LỜI MỞ ĐẦU
gân sách nhà nước đóng một vai trò vô cùng quan trọng không chỉ đối với sự phát
triển kinh tế nước ta mà còn đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.. Vào dịp đầu
năm chính phủ mỗi nước đều tổ chức một cuộc họp thường niên nhằm tổng kết tài
chính đã phân bổ - chi tiêu trong năm vừa qua, đồng thời báo cáo về tình hình ngân
sách và phân bổ ngân sách cho các bộ ngành trong năm tới. Tại cuộc họp thường niên này, việc
tăng nguồn thu cho NSNN (chủ yếu dựa vào các chính sách thuế và xuất khẩu) cũng được đề cập
đến. Dựa vào việc đầu tư - phân bổ - tài chính báo cáo mà chúng ta có thể biết được chiến lược
phát triển kinh tế trong những năm tới. Thực tế, các cường quốc kinh tế trên thế giới đều có một
chính sách thu ổn định, đồng thời chi tiêu ngân sách hợp lý. Điều này thể hiện tầm quản lý vĩ mô
nền kinh tế của Nhà nước.
N
Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
việc từ bỏ nguyên tắc quản lý trực tiếp theo kiểu “cấp phát và giao nộp” đối với khu vực kinh tế
quốc doanh và các cơ quan Nhà nước, đã tạo điều kiện cho NSNN đảm nhận vai trò quản lý vĩ mô
đối với toàn bộ nền kinh tế – xã hội. Thu NSNN nói một cách đơn giản chính là công tác lập quỹ
NSNN, từ đó NSNN có thể chi cho các hoạt động của mình, thực hiện được vai trò của mình. Do
đó có thể nói thu NSNN là một công tác rất quan trọng, nó quyết định việc thực hiện các vai trò
của NSNN nói chung cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến các khoản chi NSNN nói riêng.
Sau đây là bài thảo luận của nhóm 2 với đề tài: “Thực trạng việc áp dụng các nguyên tắc
thiết lập hệ thống thu NSNN ở nước ta giai đoạn hiện nay.Một số giải pháp chống thất thu NSNN”.
Bài làm gồm có 3 phần chính:
Phần I: Lý luận chung về thu Ngân sách nhà nước.
Phần II: Thực trạng việc áp dụng các nguyên tắc thiết lập hệ thống thu Ngân sách nhà
nước của nước ta giai đoạn hiện nay.
Phần III: Một số giải pháp chống thất thu ngân sách.
Page 1 of 20
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I - Ngân sách nhà nước:
1. Ngân sách nhà nước là gì?
Ngân sách nhà nước (NSNN) là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa nhà nước với các chủ thể
trong xã hội dưới hình thái giá trị, phát sinh trong quá trình nhà nước tạo lập, phân phối và sử dụng
quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước nhằm đảm bảo cho việc thực hiện các chức năng của
nhà nước về mọi mặt.
2. Đặc điểm của Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính quốc gia. Nó bao gồm những
quan hệ tài chính nhất định trong tổng thể các quan hệ tài chính quốc gia, cụ thể:
• Quan hệ tài chính giữa nhà nước và công dân;
• Quan hệ tài chính giữa nhà nước với doanh nghiệp;
• Quan hệ tài chính giữa nhà nước với tổ chức xã hội;
• Quan hệ tài chính giữa nhà nước với quốc tế.
Hoạt động thu chi của NSNN luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế - chính trị của nhà nước,
và việc thực hiện các chức năng của nhà nước, được nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ
nhất định;
Hoạt động NSNN là hoạt động phân phối lại các nguồn tài chính, nó thể hiện ở hai lãnh vực
thu và chi của nhà nước;
NSNN luôn gắn chặt với sở hữu nhà nước, luôn chứa đựng những lợi ích chung, lợi ích công
cộng;
NSNN cũng có những đặc điểm như các quỹ tiền tệ khác. Nét khác biệt của NSNN với tư
cách là một quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, nó được chia thành nhiều quỹ nhỏ có tác dụng
riêng, sau đó mới được chi dùng cho những mục đích đã định;
Hoạt động thu chi của NSNN được thực hiện theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ
yếu
3.Vai trò của Ngân sách nhà nước
• NSNN là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Page 2 of 20
• NSNN là công cụ để điều tiết vĩ mô nền kinh tế-xã hội:
• Là công cụ để dịnh hướng sản xuất kinh doanh xác lập cơ cấu kinh tế hợp lý của nền kinh tế
quốc dân.
• Là công cụ để điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và kiểm soát lạm phát.
• Là công cụ để điều tiết thu nhập giữa các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư nhằm
đảm bảo công bằng xã hội.
II - Thu Ngân sách nhà nước
1. Khái niệm, đặc điểm, và vai trò của thu NSNN:
a, Khái niệm:
Thu NSNN là việc nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần nguồn tài chính
quốc gia hình thành quỹ NSNN nhằm thoả mãn các nhu cầu của Nhà nước.
Thu ngân sách là một hoạt động cơ bản của NSNN. Về mặt bản chất, thu NSNN là hệ thống
các quan hệ phân phối dưới hình thái giá trị phát sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực
hính trị tập trung các nguồn lực tài chính trong xã hội để hình thành quỹ tiền tệ tập trung quan
trong nhất của Nhà nước.
b, Đặc điểm thu NSNN
Thứ nhất, nguồn tài chính được tập trung vào NSNN là những khoản thu nhập của Nhà nước
được hình thành trong quá trình Nhà nước tham gia phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị.
Thu NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình phân chia các nguồn tài chính
quốc gia giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội. Sự phân chia đó là một tất yếu khách quan,
xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy Nhà nước cũng như yêu cầu thực hiện các
chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Đối tượng phân chia là nguồn tài chinh quốc gia là kết
quả do lao động sản xuất trong nước tạo ra được thể hiện dưới hình thức tiền tệ.
Thứ hai, về mặt nội dung, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị
nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia
hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước
Cuối cùng, một đặc điểm quan trọng nữa của thu NSNN là nó gắn chặt với thực trạng kinh tế
và sự vận động của các phạm trù giá trị như giá cả, lãi suất, thu nhập… Ví dụ: khi giá cả tăng =>
thu giảm; thu nhập tăng => thu tăng; tỷ giá tăng => thu tăng; lãi suất tăng ( giảm đầu tư ) => thu
giảm…vv. Sự vận động của các phạm trù đó vừa tác động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra
yêu cầu nâng cao tác dụng điều tiết cuả các công cụ thu NSNN.
Page 3 of 20
c, Cơ cấu thu NSNN
Thu trong cân đối NSNN là các khoản thu nằm trong hoạch định của Nhà Nước nhằm cân
đối ngân sách. Các khoản này bao gồm: thuế, lệ phí, lợi tức của nhà nước, thu tiền bán hoặc cho
thuê tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước và các khoản thu khác.
Thu ngoài cân đối ngân sách hay còn gọi là thu bù đắp thiếu hụt ngân sách. Trong tình trạng
NSNN bị bội chi thì Nhà nước phải có giải pháp bù đắp lại phần thâm hụt đó, vì không thể để tình
trạng ngân sách mất cân đối kéo dài. Thu bù đắp thiếu hụt ngân sách thức chất là vay để bù đắp,
bao gồm vay trong nước và vay nước ngoài. Vay trong nước được tiến hành qua việc phát hành
công trái, trái phiếu chính phủ….để huy động lượng tiền nhàn rỗi trong nhân dân. Vay nước ngoài
được thực hiện qua vay nợ nước ngoài hay nhận các khoản viện trợ nước ngoài của các Chính
Phủ,các tổ chức phi tài chính quốc tế.
d, Vai trò:
Như chúng ta đã biết, NSNN có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế – xã
hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Và có thể nói rằng thu NSNN chính là việc tạo
lập quỹ NSNN, từ đó NSNN mới có khả năng phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ này nhằm thực
hiện các chức năng của Nhà nước. Có thu thì mới có chi, thu phải tốt thì chi mới có thể tốt, vậy nên
có thể khẳng định thu NSNN có vai trò đặc biệt quan trọng.
2. Nguồn thu, các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn thu NSNN và phân loại các khoản thu
NSNN:
a, Nguồn thu Ngân sách nhà nước:
Thu NSNN bao gồm :
- Thuế, lệ phí, phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp luật.
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước như :
+ Thu nhập từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế.
+ Tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế.
+ Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước ( cả gốc và lãi ).
- Thu từ các hoạt động sự nghiệp.
- Thu tù bán hoặc cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu Nhà nước
- Thu từ vay nợ và viện trợ không hoàn lại của chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân nước
ngoài, từ đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhận trong và ngoài nước.
- Thu khác: như thu từ phạt, tịch thu, tịch biên tài sản …
Page 4 of 20
b, Những nhân tố ảnh hưởng đến nguồn thu và mức động viên nguồn thu vào NSNN:
Một vấn đề hết sức quan trọng trong thu NSNN là việc xác định mức động viên và lĩnh vực
động viên một cách đúng đắn, hợp lý. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến số thu NSNN mà còn tác
động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Mức động viên và lĩnh vực động viên lại
chịu tác động của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia. Các nhân tố ảnh hưởng đến
thu NSNN cần phải kể đến là:
* Thu nhập GDP bình quân đầu người:
Là một chỉ tiêu phản ánh khả năng tăng trưởng và phát triển của một quốc gia,phản ánh khả
năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước.GDP bình quân đầu người là một nhân tố khách
quan quyết định mức động viên của NSNN, vì vậy khi ấn định mức động viên vào ngân sách, Nhà
nước cần cân nhắc chỉ tiêu này.
* Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế:
Phản ánh hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế, quyết định đến việc nâng cao tỷ suất thu NSNN,
tỷ suất doanh lợi càng lớn thì nguồn tài chính càng lớn. Dựa vào tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế
để xác định tỷ suất thu NSNN sẽ tránh được việc động viên vào NSNN gây khó khăn cho hoạt
động kinh tế. Hiện nay lợi nhuận trong nền kinh tế nước ta đạt thấp, chi phí tiền lương lại cao nên
tỷ suất doanh lợi chưa thể cao được.
* Tiềm năng đất nước về tài nguyên thiên nhiên:
Tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên càng lớn càng có ảnh hưởng tới thu NSNN . Thực tế
cho thấy nếu tỷ trọng của nước nào xuất khẩu dầu mỏ và khoáng sản chiếm 20% kim ngạch xuất
khẩu trở lên thì tỷ suất thu NSNN sẽ cao và có khả năng tăng nhanh. Nước ta cũng là một nước có
khối lượng xuất khẩu dầu mỏ và khoáng sản lớn trong tương lai, đó là nhân tố có ảnh hưởng lớn
đến nâng cao tỷ suất thu NSNN.
* Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước:
- Nhân tố này phụ thuộc vào:
• Quy mô tổ chức của bộ máy Nhà nước và hiệu quả hoạt động của nó.
• Những nhiệm vụ kinh tế – xã hội mà Nhà nước đảm nhận trong từng thời kỳ.
• Chính sách sử dụng kinh phí của Nhà nước.
- Khi các nguồn tài trợ khác cho chi phí Nhà nước không có khả năng tăng lên, chi phí Nhà nước
lại tăng sẽ làm tăng tỷ suất thu NSNN.
* Cách thức tổ chức bộ máy thu nộp NSNN :
Page 5 of 20
Tổ chức bộ máy thu nộp gọn nhẹ, đạt hiệu quả cao chống được thất thu do trốn, lậu thuế sẽ
là nhân tố tích cực làm giảm tỷ suất thu NSNN mà vẫn đáp ứng nhu cầu chi tiêu của NSNN.
=> Tóm lại để có mức thu đúng đắn có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cần phải có sự phân
tích đánh giá tỷ mỷ, cụ thể những nhân tố tác động đến nó trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
và phải được xem xét một cách toàn diện.
c, Phân loại thu NSNN:
Việc phân loại các khoản thu NSNN có ý nghĩa thiết thực trong việc phân tích, đánh giá và
quản lý các nguồn thu NSNN. Có hai cách phân loại phổ biến là:
Phân loại theo nội dung kinh tế:
+ Nhóm thu thường xuyên có tính chất bắt buộc, gồm thuế, phí, lệ phí với nhiều hình thức cụ thể
do luật định.
+ Nhóm thu không thường xuyên bao gồm các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước, thu
từ hoạt động sự nghiệp, thu tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước và các khoản thu
khác đã kể ở trên.
- Phân loại theo yêu cầu động viên vốn vào NSNN:
+ Thu trong cân đối NSNN bao gồm các khoản thu thường xuyên và thu không thường xuyên.
+ Thu bù đắp thiếu hụt NSNN: khi số thu NSNN không đáp ứng được nhu cầu chi tiêu và Nhà
nước phải vay, bao gồm vay trong nước tù các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế – xã hội, vay từ
nước ngoài.
3. Chính sách, chế độ thu NSNN:
a, Quan điểm xây dựng chính sách, chế độ thu NSNN:
- Phải chú trọng kết hợp tốt việc khai thác, huy động các nguồn tài chính vào NSNN với việc bồi
dưỡng, phát triển các nguồn tài chính.
- Phải coi nâng cao năng suất lao động xã hội, năng suất lao động của từng doanh nghiệp và tiết
kiệm là con đường cơ bản để tạo vốn, để tăng thu NSNN.
- Phải thực hiện toàn dân tạo vốn: Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và dân cư nhằm
tăng trưởng kinh tế. Không chỉ dựa vào nguồn vốn NSNN mà còn phải dựa vào vốn của doanh
nghiệp, vốn tiết kiệm trong dân cư.
b Nguyên tắc xây dựng chính sách, chế độ thu NSNN:
* Nguyên tắc ổn định và lâu dài:
Page 6 of 20
- Trong những điều kiện hoạt động bình thường thì phải cẩn ổn định mức thu, ổn định các sắc thuế
không được gây xáo trộn lớn trong hệ thống thuế; đồng thời tỷ lệ động viên của nhà nước phải
thích hợp, đảm bảo kích thích nền kinh tế tăng trưởng, nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu.
- Để thực hiện được nguyên tắc này đòi hỏi phải có sự lụa chọn đối tượng tính thuế sao cho đối
tượng đó ít có sự biến động.
- Ý nghĩa:
+ Thuận lợi cho việc kế hoạch hóa NSNN.
+ Tạo điều kiện để kích thích người nộp thuế cải tiến, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh
doanh.
* Nguyên tắc đảm bảo tính công bằng:
- Việc thiết lập hệ thống thuế phải có quan điểm công bằng đối với mọi người chịu thuế, không
phân biệt địa vị xã hội, thành phần kinh tế.
- Việc thiết kế hệ thống thuế chủ yếu dựa trên khả năng thu nhập của người chịu thuế. Để đảm bảo
được nguyên tắc công bằng trong thiết kế hệ thống thuế phải thiết kết hợp giữa sắc thuế trực thu
với sắc thuế gián thu.
* Nguyên tắc rõ ràng, chắc chắn:
- Trong thiết kế hệ thống thuế các điều luật của các sắc thuế phải rõ ràng, cụ thể ở từng mức thuế,
cơ sở đánh thuế…để tránh tình trạng lách luật, trốn thuế. Hơn nữa việc sửa chữa, bổ sung các điều
khoản trong sắc thuế ko phải lúc nào cũng thực hiện được, cho nên các điều khoản trong luật phải
bao quát và phù hợp với các hoạt động của nền kinh tế xã hội.
- Ý nghĩa: đảm bảo được nguyên tắc này giúp cho việc tổ chức chấp hành luật thống nhất, tránh
được tình trạng lách luật trốn thuế.
* Nguyên tắc đơn giản:
- Cần hạn chế số lượng thuế suất, xác định rõ mục tiêu chính, không đề ra quá nhiều mục tiêu trong
một sắc thuế.
- Có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai luật thuế vào thực tiễn, tránh được
những tiêu cực trong thu thuế.
Page 7 of 20
PHẦN II
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC THIẾT
LẬP HỆ THỐNG THU NGÂN SÁCH NƯỚC TA HIỆN
NAY
I. Thực trạng
Trong thời gian qua, thu ngân sách góp
phần củng cố và tăng cường tiềm lực tài
chính Nhà nước. Thu ngân sách không những
đã đảm bảo đủ nguồn thu cho chi tiêu thường
xuyên của chính phủ mà còn để dành ra một
phần tích luỹ cho đầu tư phát triển. Số thu
ngân sách, theo giá hiện hành, đã tằn 7.7 lần
từ năm 1991 đến năm 2000. Trong đó số thu
từ thuế là lớn và chiếm tỷ trọng cao trong
tổng thu NSNN. Bình quân thu từ thuế, phí và lệ phí chiếm khoảng 95 % trong tổng số thu. Cụ thể
chúng ta sẽ tìm hiểu qua một chút về những chỉ tiêu đã đạt được trong trong giai đoạn 2005 - 2009:
* Năm 2005
Tổng dự toán cân đối thu NSNN năm 2005 là 183.000 tỷ đồng. Dự toán thu nội địa ( không
kể dâu thô) năm 2005 tăng 13,6%, trong đó thu từ khu vực DN nhà nước tăng 12,3%, thu từ khu
Page 8 of 20