáo dục. Mặt khác, tìm hiểu cơ sở lý luận phù hợp với
việc quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên trong giai đoạn hiện
nay.
- Nghiên cứu văn kiện
- Nghiên cứu tài liệu kinh điển
- Nghiên cứu sách, báo, tạp chí,…liên quan đến đề tài
7.2. phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp này dùng để nghiên cứu thực trạng quản lý giáo dục đạo
đức cho sinh viên Học viện quản lý giáo dục, từ đó làm cơ sở cho việc đề xuất
các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức.
- Quan sát, trò chuyện
- Phân tích tổng hợp
- Điều tra cơ bản bằng phiếu hỏi
4
- Lấy ý kiến chuyên gia (qua trao đổi, tọa đàm)
* Trong các phương pháp trên chúng tôi coi phương pháp điều
tra và phân tích.
7.3.Phương pháp xử lý số liệu
Dùng phương pháp toán thống kê để xử lý số liệu

8. Đóng góp của luận văn
8.1. Về mặt lý luận: Hệ thống các cơ sở lý luận và pháp lý về giáo
dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên.
8.2. Về mặt thực tiễn: Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động giáo
dục đạo đức cho sinh viên Học viện Quản lý giáo dục
9. Cấu trúc luận văn
* Mở đầu
* Nội dung: gồm 3 chương
+ Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
sinh viên
+ Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh
viên Học viện quản lý giáo dục
+ Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh
viên Học viện quản lý giáo dục
* Kết luận và khuyến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu hoạt động giáo dục đạo đức
Trong lịch sử nhân loại có rất nhiều người nghiên cứu về đạo đức, về
hoạt động giáo dục đạo đức, về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức nhưng
chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu, cụ thể như:
Hoạt động giáo dục giá trị nhân văn, đạo đức, văn hóa quốc tế: Tại Hội
nghị khoa học “Đẩy mạnh giá trị nhân văn, đạo đức, văn hóa quốc tế” tổ chức
ở Tokyo vào tháng 2 năm 1994 với sự tham gia của 12 nước trong khu vực.
Hội nghị đã tổng kết kinh nghiệm và đã thống nhất đưa ra mô hình giáo dục
giá trị nhân văn, đạo đức, văn hóa quốc tế gồm 8 nhóm giá trị: 1/nhóm giá trị

liên quan đến Quyền con người; 2/ nhóm giá trị liên quan đến Dân chủ;
3/nhóm giá trị liên quan đến Bảo vệ di sản văn hóa; 6/ nhóm các giá trị liên
quan đến Bản thân và những người khác; 7/ nhóm các giá trị liên quan đến
Tính dân tộc; 8/ nhóm liên quan đến Tâm linh.
Hoạt động giáo dục đạo đức ở Trung Quốc: Giáo dục lý tưởng xã hội
chủ nghĩa; Lòng tự cường dân tộc; tính kỷ luật trong lao động, học tập và hoạt
động xã hội. Trung Quốc đặc biệt quan tâm tới giáo dục toàn diện gọi là “giáo
dục tố chất”. Khi nói đến giáo dục tố chất, theo quan điểm của Trung Quốc,
đó là tạo ra điều kiện tiền để học sinh phát triển cả về thể chất và tâm hồn.
Khiến cho tất cả học sinh đều được phát triển hết tiềm năng của mình từ đó
thúc đẩy quá trình chuyển hóa ý thức xã hội bên trong phẩm chất tâm lý của
cá thể học sinh.
Hoạt động giáo dục đạo đức của Nhật Bản được xây dựng trên nền tảng
các giá trị gia đình và văn hóa truyền thống, được thực hiện ưu tiên so với tất
cả các môn học khác trong chương trình giáo dục. Đặc trưng của GDĐĐ ở
6
Nhật Bản tập trung vào ba điểm: Lòng tôn trọng cuộc sống; quan hệ cá nhân
và cộng đồng; ý thức về trật tự dọc. Trật tự này bắt nguồn từ Khổng giáo và ở
gia đình, các thành viên thuộc nhiều thế hệ gắn kết với nhau bởi tình cảm tự
nhiên hơn là khả năng và quyền lực. Đây là nguyên nhân chủ yếu khiến nền
GD Nhật bản thành công [43].
Ở Việt Nam, vấn đề GDĐĐ đã và đang trở thành mối quan tâm của các
nhà sư phạm nói chung và các nhà quản lý giáo dục nói nói riêng. Trong mấy
chục năm xây dựng nhà nước XHCN và đặc biệt, trong khoảng gần 20 năm
đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam qua các văn kiện đã thường xuyên thể hiện
sự quan tâm đến đề tài xây dựng con người Việt Nam qua từng thời kỳ. Các
nghiên cứu thường đi sâu vào việc xác định các nội dung đạo đức, các định
hướng về giá trị đạo đức, các biện pháp giáo dục đạo đức sinh viên và quản
lý hoạt động giáo dục đạo đức. Thực tế, có rất nhiều học giả đã có những
nghiên cứu cơ bản về vấn đề này.

GS.VS. Phạm Minh Hạc – Nhà nghiên cứu giáo dục học hàng đầu ở
Việt Nam trong nhiều nghiên cứu chuyên luận về con người Việt Nam cũng
đã nêu lên các định hướng giá trị đạo đức con người Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH – HĐH) và bàn về thực trạng cũng như
các giải pháp ở phần vĩ mô về giáo dục – đào tạo (GD –ĐT) con người Việt
Nam theo định hướng trên. Về mục tiêu GDĐĐ, GS. VS. Phạm Minh Hạc đã
nêu: “Trang bị cho mọi người mọi tri thức cần thiết về tư tưởng chính trị, đạo
đức nhân văn, kiến thức pháp luật và văn hóa xã hội. Hình thành ở mọi công
dân thái độ đúng đắn, tình cảm, niềm tin, đạo đức trong sáng đối với bản
thân, mọi người, sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc và với mọi hiện
tượng xảy ra xung quanh. Tổ chức tốt giáo dục giới trẻ, rèn luyện để mọi
người tự giác thực hiện những chuẩn mực đạo đức xã hội, có thói quen chấp
hành quy định của pháp luật, nỗ lực học tập rèn luyện, tích cực cống hiến sức
lực, trí tuệ vào sự nghiệp CNH – HĐH đất nước” [ 36, tr 168 – 169 – 170].
7
Ngoài ra, PGS. TS. Trần Hậu Kiểm và TS. Đoàn Đức Hiếu trong cuốn
“Hệ thống phạm trù đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên” đã khái quát
hóa những phạm trù cơ bản của đạo đức đó là: lẽ sống, hạnh phúc, danh dự,
nghĩa vụ và lương tâm; thiện và ác. Những phạm trù này phản ánh những nội
dung khách quan của đời sống xã hội, có liên hệ hữu cơ với tình cảm con
người trong mối quan hệ con người với đời sống xã hội và dẫn đến quan điểm
chủ quan trong một số sự việc, hiện tượng nhất định.
Đặc biệt còn một số luận văn, Luận án cũng đề cập đến vấn đề quản lý
hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên như:
- Luận văn: “Một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh
viên trường cao đẳng sư phạm Nam Định” của Hoàng Thị Kim Liên – 2005.
- Luận văn: “Tổ chức hoạt động giáo dục, giáo dục đạo đức cho sinh
viên trường ĐHSP Huế trong tình hình hiện nay” của Nguyễn Văn Phước –
2003.
- Luận văn: “Một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo

dục đạo đức cho sinh viên trường cao đẳng sư phạm Cao Bằng trong giai
đoạn hiện nay” của Phan A Vàng – 2002.
- Luận án tiến sĩ: “Xây dựng mô hình quản lý công tác giáo dục đạo
đức cho sinh viên các trường ĐHSP trong giai đoạn hiện nay” năm 2010.
Qua nghiên cứu những quan điểm về giáo dục đạo đức của các nước
trên thế giới và các luận văn, luận án, những công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học ở Việt Nam, chúng tôi thấy được những nét khái quát về đặc
trưng, nhiệm vụ, phạm trù, chức năng của vấn đề giáo dục đạo đức, quản lý
hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên là rất cần thiết.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm về quản lý
Con người từ khi hình thành đời sống lao động đã biết tạo lập nên
nhóm, các tập đoàn – gọi là các nhóm xã hội. Bất kể nhóm nhỏ hay nhóm lớn,
8
chính thức hay không chính thức, nhóm bạn bè hay nhóm gia đình, đoàn thể,
các tổ chức xã hội,….bất kể mục đích, nội dung hoạt động, bất kể ý thức xã
hội hay hình thức tôn giáo nào…đều cần có sự quản lý.
Khái niệm quản lý được sử dụng một cách rộng rãi trong lĩnh vực khoa
học xã hội. Xét về chức năng, quản lý là hệ tổ chức, có nhiều cách định nghĩa
về hoạt động quản lý.
- Theo Mary Parker Fowt – nhà khoa học chính trị, nhà triết học Mỹ
(1868 -1933): “quản lý là nghệ thuật khiến công việc được thực hiện thông
qua người khác”
- Nhà lý luận quản lý người Nga Annaful đã định nghĩa: Quản lý là một
hệ thống xã hội, là một khoa học, là nghệ thuật tác động vào hệ thống đó chủ
yếu là vào những con người nhằm đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội nhất
định.
- Theo Wtaylor, người Mỹ cho rằng: Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng,
chính xác cái gì cần làm và làm như nào, bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất.
- Một số nhà nghiên cứu cho rằng: Quản lý là một quá trình kỹ thuật và

xã hội, nhằm sử dụng các nguồn lực tác động tới hoạt động của con người
nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức.
* Ngoài ra còn có một số khái niệm sau:
- Quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội;
nghĩa là hoạt động quản lý chỉ cần thiết và tồn tại với một nhóm người; còn
đối với cá nhân là sự điều khiển hoạt động của chính mình.
- Quản lý gồm công việc chỉ huy và tạo điều kiện cho người khác thực
hiện công việc và đạt được mục đích của nhóm.
- Hệ thống quản lý được hiểu như sự phối hợp có tổ chức và thống nhất
hệ thống quản lý có những đặc điểm sau:
+ Các mục đích hoạt động quản lý và các chức năng của các thành viên
tham gia vào hoạt động này.
9
+ Sự lựa chọn các thành phần cụ thể để tạo ra hoạt động quản lý như
một tổng thể.
+ Những qui định về mối quan hệ với bên ngoài
+ Xây dựng những cấu trúc của tổ chức để điều khiển các mối liên hệ,
các chuẩn mực, các quyền hạn, các bộ phận cũng như các hoạt động cảu hệ
thống quản lý.
+ Đảm bảo thông tin theo các tuyến quan hệ trên, dưới, ngang trong nội
bộ nhóm và với bên ngoài nhóm.
+ Các bước để thông qua quyết định và thực hiện quyết định
Có thể nói hệ thống quản lý là sự tương hỗ, biện chứng giữa chủ thể
quản lý và khách thể quản lý. Quản lý vừa là một khoa hoc vừa là một nghệ
thuật.
Quản lý là một khoa học vì nó là lĩnh vực tri thức, được hệ thống hóa
và là đối tượng nghiên cứu khách quan đặc biệt. Quản lý là khoa học phân
loại kiến thức, giải thích các mối quan hệ - đặc biệt là mối quan hệ giữa chủ
thể và khách thể quản lý dự báo kết quả.
Quản lý là một nghệ thuật, bởi lẽ nó là hoạt động đặc biệt đòi hỏi sự

khéo léo, tinh tế và linh hoạt với những kinh nghiệm đã quan sát được, những
tri thức đã đúc kết được. Người quản lý để qua đó để áp dụng những kỹ năng
tổ chức con người và công việc. Xôcrat nhà triết học cổ đại Hy Lạp đã nói:
những người biết cách sử dụng con người sẽ điều khiển con người hoặc cá
nhân một cách sáng suốt. Trong khi những người không biết làm như vậy sẽ
mắc sai lầm trong việc điều hành cả hai công việc này.
Như vậy, quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của
chủ thể quản lý (người quản lý) lên khách thể quản lý (những người bị quản lý)
bằng việc sử dụng các phương tiện quản lý nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt
tới mục tiêu quản lý .
10
Sự tác động này được mô hình hóa như sau:
Sơ đồ 1.1: Mô hình về quản lý
1.2.2. Khái niệm đạo đức và hoạt động giáo dục đạo đức
1.2.2.1. Khái niệm đạo đức
Trong đời sống xã hội loài người có những mối quan hệ rất phức tạp, đa
dạng, nó tồn tại đan xen nhau bởi các huyết tộc, nhân chủng, các giới, các thế
hệ. Mặt khác, do trình độ nhận thức của mỗi người cũng khác nhau, họ sống
trên lãnh thổ khác nhau nên về tập tục, lợi ích, văn hóa, trình độ phát triển
cũng khác nhau. Để duy trì sự tồn tại và phát triển, mỗi xã hội đòi hỏi phải
xây dựng những nguyên tắc, chuẩn mực sống, trên cơ sở đó tự ý thức, tự hành
động. Nói cách khác, những nguyên tắc đó được xây dựng trên cơ sở tính tự
nguyện, tự giác của mỗi người, biến thành ý thức của xã hội để con người tự
giác tuân theo. Và cũng qua đó con người được đánh giá là có đạo đức hay là
không có đạo đức.
Về bản chất, đạo đức phản ánh những giá trị, những quan hệ tốt đẹp
giữa người với người; mặt khác đạo đức còn phản ánh ý thức và hành vi tự
nguyện, tự giác của con người trong mối tương quan giữa cá nhân và xã hội,
giữa con người với nhau, đạo đức xuất hiện từ khi có loài người và nó không
bao giờ biến mất, nó tồn tại vĩnh viễn cùng với sự tồn tại và phát triển của xã

hội loài người. Vì vậy con người càng vươn tới và sáng tạo ra những giá trị
đạo đức mới.
11
Công cụ
Phương pháp
Khách thể
quản lý
Chủ thể quản

Mục tiêu
Có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về đạo đức, nhưng đạo
đức được định nghĩa như sau:
Dưới góc độ triết học: Đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất
của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên lý, quy tắc, chuẩn mực điều tiết
hành vi của con người trong quan hệ với người khác với cộng đồng. Căn cứ
vào những quy tắc ấy, người ta đánh giá hành vi, phẩm giá của mỗi người
bằng các quan hệ thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, nghĩa vụ, danh dự
[39,tr145].
Dưới góc độ đạo đức học, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc
biệt bao gồm một hệ thống các quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên
tắc, chuẩn mực xã hội [39, tr 12].
Dưới góc độ giáo dục học, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc
biệt bao gồm các hệ thống quan niệm về cái thực, cái có trong mối quan hệ
của con người với con người [35, tr170-171].
Đạo đức theo nghĩa hẹp là luân lí, những quy định, những chuẩn mực
ứng xử trong quan hệ của con người. Nhưng trong điều kiện hiện nay, chính
quan hệ con người cũng đã mở rộng và đạo đức bao gồm những quy định
những chuẩn mực ứng xử của con người với bản thân, với con người, với
công việc, với thiên nhiên, với môi trường sống.
Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm trù

chính trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách,
phản ánh bộ mặt của nhân cách của một cá nhân đã được xã hội hóa. Đạo đức
được biểu hiện ở cuộc sống tinh thần lành mạnh, trong sáng; ở hành động góp
phần giải quyết hợp lý, có hiệu quả những mâu thuẫn. Khi thừa nhận đạo đức
là một hình thái ý thức xã hội thì đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng,
mỗi tầng lớp, giai cấp trong xã hội cũng phản ánh ý thức chính trị của họ với
các vấn đề đang tồn tại” [39, 153-154].
12
Tóm lại, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt bao gồm một
hệ thống những quan điểm, quan niệm những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực
xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu của xã hội, nhờ đó con người
tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của
con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa cá nhân và xã hội”.
[39, tr 12]
1.2.2.2. Khái niệm về hoạt động giáo dục đạo đức
a. Giáo dục đạo đức (GDĐĐ)
GDĐĐ là quá trình tác động tới đối tượng giáo dục để hình thành cho
họ ý thức tình cảm và niềm tin đạo đức cuối cùng quan trọng nhất là hình
thành cho người học thói quen đạo đức. GDĐĐ về bản chất là quá trình biến
hệ thống những chuẩn mực đạo đức từ đòi hỏi bên trong của mỗi cá nhân
thành niềm tin, nhu cầu thói quen của đối tượng được giáo dục.
GDĐĐ là bộ phận quan trọng có tính nền tảng của giáo dục, có nhiệm
vụ rèn luyện ý tưởng, ý thức, thói quen và hình thành ở người học các phẩm
chất đạo đức như lòng nhân ái, yêu tổ quốc, yêu lao động, tính trung thực,
khiêm tốn, tự trọng, dũng cảm,…GDĐĐ gắn chặt với giáo dục tư tưởng chính
trị, giáo dục pháp luật, giáo dục trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và lao động hướng
nghiệp [39, tr 120]
b. Khái niệm về hoạt động GDĐĐ
Hoạt động giáo dục đạo đức là một hoạt động có tổ chức, có mục đích,

có kế hoạch nhằm biến những nhu cầu, chuẩn mực giá trị đạo đức theo yêu
cầu của xã hội thành những phẩm chất, giá trị đạo đức của cá nhân, nhằm góp
phần phát triển nhân cách của mỗi cá nhân và thúc đẩy sự phát triển tiến bộ
của xã hội. Hoạt động giáo dục đạo đức trong xã hội của chúng ta hiện nay
nói chung và nhà trường nói riêng là hướng tới việc thực hiện phát triển toàn
diện nhân cách cho người học.
13
1.2.3. Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
a. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
Những tác động của chủ thể quản lí nhà trường đến tập thể giáo viên,
nhân viên, các tổ chức chính trị, các tổ chức xã hội, các đoàn thể và đặc biệt là
sinh viên đạt tới mục tiêu của hoạt động giáo dục đạo đức.
Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cũng có những đặc trưng riêng. Nó
là một mặt của QLGD tổng thể. Chúng ta có thể so sánh điểm nổi trội của hai
quá trình quản lý dạy học (QLDH) và QLHĐGDĐĐ:
Bảng 1.1: So sánh hai quá trình QLDH và QLHĐGDĐĐ
Lĩnh vực quản lý Hoạt động dạy học Hoạt động giáo dục đạo đức
Mục tiêu và kết
quả quản lý
Trọng tâm là:
- Lĩnh hội kiến thức
- Kỹ năng
Trọng tâm là:
- Hình thành và phát triển thái
độ, cảm xúc, tình cảm, niềm tin,
các giá trị
- Rèn luyện, phát triển hành vi,
thói quen ĐĐ, lối sống XH.
Đối tượng của
hoạt động

Tri thức của lĩnh vực
khoa học – kỹ thuật cụ
thể
Kinh nghiệm sống và kỹ năng
hoạt động, HĐ nhiều lĩnh vực
của đời sống XH.
Các chủ thể tham
gia
Chủ yếu là thầy và trò,
nhà trường là chính
Liên quan đến mọi người, mọi
tổ chức XH.
Không gian, môi
trường của HĐ
Chủ yếu trên lớp trong
nhà trường
Hoạt động ở mọi lúc, mọi nơi,
trong và ngoài nhà trường
(HĐNGLL là trọng tâm)
Điều kiện, phương
tiện quản lý
Quản lý điều kiện,
phương tiện của một
lĩnh vực
Quản lý huy động tổng thể các
điều kiện, phương tiện trong và
ngoài nhà trường.
v.v…
Có thể nói QLHĐGDĐĐ là quá trình vô cùng phức tạp của chủ thể
quản lý nhằm tạo ra sự thống nhất, đồng thuận của các lực lượng giáo dục

14
trong và ngoài trường về mục tiêu, kế hoạch hoạt động phù hợp với lứa tuổi,
phù hợp với vị thế xã hội.
b. Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
- Thông qua hoạt động trí dục
- Thông qua việc quản lí việc tổ chức các hoạt động tập thể, hoạt động
xã hội để hình thành kinh nghiệm ứng xử xã hội;
- Thông qua việc quản lí hoạt động cá nhân (luyện tập, tu dưỡng,…)
- Thông qua và phối hợp với quản lí giáo dục văn hóa, truyền thống,
thẩm mĩ, thể chất,…
1.3.Hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên ở các trường đại học
Luật Giáo dục 2005 quy định các cấp học và trình độ đào tạo của hệ
thống giáo dục quốc dân bao gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông,
giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học
1.3.1. Mục tiêu của hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên đại học
Giúp cho mỗi cá nhân nhận thức đúng các giá trị đạo đức, biết hành
động theo các chuẩn mực đạo đức, công bằng và nhân ái, biết sống vì mọi
người, vì sự tiến bộ của xã hội,…trong đó mục tiêu cơ bản của GDĐĐ cho
sinh viên đại học là hình thành cho sinh viên có thói quen sống và làm việc
theo chuẩn mực đạo đức.
Mục tiêu của hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường đại
học là thực hiện mục tiêu giáo dục đạo đức. Mục tiêu của giáo dục giá trị đạo
đức, nhân văn, là tạo ra sự thống nhất ngày càng cao giữa hệ giá trị của cá
nhân, của nhóm, và của toàn xã hội.
Mục tiêu của hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên là làm cho quá
trình GDĐĐ vận hành đồng bộ, hiệu quả để nâng cao chất lượng GDĐĐ. Các
trường đại học có trọng trách rất lớn là góp phần đào tạo sinh viên trở thành
nhân tài, có hoài bão và năng lực để thực hiện nghĩa vụ với sự nghiệp CNH,
HĐH, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng xã hội công bằng, văn minh.
15

Mục tiêu của hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên bao gồm:
- Về nhận thức: giúp sinh viên nhận thức được trách nhiệm cùng với sự
trang bị tri thức khoa học, nghề nghiệp, sinh viên cần hiểu biết những chuẩn
mực đạo đức, những giá trị nhân cách cần thiết rèn luyện đối với sự phát triển
của xã hội nói chung. Do đó phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện đạo đức,
trau rồi ý thức pháp luật, tránh các thói hư tật xấu.
- Về thái độ tình cảm: giúp cho sinh viên có thái độ rõ ràng, đúng
đắn với các hiện tượng tích cực trong học tập, hoạt động xã hội trong nhà
trường và ngoài xã hội. Luôn luôn tự hoàn thiện nhân cách bản thân; tôn
trọng những giá trị đạo đức truyền thống và giá trị nhân cách phù hợp với
thời đại, tôn trọng những qui định của nhà trường và pháp luật của Đảng
và Nhà nước; có thái độ phê phán những thói hư tật xấu làm mất phẩm
chất của người sinh viên trong cuộc sống học đường và ngoài xã hội.
- Về hành vi: giúp cho sinh viên tham gia tích cực các hoạt động phát
huy truyền thống tôn sư trọng đạo, tương thân, tương ái giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ của bản thân và phát triển của dân tộc; có nghị lực thực hiện những tư
tưởng, quan điểm, những yêu cầu đạo đức và pháp luật, đồng thời không vi
phạm những hành vi sai trái, đi ngược lại đạo lý truyền thống của dân tộc và
các chuẩn mực giá trị đạo đức của thời đại; có năng lực tự lựa chọn chuẩn
mực đạo đức, tổ chức thực hiện rèn luyện theo yêu cầu của giáo dục nhà
trường và xã hội.
Nói tóm lại, mục tiêu của hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên là
làm sao cho quá trình giáo dục đạo đức tác động trực tiếp đến người học đề
hình thành ý thức tình cảm và niềm tin đạo đức, tạo lập được những thói quen
hành vi đạo đức cho họ.
16
1.3.2. Nhiệm vụ của hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên đại học
Nhiệm vụ giáo dục đạo đức nói chung là giáo dục ý thức đạo đức; giáo
dục tình cảm đạo đức; giáo dục hành vi và thói quen đạo đức. Nhưng nhiệm
giáo dục đạo đức cho sinh viên trường đại học không chỉ yêu cầu học sinh

nắm vững nội dung kiến thức về GDĐĐ mà quan trọng hơn là phải có các kỹ
năng vận dụng, thực hiện các nội dung và có thái độ tích cực khi tiếp nhận và
thực hiện các nội dung đó. Nhiệm vụ cụ thể là làm cho sinh viên:
- Thấm nhuần sâu sắc thế giới quan Mác – Lênin, tư tưởng đạo đức
cách mạng Hồ Chí Minh, tính chân lý khách quan, giá trị nhân văn, nhân đạo,
nhân bản của thế giới quan và tư tưởng đó, coi đó là kim chỉ nam cho tư
tưởng và hành động của mình. Trên cơ sở đó, bằng sự tiếp cận với cuộc đấu
tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng trên con đường xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN để củng cố niềm tin, xây dựng lẽ sống theo định
hướng XHCN.
- Thấm nhuần chủ trương, chính sách của Đảng, biết sống và làm việc
theo pháp luật; sống có kỷ luật, kỷ cương, có văn hóa trong nhà trường cũng như
trong gia đình, trong các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư và nơi công cộng.
- Nhận thức ngày càng sâu sắc về những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn
mực giá trị đạo đức xã hội thành ý thức tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen,
thành phẩm chất đạo đức cá nhân thể hiện trong cách sống, làm việc trong
quan hệ ứng xử giữa con người với con người, con người với môi trường và
xã hội.
- Với sinh viên trường đại học, những phẩm chất đạo đức cơ bản trên
cần được cụ thể hóa, định hướng mức độ chuẩn (mang tính định tính) để xây
dựng nội dung chương trình GDĐĐ thích hợp nhằm làm cho quá trình GDĐĐ
trở thành một quá trình liên tục, thống nhất và có hiệu quả tối ưu, cụ thể là:
- Nâng cao đạo đức nghề nghiệp và các phẩm chất nhân văn khác, xác
định những phẩm chất cần thiết cụ thể của mỗi ngành.
17
- Nâng cao trình độ nhận thức và khả năng phòng chống các tệ nạn xã
hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường và tiến trình hội nhập thế giới trên
mọi lĩnh vực hiện nay.
- Bổ sung những phẩm chất mới, hiện đại. Những giá trị mới giúp cho
sinh viên đại học có đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ, giúp họ định hướng

các giá trị đúng đắn.
1.3.3.Nội dung của hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên đại học
Những nội dung GDĐĐ được thể hiện ở những chuẩn mực đạo đức.
Theo Phạm Minh Hạc thì chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam thời
kỳ CNH, HĐH (có thể xác định một cách tương đối) được chia thành 5 nhóm
phản ánh các mối quan hệ chính mà con người cần giải quyết.
- Nhóm chuẩn mực đạo đức thể hiện nhận thức tư tưởng chính trị
- Nhóm chuẩn mực đạo đức hướng vào sự hoàn thiện của bản thân
- Nhóm chuẩn mực đạo đức thể hiện quan hệ với mọi người và dân tộc khác
- Nhóm chuẩn mực liên quan đến môi trường sống
Giáo dục đạo đức là trang bị cho đối tượng được giáo dục những hiểu
biết về niềm tin về các chuẩn mực và quy tắc đạo đức, giáo dục ý thức về lối
sống cá nhân, ý thức về các mối quan hệ trong gia đình, trong tập thể và
ngoài xã hội, ý thức về cuộc sống lao động sáng tạo, về trách nhiệm trong
công việc, về nghĩa vụ lao động và bảo vệ tổ quốc.
Vậy nội dung cơ bản trong giáo dục đạo đức cho sinh viên đại học bao
gồm giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức; giáo dục đạo đức công dân; giáo
dục đạo đức nghề nghiệp và giáo dục đạo đức trong các mối quan hệ xã hội.
1.3.4. Hình thức của hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên đại học
Hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên là một bộ phận của quá trình
giáo dục đại học tổng thể, nó được tiến hành bằng những phương thức sau:
Thông qua việc dạy các môn học làm cho sinh viên tự giác chiếm
lĩnh một cách có hệ thống những kinh nghiệm đạo đức, giúp sinh viên
18
định hướng đúng những hiện tượng xã hội để lựa chọn cách thích ứng
đúng đắn trong các tình huống đạo đức.
Giáo dục đạo đức cho sinh viên đại học thông qua các hoạt động chủ yếu:
- Các bài giảng bộ môn chính trị, pháp luật;
- Các bài giảng của các bộ môn khác;
- Các buổi thực hành, các đợt thực tập;

- Các buổi sinh hoạt lớp, chi đoàn;
- Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, lễ hội;
- Hoạt động thể thao, quân sự;
- Các đợt phát động thi đua.
1.3.5. Phương pháp của hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên đại học
Phương pháp của hoạt động GDĐĐ cho sinh viên là cách thức tác động
của các nhà giáo dục lên đối tượng giáo dục để hình thành cho đối tượng giáo
dục những chuẩn mực đạo đức cần thiết phù hợp với đạo đức xã hội hiện đại.
Phương pháp của hoạt động GDĐĐ cho sinh viên được thể hiện ở các
phương pháp sau:
- Phương pháp thuyết phục: thuyết phục là phương pháp tác động vào
mặt nhận thức và tình cảm của con người để hình thành cho họ ý thức, thái độ
tốt đẹp đối với cuộc sống. Nhóm này bao gồm các phương pháp khuyên giải,
tranh luận, nêu gương.
- Phương pháp tổ chức hoạt động: GDĐĐ không có gì hiệu quả hơn là
đưa con người vào hoạt động thực tiễn, tập dượt, rèn luyện tạo nên những
hành vi, thói quen. Điều này phù hợp với nguyên tắc hình thành và phát triển
tâm lý của cá nhân. Muốn hình thành hành vi đạo đức cho sinh viên cần tổ
chức các hoạt động tập thể phong phú đa dạng, lôi cuốn họ tham gia, từ đó
hướng dẫn họ luyện tập để trở thành thói quen trong hành vi hàng ngày.
- Nhóm kích thích hành vi: Đây là nhóm phương pháp tác động vào
mặt tình cảm của các đối tượng giáo dục nhằm tạo ra những phẩm chất, thúc
19
đẩy tính tích cực hoạt động, đồng thời giúp cho những người có khuyết điểm
nhận ra và khắc phục những sai lầm. Nhóm này gồm các phương pháp khen
thưởng, trách phạt, thi đua.
Phương pháp của hoạt động GDĐĐ cho sinh viên rất đa dạng. Vì vậy,
Nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục cần phải vận dụng linh hoạt phù hợp với
mục đích, đối tượng và từng tình huống cụ thể.
1.3.6. Nguyên tắc của hoạt động giáo dục đạo đức

Một trong những yếu tố quan trọng để hoạt động GDĐĐ có thể đạt hiệu
quả cao là phải đảm bảo các nguyên tắc GDĐĐ, đó là:
- Phải đảm bảo tính mục đích, tính thống nhất trong toàn bộ hoạt
động giáo dục.
- Phải thông qua các hoạt động thực tiễn.
- Phải phù hợp với lứa tuổi, giới tính và đặc điểm riêng của từng học
sinh, sinh viên.
- Phải phát huy tính tích cực, sáng tạo, khắc phục thiếu sót, nhược điểm.
- Giáo dục trong tập thể và bằng tập thể.
- GD gắn với đời sống XH và thực tiễn của đất nước và địa phương.
- Liên kết ba môi trường nhà trường – gia đình – xã hội trong giáo
dục sinh viên.
- Tôn trọng nhân cách của sinh viên.
1.4. Đặc điểm quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên trường
đại học
1.4.1. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên trường
đại học
Quản lý nội dung hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên bao gồm: Giáo
dục chính trị, tư tưởng đạo đức. Đó là giáo dục cho sinh viên thế giới quan khoa
học, trên cơ sở thế giới quan khoa học, cần tăng cường giáo dục tư tưởng cách
mạng CNXH cho sinh viên, giáo dục ý thức lao động, giáo dục pháp luật, kỷ luật,
20
giáo dục tình yêu thương con người và ứng xử có văn hóa. Giáo dục đạo đức
trong các mối quan hệ xã hội đó là quan hệ giữa cá nhân với xã hội, quan hệ giữa
cá nhân với lao động, quan hệ giữa cá nhân với bản thân, quan hệ giữa cá nhân
với người khác.
Để quản lý hoạt động GDĐĐ cho sinh viên đạt hiệu quả thì những
người làm công tác giáo dục phải thực hiện tốt chức năng quản lý hoạt động
GDĐĐ, đó là:
1.4.1.1. Lập kế hoạch hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên.

- Kế hoạch hóa quản lý hoạt động GDĐĐ cho sinh viên là chức năng cơ
bản nhất trong các chức năng quản lý, bao gồm xác định mục tiêu GDĐĐ cho
sinh viên, xây dựng chương trình hành động và có những bước cụ thể nhằm đạt
được mục tiêu trong một thời gian nhất định của hệ thống quản lý giáo dục, đó là:
+ Xác định mục tiêu, phân tích thực trạng của đơn vị. Xác định một bộ máy
hợp lý, cấu trúc tối ưu trong nhà trường.
+ Dự báo đánh giá triển vọng, lựa chọn và phân công cán bộ vào các nhiệm
vụ trên cơ sở tính toán kỹ càng đúng người đúng việc, phù hợp với khả năng của
mỗi cá nhân để phát huy được năng lực của mỗi người.
+ Xác định cơ chế quản lý bao gồm các chủ trương, chính sách đối với
CBGV trong nhà trường, khuyến khích động viên CBGV tham gia hoạt động
GDĐĐ cho sinh viên.
- Lập kế hoạch quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên: là tìm
hiểu thực trạng đạo đức của người học, so sánh với các chuẩn mực đạo đức, đánh
giá các yếu tố môi trường bên trong và bên ngoài tác động đến đạo đức của sinh
viên, chỉ ra mục tiêu, dự kiến nguồn lực và đề xuất các biện pháp quản lý thực
hiện mục tiêu.
- Kết quả của khâu kế hoạch hóa quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
sinh viên phải đạt được sự thống nhất cao trong các trường đại học về bản kế
hoạch năm học công tác GDĐĐ cho sinh viên, đó chính là một trong những nội
dung cơ bản của QLHĐGDĐĐ cho sinh viên.
21
1.4.1.2. Tổ chức các hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên.
Tổ chức hoạt động giáo dục đạo đức là giai đoạn thực hiện hóa những ý
tưởng đã được kế hoạch hóa; là sự sắp đặt những con đường, những công việc
một cách khoa học, hợp lý; là sự phối hợp các tác động bộ phận để tạo ra tác động
tích hợp mà hiệu quả của nó lớn hơn nhiều so với tổng số các hiệu quả của các tác
động thành phần.
Ở giai đoạn này phải thực hiện các hoạt động: người quản lý phải thông
báo kế hoạch, chương trình hành động hoạt động GDĐĐ cho sinh viên đến từng

CBQL, GV, SV để các thành viên trong trường tự giác chấp hành kế hoạch và tự
nguyện hành động theo kế hoạch; xác định cơ cấu bộ máy, bố trí các bộ phận và
cá nhân cho đúng người đúng việc; quy định chức năng quyền hạn, trách nhiệm
cho từng người, từng bộ phận; tiếp nhận và phân phối các nguồn lực (nhân lực, tài
lực, vật lực) theo cấu trúc bộ máy; xác lập cơ chế phối hợp giữa các bộ phận và
các thành viên, thiết lập các mối quan hệ quản lý, cơ chế thông tin, tạo sự phối
hợp đồng bộ thống nhất trong hoạt động của bộ máy quản lý nhằm đạt được mục
tiêu GDĐĐ cho sinh viên đã đề ra.
1.4.1.3. Chỉ đạo hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên.
Chỉ đạo hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên là chức năng thể
hiện năng lực của người lãnh đạo. Sau khi hoạch định kế hoạch và sắp xếp tổ
chức, người lãnh đạo phải điều khiển cho hệ thống hoạt động nhằm thực hiện
mục tiêu đã đề ra.
Đây là quá trình sử dụng quyền lực quản lý để tác động đến đối tượng bị
quản lý (con người, các phòng ban chức năng, các khoa, tổ chức đoàn thể) một cách
có chủ đích nhằm phát huy hết tiềm năng của họ hướng vào việc thực hiện kế hoạch
và điều hành nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động GDĐĐ cho sinh viên diễn ra trong
kỷ cương trật tự. Người điều khiển hệ thống phải là người có tri thức và kỹ năng ra
quyết định và tổ chức thực hiện quyết định.
- Nội dung của chỉ đạo gồm: Chỉ huy, ra lệnh, động viên, khuyến khích
thường xuyên và kịp thời, theo dõi và giám sát, điều chỉnh, sửa chữa, chỉnh lý
bổ sung.
22
1.4.1.4. Kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên.
- Kiểm tra hoạt động giáo dục đạo đức là chức năng xuyên suốt quá trình
quản lý, nhưng thực hiện tập trung cao nhất ở giai đoạn cuối cùng của quá trình
quản lý. Nội dung của kiểm tra gồm: đánh giá tiến độ, tốc độ, nhịp độ của quá
trình QLHĐGDĐĐ cho sinh viên so với kế hoạch; xác định chính xác kế hoạch
đạt được so với mục tiêu đã đề ra, phát hiện những lệch lạc, sai sót cũng như
nguyên nhân của chúng; phát hiện những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn cần

tiếp tục giải quyết; rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc quản lý hoạt động
GDĐĐ cho sinh viên tiếp theo, cụ thể như sau:
+ Cách kiểm tra: kiểm tra từ trên xuống của các tổ chức quản lý, kiểm tra
qua các bài thi tìm hiểu, kiểm tra qua quan sát, kiểm tra qua các hoạt động.
+ Tổng kết đánh giá: Đánh giá thi đua, khen thưởng theo nhiều mức độ
khác nhau.
+ Rút kinh nghiệm, tìm ra phương pháp quản lý tốt, chưa tốt, bổ sung điều
chỉnh kế hoạch quản lý HĐGDĐĐ cho sinh viên ở những năm học sau.
- Kiểm tra hoạt động giáo dục đạo đức: là thu thập thông tin, đánh giá và
đưa ra các quyết định để điều chỉnh hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên trong
trường. Có thể mô hình hóa mối quan hệ giữa các chức năng quản lý như sau:

Sơ đồ 1.2: Mối quan hệ giữa những chức năng quản lý
23
Kế hoạch
Chỉ đạo
Kiểm tra Tổ chức
Thông tin
14.2. Phương pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên
trường đại học
1.4.2.1. Phương pháp hành chính – pháp luật: Là phương pháp tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp của chủ thể quản lý lên các đối tượng bị quản lý
bằng mệnh lệnh hành chính dứt khoát, bắt buộc như Nghị quyết, nghị định,
văn bản quy chế, quy định. Quan hệ ở đây là quan hệ giữa quyền uy và phục
tùng, cấp trên ra lệnh và cấp dưới buộc phải chấp hành. Phương pháp hành
chính - pháp luật là tối cần thiết trong quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
sinh viên thông qua việc thể hiện sự bắt buộc trong tổ chức bộ máy bao gồm
sự phân công, phân cấp, phân quyền, giữa các lực lượng tham gia quản lý và
thể hiện sự bắt buộc trong quản lý thông qua việc phục vụ, xây dựng và giữ
gìn kỷ cương, nền nếp của quy trình QLHĐGDĐĐ cho sinh viên. Tuy nhiên,

khi sử dụng phương pháp này cần chú ý nếu lạm dụng nó quá nhiều thì sẽ dẫn
đến tình trạng hành chính quan liêu, mệnh lệnh.
1.4.2.2. Phương pháp kinh tế
Đây là phương pháp mà chủ thể quản lý tác động gián tiếp đến đối
tượng quản lý (cán bộ quản lý, giảng viên, sinh viên) dựa trên các lợi ích vật
chất và các đòn bẩy kinh tế làm cho đối tượng quản lý suy nghĩ đến lợi ích
của mình, tự giác thực hiện bổn phận và trách nhiệm một cách tốt nhất mà
không phải đôn đốc nhắc nhở nhiều về mặt hành chính mệnh lệnh của chủ thể
quản lý. Những kích thích về mặt vật chất như: các thang lương, bậc lương,
điều kiện sinh hoạt, tiền thưởng; về mặt tinh thần như phong danh hiệu thi
đua; giới thiệu đi học các lớp nâng cao nhận thức về Đảng Cộng sản Việt
Nam, các lớp lý luận chính trị, kết nạp vào Đảng,…Tuy nhiên, cần lưu ý trong
quá trình kết hợp các kích thích vật chất và tinh thần trong quá trình quản lý,
quá coi trọng kích thích vật chất sẽ làm tầm thường hóa con người, và cũng
không phù hợp với môi trường giáo dục, ngược lại, nếu quá coi trọng tinh
thần sẽ rơi vào chủ nghĩa duy ý chí
24
1.4.2.3. Các phương pháp tâm lý – xã hội
Đặc điểm của phương pháp này là sự kích thích đối tượng quản lý sao
cho họ luôn toàn tâm toàn ý cho công việc, coi những mục tiêu, nhiệm vụ
quản lý như là những mục tiêu và công việc của chính họ, hơn nữa họ luôn cố
gắng học hỏi, tích lũy kinh nghiệm ngày càng tốt hơn, đoàn kết giúp đỡ nhau
hơn để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Trong quản lý giáo dục nói chung, quản lý hoạt động GDĐĐ cho sinh
viên nói riêng phương pháp này được sử dụng nhiều do đặc điểm của môi
trường hoạt động giáo dục và tính hiệu quả của nó. Đặc trưng của phương
pháp này là tính thuyết phục, làm cho con người hiểu đúng – sai; phải – trái;
thiện – ác,…để từ đó nâng cao tính tự giác, yên tâm, phấn khởi làm việc và sự
gắn bó với tổ chức.
1.4.3. Vai trò của QLHĐGDĐĐ cho sinh viên đại học

1.4.3.1. Vai trò của hoạt động giáo dục đạo đức trong việc thực hiện
mục tiêu giáo dục đại học
Mục tiêu của giáo dục đại học là:
Đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ
nhân dân, có kiến thức và năng lực hành nghề tương xứng với trình độ đào
tạo, có sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc [23, tr29].
Giáo dục cho người học phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thẩm
mỹ, thể chất và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng
động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN.
Hoạt động giáo dục đạo đức có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc
thực hiện mục tiêu giáo dục đại học vì:
- HĐGDĐĐ là con đường cơ bản, chủ yếu để hình thành và phát triển
nhân cách toàn diện và đầy đủ. Sự phát triển của nhân cách con người gồm
các mặt về thể chất, về tâm lý và về xã hội.
25

×