Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Nguyễn Việt Hà, nhà văn trẻ đã cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay với nhan đề thật ấn tượng: "Cơ Hội Của Chúa",

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.76 KB, 72 trang )

DẪN NHẬP
Nguyễn Việt Hà, nhà văn trẻ đã cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay với nhan
đề thật ấn tượng: "Cơ Hội Của Chúa", một tác phẩm ăn khách và gây xôn xao
dư luận nhất từ sau giải phóng đến nay. Kẻ khen cũng nhiều, người chê cũng
không thiếu. Riêng tôi khi đọc xong "Cơ Hội Của Chúa", tôi có cảm tưởng: xã
hội, cuộc sống, con người, văn hóa, đạo đức, nhân sinh. kể cả niềm tin tôn giáo
của dân tọc Việt Nam đã và đang bị đảo lộn tất cả. Mọi giá trị, mọi lãnh vực
cuộc sống đều được tác giả đem ra mổ xẻ một cách thẳng thắn, đôi khi đến
trắng trợn, khiến độc giả phải cật vấn chính mình và đặt lại giá trị cho cuộc
sống mình trong thời buổi kinh tế thị trường và xu hướng toàn cầu hóa hôm
nay. Nhất là cuộc sống của giới trẻ, dường như họ bị mất phương hướng, mất
hết ý nghĩa cuộc đời, đánh mất tình cảm thiêng liêng, và cả cái nền tảng đạo
đức tâm linh thăm thẳm. Khi không còn niềm tin tôn giáo sâu xa để bám trụ
vào, cuộc sống con người chỉ còn là những tháng ngày trống rỗng buông trôi,
hoặc cuống cuồng chạy theo cái bát nháo xô bồ của một xã hội hưởng thụ và
tiêu thụ, của nền văn minh vật chất đổi trao thời mở cửa. Một khi vật chất
được lên ngôi, thì mọi thứ đều được đem ra trao đổi, ngay cả tình yêu và
những giá trị tinh thần cao quý nhất cũng được đánh giá qua nhãn quan vật
chất rẻ tiền. Mãnh lực của đồng tiền có thể thay trắng đổi đen, và chân lý cũng
có thể bị lật ngược, nền văn hóa hưởng thụ có thể làm đảo lộn mọi thứ, như
tác giả nhận định: "Ở thời gọi là kinh tế thị trường, cái xấu cái tốt đều hiện hữu
bằng khuôn mặt rất thực". Ngay cả nhân phẩm, đạo đức của một con người
cũng được cân đong qua giá trị của đồng tiền: "Muốn biết rõ về ai nên nhúng
người ấy nhiều lần vào tiền, cái dung dịch siêu thượng này làm trôi đi tất cả
những màu mè bọc ngoài. Ðạo mạo trở nên hau háu lỗ mãng. Dịu dàng trở nên
chua ngoa cướp giật. Lịch sử nhân loại chứng kiến số người tự tử vì tiền gấp
mười tám lần số người tự tử vì tình"
[1]
.
Xã hội Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ hôm nay dường như đã mất đi chỗ
dựa tinh thần cao quý nhất. Sự lạc hướng này là hậu quả của một "thời mở cửa"


tự do, của một xã hội tiêu thụ xả láng", thông tin "giật gân", quảng cáo "mát mẻ",
văn hóa "bạo lực, khiêu dâm". Làm cho giới trẻ bị choáng ngợp và chỉ còn biết đi
tìm "cơ hội" để kiếm tiền, để hưởng thụ, yêu vội, sống cuồng và chạy theo
những cảm giác đam mê. Nếu ai đó còn giữ được một chút tình cảm tâm linh tôn
giáo nào, thì theo tác giả, người đó là những người ủy mị, nhút nhát, và có vẻ
như mang màu sắc mê tín dị đoan. Nói đúng hơn, đó là những con người cùng
cực, đau khổ và thiếu thốn, họ đã bị thất bại trên đường đời, đã đi đến chỗ bế
tắc, cùng đường rồi, nên chỉ còn cách duy nhất là cậy dựa, phó thác hoàn toàn vào
một Thiên Chúa quyền năng nào đó để rồi an phận, ngủ quên trong niềm tin
"khập khiễng" của mình, như lời tác giả nhắc đi nhắc lại hai ba lần trong tác
phẩm: "Sự cùng quẫn cuối cùng của con người là cơ hội của Chúa"
[2]
Theo ý tác
giả, những con người giàu có, đầy đủ, sung túc, dư thừa. không cần đến Chúa, chỉ
những người yếu đuối, đau khổ khốn cùng mới cần đến Chúa mà thôi. Ðiều này
được tác giả khai thác tối đa qua lối sống và cách diễn tả niềm tin của nhân vật
Hoàng, "một con chiên" trí thức ngoan đạo, một "con người thành thật, trong
sáng, không lếu láo",nhưng lại quá nhút nhát, không dám quyết định gì, ngay cả
đến tình yêu và hạnh phúc của mình. Ðể rồi cuối cùng tình yêu tan vỡ, hạnh phúc
cũng bay xa và tương lai thì mù mịt. chỉ còn lại những dằn vặt, khổ đau, nuối tiếc
xót xa, ảo tưởng lê lết trong đời. Vì thế, tác giả đã đưa ra câu kết luận nghe có vẻ
bi quan và chua xót, nhưng đó lại là một sự thật: "Những gì trong sáng quá
thường hay khó tồn tại"
[3]
. Tác giả còn nhận định thêm: "Có phải thế chăng mà
đến thời kinh tế thị trường nền văn minh của chúng ta hết sạch những nhà đạo
đức thật"
[4]
.
Thế kỷ XX đã khép lại, Năm Thánh cũng qua đi, nhân loại bước vào thiên

niên kỷ mới với dáng đi ngạo nghễ như một anh chàng "rô bô" khổng lồ, trong
niềm tự hào về một nền văn minh kỹ thuật hiện đại, tiện nghi, cực nhanh, cực
mạnh, thần kỳ và siêu tốc, nhưng cũng siêu thực dụng, siêu hưởng thụ và siêu
vật chất hóa trong mọi lãnh vực. Tuy nhiên, những sản phẩm khoa học con
người làm ra không thể đáp ứng nhu cầu tâm linh thăm thẳm, không thể thay
thế cho những tình cảm và khát vọng sâu xa thầm kín trong nhịp đập của con
tim. Văn hóa hưởng thụ và khoa học kỹ thuật không thể cứu độ hay giải thoát
con người ra khỏi cái vòng luẩn quẩn, cũng không thể đem lại tự do viên mãn
và hạnh phúc thường lạc cho con người. Có chăng nó chỉ là một tai họa, như
Nguyễn Việt Hà viết: "Con người đi vào thế kỷ XXI bằng tư thế ngã ngửa bởi cái
hích bạo tàn của nề n văn minh kỹ trị được mệnh danh là tiên tiến. Phải chăng, sẽ
là điều ác khi chúng ta quan niệm: con người là sinh vật cao cấp đã biết sử dụng
máy móc"
[5]
. Hẳn thật, chưa bao giờ nhân loại khôn ngoan lanh lợi, biến hóa
thần kỳ như hôm nay. Phải chăng khi mọi thứ đều trở nên sôi động, ồn ào,
mau lẹ, rực rỡ, hào nhoáng, tiện nghi, siêu vi và siêu tốc, thì con người lại đang
rơi vào một thảm họa lan tràn, phổ biến khắp địa cầu, một sự đổ vỡ sâu xa do
chính hậu quả của sự "khôn ngoan", thông thái của con người làm ra! Chưa
bao giờ nhân loại đông đảo, ồn ào, vui nhộn và tự do xiết chặt tay nhau đến
thế, nhưng đồng thời cũng cô đơn trống rỗng biết bao! Chưa bao giờ, nhân
loại đầy đủ, tiện nghi, sung sướng đến thế, nhưng cũng hụt hẫng, bơ vơ và đau
khổ biết chừng nào! Chưa bao giờ con người khôn ngoan, hiểu biết và nắm bắt
mọi sự trên đời đến thế, nhưng cũng bối rối, ngơ ngác và mù mịt về chính
mình như thế! Phải chăng là do con người đã lạc bước trên đường đi, lối về?
Phải chăng là do con người hời hợt trước những giá trị tinh thần, thờ ơ trước
niềm tin tôn giáo, để rồi từ đó cũng đánh mất luôn sự an lạc và hạnh phúc
chân thật?
Ðứng trước thực trạng của thế giới nói chung và của xã hội Việt Nam nói
riêng, đặc biệt là giới trẻ, phải chăng nói đến niềm tin tôn giáo là dư thừa, nói

đến đạo đức tâm linh là chuyện của "người thiên cổ". Như vậy, phải chăng ơn
Cứu độ phổ quát của Ðức Giêsu và con đường Giải thoát của Ðức Phật là vô
nghĩa, không cần thiết cho con người thời đại mới? Phải chăng văn minh vật
chất có thể đem lại hạnh phúc đích thực cho con người? Phải chăng con người
có thể tự mình giải quyết tất cả mọi bế tắc cuộc đời và mọi khát vọng tâm linh
chỉ nhờ vào khoa học kỹ thuật, kinh tế thị trường và văn minh toàn cầu hóa?
Phải chăng Thiên Chúa không còn có "cơ hội" để nhảy vào cuộc sống con
người? Phải chăng, giáo lý cao siêu của Ðức Phật không còn khả năng hóa độ
chúng sinh? Và phải chăng ơn Cứu Ðộ là hão huyền và "Thượng đế đã chết"
như Nitzsche, ông tổ triết gia hiện sinh vô thần đã tuyên bố cách đây hơn một
thế kỷ?
Không ! rất may là sau khi đã phơi trần bộ mặt thật có vẻ bi quan, đổ vỡ của
xã hội Việt nam, nhất là về lối sống của giới trẻ, tác giả như muốn lật ngược lại
thế cờ để khơi lên niềm hy vọng mới. Ðồng thời, tác giả cũng cho thấy niềm tin
tôn giáo và đời sống tâm linh thăm thẳm của con người luôn luôn là một nhu
cầu cấp thiết mà nền văn minh kỹ trị và văn hóa vật chất không thể giải quyết
hay đáp ứng đủ. Cuối cùng, con người vẫn cần đến tôn giáo và không thể
không trở về với tôn giáo để hoàn tất cuộc đời mình. Nhu cầu tâm linh vẫn còn
đó và vai trò của tôn giáo không thể vắng bóng trong cuộc đời con người. Mặc
dầu, từ những cái cụ thể, thực tế trong cuộc đời được tác giả lột tả phơi trần,
khiến ta có cảm tưởng như tác giả có cái nhìn bi quan về tôn giáo và nền đạo
đức tâm linh của xã hội Việt Nam. Nhưng không! đó chính là nỗi niềm ray rứt
của tác giả đang khát khao đi tìm một lối thoát, một ý nghĩa đích thực cho
cuộc đời. Nói đúng hơn, tác giả muốn tìm lại giá trị cuộc sống, muốn đặt niềm
tin tôn giáo trên nền tảng tâm linh vững chắc không bị bóng dáng của vật chất
hay đồng tiền bao phủ chứ không phải đặt trên những giá trị vật chất bọt bèo.
Dẫu biết rằng, trên đường đi tìm chân lý, khi phải đối diện với thực tế, con
người có thể bị bầm dập, khốn cùng, nhưng có như vậy giá trị nhân bản tâm
linh mới cao quý, niềm tin mới sâu sắc và trong sáng hơn, như lời tác giả nhận
định: " Khi đối diện với bất hạnh, con người ta trở nên gần Chúa. Ở người công

chính, nỗi bất hạnh càng lớn, đức tin càng sâu sắc"
[6]
. Ðiều đó thật hiển nhiên,
vì: "Mỗi người có một đức tin không thể chuyển trao được. và Thiên Chúa luôn
đến với con người trong những lúc thiếu thốn, đau khổ, cô đơn."
[7]
. Do đó, nếu
con người chỉ thật sự là người trong thế giới loài người, thì con người cũng chỉ
thật sự sống sung mãn và hoàn thành bản thân mình trong một tôn giáo. Nếu
không còn tôn giáo, con người sẽ mất đi cái điểm tựa và mục tiêu tối hậu của
cuộc đời, để rồi họ chỉ còn biết loay hoay trong cõi đời ô trọc, chẳng biết đi về
đâu: "Rời bàn tay Chúa, con người ta loay hoay tìm cái hoàn thiện bản thân
mình. Nói một cách khác, loay hoay đi tìm phần linh thể mà Thiên Chúa đã ban
cho ngay từ hồi còn oe oe khóc"
[8]
.
Chỉ có sự thật, chỉ có chân lý mới giải thoát con người (x. Ga 8, 32), chỉ
trong tôn giáo con người mới được Cứu độ và tự do đích thực. Quả vậy, đến với
Phật giáo và Kitô giáo, con người sẽ tìm được câu trả lời cho những thắc mắc đã
từng làm nhức nhối trái tim mình, sẽ tìm thấy giá trị và ý nghĩa cho cuộc đời, sẽ
hóa giải được nhưng nỗi khổ đau ràng buộc vây kín con người trong nghiệp
chướng, luân hồi sinh tử, nơi bể khổ và tội lỗi trần gian. Mặc dù đây là hai con
đường khác nhau nhưng đều đem lại ơn Cứu Ðộ và Giải Thoát cho hàng triệu
triệu con người trên thế giới. Cũng như đã, đang và sẽ còn làm say mê biết bao
trái tim đang khát khao tìm về cõi phúc chân thật. Ðiều đó chứng minh rằng chỉ
trong tôn giáo con người mới có câu trả lời thỏa mãn cho vận mệnh của mình.
I. GIẢI THOÁT THEO PHẬT GIÁO
1/ Giải thoát quan trong Triết học, Tôn giáo Ấn độ
Ðược Giải thoát hay Cứu độ đó là khát vọng căn bản, sâu xa và thiết thực
nhất của con người mọi thời mọi nơi. Thật vậy, "tất cả các tôn giáo, bất luận thuộc

hình thái nào, đều lấy yêu cầu giải thoát làm bối cảnh"
[9]
. Tuy nhiên, dù cùng chủ
trương giải thoát nhưng không phải tất cả các tôn giáo đều đồng quan điểm với
nhau về nội dung giải thoát.
Nếu như ta đã từng sống hay có dịp tiếp xúc với những người dân quê,
vùng sâu vùng xa, những người suốt ngày phải"đầu tắt mặt tối", "chân lấm tay
bùn", vật lộn với miếng cơm manh áo trên "đồng chua nước mặn", trên "mảnh
đất cày lên sỏi đá", thì thử hỏi giải thoát đối với họ là gì? Có lẽ họ sẽ trả lời ngay
mà không cần suy nghĩ hay lý luận sâu xa: Giải thoát là bước ra khỏi cảnh đời cơ
cực, lầm than, nghèo đói. Giải thoát là cơm ăn áo mặc, là không còn áp bức bất
công, cũng như không phải sợ hãi phập phồng trước trăm ngàn đe dọa của bệnh,
chiến tranh, của những quyền lực thiên nhiên huyền bí, hay những áp lực vô
hình trên mạng sống con người. Cao hơn một chút, giải thoát là được tự do, ấm
no và hạnh phúc, được học hành, vui chơi giải trí lành mạnh, cũng như được
thỏa mãn những nhu cầu cần thiết về sinh hoạt tâm linh, tôn giáo... Thật vậy, đối
với những người nghèo khổ, bệnh tật; những con người bần cùng trong xã hội,
thì ước mơ giải thoát lớn nhất của họ không gì khác hơn là thoát khỏi mọi lo âu,
bệnh tật, nghèo đói và áp bức bất công luôn luôn đè nặng trên tâm tư, tình cảm
và đôi vai nhỏ bé của mình. Chính những nỗi cơ cực, thống khổ đó đã thôi thúc
con người muốn vươn lên, ước mơ một cuộc sống tự do, an vui và hạnh phúc
trường tồn. Từ đó hình thành nên những tư tưởng giải thoát trong triết học và
tôn giáo khác nhau, ban đầu còn thô sơ thấp kém, thuần tự nhiên, nhưng dần
dần nó được hình thành một cách có hệ thống và hướng tới chiều kích tâm linh
siêu việt, vượt xa cái quan niệm bình dân thông thường.
Nếu chúng ta muốn tìm đến một quan niệm giải thoát có nền tảng sâu xa,
chắc chắn chúng ta phải trở về với đất nước Ấn Ðộ cổ kính, với một nền văn hóa
tâm linh lâu đời mà cao vút như dãy Himalaya sừng sững ngất trời quanh năm
tuyết trắng. Chính nơi đây đã sản sinh ra những quan niệm giải thoát đầu tiên
cho nhân loại. Chính nơi đây, tư tưởng giải thoát trong triết học và tôn giáo đã

đạt đến đỉnh cao tột cùng, đã trở thành lẽ sống và đạo sống cho con người. Và
cũng chính nơi đây, triết lý giải thoát: "luôn luôn là nguồn suối mãnh liệt, thôi
thúc mọi suy nghĩ, tình cảm và hành động"
[10]
của con người, bao trùm và tham dự
vào mọi chi tiết, mọi ngóc ngách của cuộc đời. Ðồng thời cũng có ảnh hưởng sâu
rộng đến đời sống tinh thần đạo đức, luân lý và xã hội của từng người dân Ấn
Ðộ.
Tư tưởng giải thoát đó đã được hình thành rất sớm, ngay từ thời Véda
(khoảng 1500-1000 TCN), được coi là đại biểu tối cổ cho tư tưởng giải thoát quan
Ấn độ, dù tư tưởng này chưa có hệ thống mạch lạc, rõ ràng. Theo Kinh Véda,
quan niệm giải thoát chủ yếu là "nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là
những đe dọa đến sự sinh tồn, sống chết của con người với những lực lượng thiên
nhiên mạnh mẽ huyền bí với một bên là ý chí, ước vọng muốn vươn lên để khẳng
định sự tồn tại của bản thân con người cầu mong một cuộc sống an lành của những
người dân Ấn độ cổ"
[11]
. Không chỉ cầu xin thần linh phù hộ, ban muôn phúc lộc,
bình an mà họ còn cầu xin cho linh hồn mình sẽ được về trong một thế giới
trường sinh bất tử. Con đường giải thoát đó, theo họ là cầu mong vào sự trợ giúp
của thần thánh hơn là vào sức lực, trí tuệ của riêng mình, người dân Ấn độ tin
rằng họ sẽ được giải thoát nếu họ chu toàn các nghi thức tế tự thần linh. Thần
linh ở đây thường là những lực lượng biểu thị cho sức mạnh tự nhiên hay thiên
nhiên được con người nhân cách hóa hay thần thánh hóa. Có thể nói, tư tưởng
giải thoát trong kinh Véda rất gần với quan niệm giải thoát của người bình dân,
vì vào thời kỳ này đời sống xã họi và nhận thức của con người còn thấp kém.
Phải đợi đến triết lý giải thoát trong Upanishad (khoảng 800-600 TCN) thì ý
nghĩa cao cả và đời sống tâm linh con người mới được phát huy mạnh mẽ.
Theo Upanishad, quan niệm giải thoát được xem như là sự xóa bỏ mọi
ràng buộc của thế giới nhục dục, đưa Tiểu ngã (Atman) hay linh hồn cá biệt hòa

nhập vào Ðại Ngã (Brahman) hay Tinh thần vũ trụ tối cao. Chừng nào chưa giác
ngộ, chưa thực hiện được sự đồng nhất giữa Atman với Brahman thì con người
còn bị ràng buộc trong thế giới giả tưởng, sinh tử luân hồi bất tận bởi nghiệp báo
chi phối
[12]
. Như vậy, Upanishad đã khám phá ra con đường và cách thức giải
thoát mới, dùng lý trí để lý giải những vấn đề nguồn sống của vũ trụ và khám phá
ra bản chất đời sống tinh thần con người. Upanishad quan niệm, linh hồn cá biệt
(Atman), tồn tại vĩnh viễn, tuyệt đối và bất diệt như Tinh thần vũ trụ tối cao
(Brahman). Do đó, giải thoát là làm cho linh hồn bất tử đồng nhất với Ðại ngã tối
cao, nhưng muốn giải thoát linh hồn khỏi luân hồi nghiệp báo đạt tới tình trạng
đồng nhất với Brahman thì con người phải toàn tâm, toàn ý kiên trì tu luyện đạo
đức và tri thức để diệt mọi dục vọng, lo âu, phiền não, xóa bỏ mọi sự ràng buộc
bởi thế giới dục vọng biến ảo vô thường này, nhất là phải suy tư, chiêm niệm nội
tâm "thực nghiệm tâm linh bằng nhận thức trực giác để nhận ra chân bản tính
của vũ trụ" hầu đạt tới chân lý tối thượng tuyệt đối và hòa nhập vào bản thể
tuyệt đối ấy
[13]
.
Tóm lại, tư tưởng giải thoát trong triết học, tôn giáo Ấn Ðộ được bắt
nguồn từ điều kiện tự nhiên nghiệt ngã của đất nước, từ những nỗi thống khổ,
cùng cực của con người và từ sự phân hóa giàu nghèo, phân biệt chủng tộc, giai
cấp quá khắt khe trong xã hội Ấn độ cổ thời. Ðể rồi cuối cùng, triết lý giải thoát
Phật giáo ra đời đã kế thừa, chắt lọc, dung hợp được tất cả những tinh hoa của
nền triết lý giải thoát cổ truyền, và phát triển nó một cách sâu rộng, hoàn chỉnh, vi
diệu hơn, đồng thời cũng độc sáng hơn. Nhờ đó mà, giải thoát quan Phật giáo
trở thành đỉnh cao của tư tưởng giải thoát trong triết học và tôn giáo Ấn Ðộ nói
riêng cũng như của nhân loại nói chung.
Nhưng giải thoát quan Phật giáo là gì? Theo Linh mục Thiện Cẩm: Giải thoát
theo nguyên ngữ tiếng phạn là Moksha, Mukti, cả hai đều bắt nguồn bởi từ

gốc là chữ Muc, có nghĩa là: tự giải thoát, thoát khỏi, tách rời hay từ bỏ cái gì.
Ở thể thụ động có nghĩa là được giải thoát, bị thiếu thốn hay bị tước đi cái gì.
"Giải" có nghĩa là gỡ ra, cởi ra, chia tách ra hay giải thích cho rõ. "Thoát" có
nghĩa là vượt ra khỏi sự trói buộc hay ràng buộc
[14]
. Như vậy, Giải thoát là
trạng thái tinh thầ n con người vượt ra khỏi mọi sự ràng buộc của thế giới vô
thường, là sự diệt hết hay dập tắt mọi ngọn lửa Tham, Sân, Si để đạt tới Niết
Bàn với cái tâm tuyệt đối thanh tịnh, an lạc, không còn vọng động, bất sinh bất
diệt, tự do tự tại bằng con đường tu luyện đạo đức, giữ nghiêm giới luật và tu
luyện tri thức, thiền định, thực nghiệm tâm linh để đạt tới giác ngộ theo Tam
Học: Giới, Ðịnh, Huệ
[15]
.
Chung quy lại, mục đích của Phật giáo là đưa ra những phương tiện để con
người thực hành giải thoát ra khỏi cảnh nô lệ đau thương, tương đối của phận
người, nhờ đó mà con người được an vui, hạnh phúc thực sự. Vì thế: "Nhiệm
vụ, mục đích tối cao của sự giải thoát trong triết lý đạo Phật chính là xóa bỏ sự vô
minh, mê lầm của con người, đạt tới sự giác ngộ, với cái tâm sáng tỏ bản nhiên,
nhận ra chân bản tính của mình và thực tướng của vạn vật, từ đó, dập tắt được
ngọn lửa ái dục, thoát được mọi khổ não của cuộc đời"
[16]
. Ðó là giải thoát,
là Niết Bàn. Tuy nhiên, đây mới chỉ là một vài khái niệm sơ lược, muốn thấu
hiểu sâu xa về con đường giải thoát trong Phật giáo, chúng ta cần bước sang
phần nền tảng đạo lý.
2. Ðạo lý giải thoát trong Phật giáo
Trước hết, chúng ta xác định rằng, giáo lý Ðức Phật chỉ có một, và mục đích
tối cao của Phật giáo là đưa chúng sinh đến cuộc sống tự do, an lạc, giải thoát.
Toàn bộ giáo lý của Ðức Phật đều nhắm vào mục tiêu tối hậu ấy. Có thể nói,

xét về bản chất Phật giáo là Ðạo Thấy Biết; xét về pháp hành là Ðạo Tu Tâm;
xét về mục đích là Ðạo Giải Thoát. Ðạo lý giải thoát ấy được thâu tóm trong
giáo lý Tứ Diệu Ðế và Thập Nhị Nhân Duyên.
a) Tứ Diệu Ðế
Giáo lý đầu tiên Ðức Phật đem ra giảng dạy là Tứ Diệu Ðế, một chân lý nhiệm
mầu, nhưng được trình bày một cánh khoa học và có hệ thống. Mục đích của
Tứ Diệu Ðế cũng như của Ðạo Phật là nhằm giải thoát chúng sanh khỏi mọi
đau khổ, luân hồi sinh tử. Ðây là phương pháp tu chứng tiệm tiến từ thấp lên
cao. Nhờ phương pháp này, Ðức Phật đã độ vô số chúng sinh, chuyển hóa con
người từ vô minh lầm lạc đi đến giác ngộ hoàn toàn. Giáo lý Tứ Diệu Ðế được
coi là thiện pháp tuyệt hảo nhất, nó thâu tóm toàn bộ giáo lý Phật giáo. Tất cả
các pháp môn tu tập khác của Phật giáo đều quy chiếu hay đặt nền trên
đó:"Ví như tất cả dấu chân của loài động vật, đều bị nhiếp trong dấu chân voi, vì
dấu chân này lớn nhất. Cũng vậy, chư hiền giả, tất cả các thiện pháp đều tập
trung trong Tứ Thánh Ðế" (Trung bộ kinh I). Tứ Diệu Ðế gồm có: Khổ, Tập,
Diệt, Ðạo. Các yếu tố này liên kết chặt chẽ với nhau không thể tách rời.
- Khổ Ðế: (Dukkha): thực trang đau khổ của cuộc đời.
Hầu hết các dịch giả đều dịch Diệu đế thứ nhất (dukkha) là "chân lý cao cả
về sự khổ". Dukkha là thực trạng, một sự thực về bản chất đau khổ của con
người từ thể xác lẫn tâm hồn, ngược lại với chữ "sukha" là hạnh phúc, tiện nghi,
sung sướng, thoải mái. Ðức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, sanh là khổ, già, bệnh,
chết là khổ, thương yêu mà biệt ly là khổ, mong cầu mà không được là khổ, chấp
thủ thân ngũ uẩn là khổ" (Tương Ưng V). Dukkha được chia làm mười một loại
khác nhau: Khổ khổ, Hoại khổ, Hành khổ, Sanh Khổ, Lão khổ, Bệnh khổ, Tử khổ,
Aí biệt ly khổ, Cầu bất đắc khổ, Oán tắng hội khổ, Ngũ ấm xí thạnh khổ.
Tuy nhiên, danh từ "dukkha" còn mang một nội dung sâu sắc và phong phú
hơn nhiều, nó chứa đựng cả một nền triết lý về nhân sinh quan và vũ trụ quan
của Phật giáo. Dukkha là một danh từ rất khó phiên dịch, theo nghĩa thông
thường về phương diện cảm giác dukkha là đau khổ hay phiền não. Nhưng
nếu xét như là một chân lý trừu tượng thì dukkha hàm xúc ý nghĩa vô thường

(du) và trống rỗng (kkha). Nghĩa là, thế gian là một ảo ảnh, không có chi thật
(maya), tất cả chỉ là phù vân. Do đó, dukkha là sự biến chuyển bất toàn và hư
vô, trống rỗng không đáng để cho ta bám víu vào, cả những cảnh giới thiền
định tâm linh cao nhất vẫn còn nằm trong vòng kiềm tỏa của dukkha. Vì thế,
cái khổ (dukkha) ở đây hiểu cho sâu xa là còn mang thân phận giới hạn, chưa
được sống trong vĩnh cửu tuyệt đối, chưa thoát ra khỏi cái thân xác hay thay
đổi và vòng biến dịch của cuộc đời. Chỉ khi nào con người thoát ra khỏi luân
hồi sinh tử, nhập vào tuyệt đối vô biên, vô tận, không còn biến dời thì mới hết
khổ. Vì thế, cho dù tôi đang sống trong hạnh phúc về vật chất, và trong tình
trạng thánh thiện của tâm hồn, nhưng nếu tôi cứ ngủ quên trong đó thì cái
hạnh phúc đó cũng chỉ là trưởng giả, Biệt phái, Pharisiêu giả tạo mà thôi. Phải
vượt lên trên tất cả để tìm về tuyệt đối, chân không, Niết bàn, đó mới là hạnh
phúc và tự do thật sự.
- Tập Ðế: (Samudaya): nguồn gốc, nguyên nhân dẫn đến thực trạng
đau khổ.
Tập Ðế là chân lý lớn thứ hai Ðức Phật đưa ra để lý giải về căn nguyên
của bể sầu nhân thế. Khổ là Quả, Tập là Nhân và là căn bệnh lưu niên truyền
kiếp. Tức là nguyên nhân đưa tới sự kéo lê thân phận con người trong sự giới
hạn, bất an, tương đối và vô thường. Tại sao con người lại phải gánh chịu những
nỗi thống khổ trong đời? Con người Khổ là vì cứ bám viu vào những tương đối
của cuộc đời, kết hợp hết cái phù du mây nổi này đến cái thay đổi chóng qua
khác để vun đắp cho cái tôi của mình, cho cái giả tạo là thật, lấy cái phù du tôn
lên làm vĩnh cửu, từ đó mà sinh ra khổ.
Nguyên nhân chính đưa đến mọi khổ đau, bất hạnh của con người chính
là vô minh. Vì vô minh nên mới tham Ái, do ái dục mà chấp thủ, bám víu vào các
đối tượng của tham ái, càng khao khát dục lạc bao nhiêu, con người càng khổ
đau bấy nhiêu. Ái dục là một năng lực tinh thần hết sức hùng mạnh, luôn luôn
ngủ ngầm bên trong tất cả mọi chúng sanh và là nguồn cội của biết bao điều bất
hạnh trong đời. Chính ái dục làm ta đeo níu sự sống dưới mọi hình thức, và lôi
dẫn ta mãi phiêu bạt trong vòng luân hồi sinh tử. Kinh Chuyển Pháp Luân

nói: "Này hỡi các Tỳ kheo, đây là chân lý cao thượng về nguồn gốc của sự khổ:
chính ái dục là nguyên nhân của mọi tái sinh. Ái hợp với tâm tha thiết, khao khát,
bám víu vào cái này, cái kia, chính ái đeo níu lấy nhục dục ngũ trần, ái đeo níu theo
sự sinh tồn và ái đeo níu theo lý tưởng không sinh tồn".
Tóm lại, nếu không bị vô minh che lấp, không bị dục vọng, đam mê
khuấy động, ngự trị thì con người sẽ đầy an lạc, giải thoát. Bao lâu còn "khao
khát" hiện hữu và trở thành, còn Tham, Sân, Si. thì còn dukkha và vòng luân hồi
vẫn tiếp tục. Chỉ khi nào ngừng "khao khát", dập tắt đam mê, đoạn tuyệt ước
muốn và diệt trừ vô minh nhờ sức mạnh của Trí Huệ, thấy biết rõ thực tại thì khi
đó mới chứng ngộ được chân lý, và hạnh phúc Niết bàn.
- Diệt Ðế (Nirodha): chấm dứt đau khổ (dukkha), chứng nghiệm Niết bàn.
Khổ đau là một thực trạng con người có thể cảm nhận ngay từ khi cất tiếng
khóc chào đời cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay. Vì thế, trong thâm tâm sâu
thẳm lòng mình, con người luôn có xu hướng muốn vượt thoát khổ đau, tìm
kiếm hạnh phúc, nhưng vì không hiểu rõ nguyên nhân và bản chất của đau
khổ nên không tìm được lối thoát thật sự cho mình; đôi khi ngược lại, càng tìm
kiếm hạnh phúc, con người lại càng vướng vào đau khổ nhiều hơn. Do đó, Ðức
Phật đưa ra chân lý cao thượng thứ ba là Diệt Ðế để giúp ta dập tắt tất cả mọi
hình thức đau khổ cuộc đời. Diệt là chấm dứt phiền não, hay dập tắt những
nguyên nhân đưa đến đau khổ và chấm dứt dukkha; chấm dứt dukkha cũng
có nghĩa là đạt đến hạnh phúc Niết bàn. Như vậy, Diệt đế là tịnh diệt, vắng
lặng cái tôi của mình để đi vào tuyệt đối. Không còn bám víu vào cái gì nữa,
không lưu giữ trong tâm mình bất cứ cái gì. Sống thì cứ sống, sống hết mình,
nhưng không bám chấp bất cứ cái gì, dù là lời khen hay chê, vui hay buồn, tốt
hay xấu, giầu hay nghèo, thánh hay phàm. cũng đều vượt qua hết. Ngay cả
Phật, cả Chúa, nếu ngăn cản ta đi về tuyệt đối, tự do, an lạc, hạnh phúc thì
cũng phá chấp luôn.
Như vậy, mặc dù Ðạo Phật xác nhận rằng cuộc đời đầy dẫy đau khổ,
nhưng đồng thời cũng xác định có một tình trạng hoàn toàn tĩnh lặng, thường
lạc, hạnh phúc vượt khỏi những tình cảm chủ quan của con người, vượt qua cả

vòng sống chết của nhân sinh đó là Niết bàn: nơi thanh tịnh và hạnh phúc tuyệt
đối khi tâm ý đã hoàn toàn vắng lặng tham, sân, si. Ðây chính là mục đích của
người hành trì tu tập theo Phật giáo muốn đạt đến..
- Ðạo Ðế: (Magga) con đường hay phương pháp thực hành chấm dứt đau
khổ.
Ðạo đế chính là con đường chấm dứt dukkha, con đường này gọi là Trung
Ðạo. Bởi vì nó giúp ta tránh khỏi hai cực đoan mà con người thường mắc
phải: cực đoan thứ nhất là chạy theo hạnh phúc khoái lạc giác quan tầm
thường (chủ nghĩa khoái lạc); còn cực đoan kia là tìm kiếm hạnh phúc qua sự
hãm mình ép xác, dưới nhiều hình thức khổ hạnh khác nhau (chủ nghĩa khắc
kỷ). Rớt vào hai cực đoan này đều không đem lại tự do và giải thoát đích thực
cho con người. Với kinh nghiệm của mình, Ðức Phật đã tìm ra con đường
Trung đạo, chính con đường Trung Ðạo này mới đem lại kiến giải và tri thức
đích thực, đưa đến an tĩnh trí huệ, giác ngộ, Niết bàn, con đường đó là Bát
Chánh Ðạo. Giáo sư Rhys Davis nhận định: "Dầu là Phật tử hay không, tôi
nghiên cứu từng hệ thống tôn giáo lớn trên thế giới, và trong tất cả, tôi không tìm
thấy trong tôn giáo nào có cái gì cao đẹp và toàn vẹn hơn Bát Chánh Ðạo của
Ðức Phật. Tôi chỉ còn có một việc làm là thu xếp nếp sống của tôi cho phù hợp
với con đường ấy".
Bát chánh đạo hay con đường Trung đạo, gồm có: Chánh Kiến (Sammã
ditthi); Chánh Tư Duy (Sammã sankappa); Chánh Ngữ (Sammã vãca); Chánh
Nghiệp (Sammã kammanta); Chánh Mạng (Sammã ãjiva); Chánh Tinh Tiến (Sammã
vãyãma); Chánh Niệm (Sammã satti); Chánh Ðịnh (Sammã samãdhi).
Hầu hết, giáo lý Ðức Phật giảng dạy suốt 45 năm trường đều đề cập cách
này hay cách khác đến con đường này. Tất cả những gì tinh túy nhất của giáo lý,
kinh điển Phật giáo đều tìm thấy trong Bát Chánh Ðạo. Tám phạm trù này không
cần phải thực hành theo thứ tự trước sau, nhưng cần được phát triển gần như
đồng thời với nhau, vì nó liên kết chặt chẽ và bổ túc cho nhau, cái này giúp cho cái
kia phát triển, hầu làm hoàn thiện ba khía cạnh cốt yếu trong việc tu tập và kỷ
luật tâm linh Phật giáo, cũng gọi là Tam học: Giới (Sila), Ðịnh (Samãdhi), Huệ

(Panna). Người ta thường giải thích và phân loại Bát Chánh Ðạo theo ba đề mục
này.
[17]

1% Giới (Hạnh kiểm đạo đức): Ðược xây dựng căn bản trên tình yêu phổ
quát và lòng từ bi thương xót đối với mọi chúng sinh, do đó, giới bao gồm ba yếu
tố : Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng.
Như vậy, ba yếu tố này của Bát Chánh Ðạo lập thành hành vi đạo đức cho
con người, đưa con người đến một cuộc sống hoàn thiện, hay trở thành những
bậc hiền nhân quân tử. Nhưng cần nhận chân rằng hành vi đạo đức hay luân lý
trong Phật học cốt nhằm mục đích làm cho đời sống cá nhân và xã hội đều được
hạnh phúc, an hòa.
[18]
2% Ðịnh: hay kỹ thuật tâm linh, cũng gồm ba yếu tố trong Bát Chánh Ðạo là:
Chánh Tinh Tiến, Chánh Niệm và Chánh Ðịnh.
Ba yếu tố này của Bát Chánh Ðạo, nhằm để phát triển và thăng tiến đời sống
tâm linh, giúp cho con người tập trung thống nhất toàn thể con người mình
qua việc đào luyện tâm ý và an trụ Tâm vào thiện Pháp. Nói khác đi, Tâm của
mỗi người được huấn luyện, khép vào kỷ luật và phát triển là nhờ vào Chánh
Tinh Tiến, Chánh Niệm và Chánh Ðịnh. Ðây cũng là những điều cốt yếu làm
nên những pháp môn Thiền trong Ðạo Phật. Người tu Thiền là nhiệt tâm, kiên
trì và bền bỉ trụ tâm vào một điều duy nhất để tập trung, thống nhất con
người mình một cách sâu xa, nhờ đó mà Giác ngộ, hay Thấy Biết hoàn toàn
mới.
3% Huệ (Khôn ngoan): Gồm hai yếu tố còn lại của Bát Chánh Ðạo: Chánh
Kiến và Chánh Tư Duy.
Ðây là hai yếu tố quan trọng trong Bát Chánh Ðạo, Ðặc biệt là Chánh Kiến, vì
nó là khởi đầu và kết thúc mọi hành trình tu tập. Chánh kiến là Thấy Biết mọi
sự đúng như thật và nhận thức đúng về bản chất cuộc sống. Thấy Biết rõ bản
chất của sự vật là vô thường, vô ngã, duyên sinh và nhận thức rõ về bản chất,

nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường đoạn tuyệt khổ đau. Ðồng
thời cũng Thấy Biết đúng sự thật rằng mỗi người có một khả năng thấy Biết
siêu việt, tròn đầy (Chân Tâm, Phật tánh), giống như linh minh trực giác,
giống như Thức chứa chan trong toàn thể vũ trụ. Nhưng, muốn Thấy Biết
đúng sự thật, phải nhìn sự vật, giải thích sự vật theo Tứ Diệu Ðế. Như vậy, tựu
trung Chánh Kiến chính là thấy biết Tứ Diệu Ðế, sự hiểu biết này là trí huệ
cao cả nhất.
[19]
Có thể nói, vấn đề: "Tam học" trong triết lý giải thoát của Phật giáo
là cách thức tu luyện có tính chất toàn diện và tổng hợp nhằm nhằm làm cho:
tính thiện, tâm định, tuệ phát, giác ngộ đạt tới cõi Niết bàn. Vì vậy, trong Kinh
Pháp Cú Ðức phật dạy: "Con đường cao thượng là Bát Chánh Ðạo. Chân lý cao
thượng là Tứ Ðế. Không luyến ái là trạng thái cao thượng nhất"
[20]
. Thật vậy, Bát
Chánh Ðạo là một lối sống, một con đường thực tiễn, đòi hỏi mỗi người phải
thực hành và phát triển chứ không chỉ hiểu biết suông, vì: "Nó là một con
đường dẫn đến thực chứng chân lý tối hậu, dẫn đến tự do hoàn toàn, hạnh phúc
và bình an nhờ sự hoàn thiện và đạo đức, tâm linh và tri thức".
[21]
Vì thế, bất cứ ai thực hành, tu tập theo Tứ thánh đế một cánh kiên trì,
miên mật thì sẽ đạt được giải thoát ngay trong kiếp sống này chứ không phải
đợi đến kiếp sau. Nói khác đi bất cứ ở thời khắc nào, miễn là ta cắt đứt mọi
luyến ái và mọi ràng buộc để cho tâm hồn thanh tịnh, an lạc, tự tại tức là ta đã
được giải thoát. Kinh Pháp Cú dạy: hãy "hành động đúng đạo pháp, diệt tham,
sân, si; tri kiến chân tính; tâm thanh tịnh, không luyến ái; tại đây và về sau,
người ấy sẽ chứng nghiệm thành quả của phẩm hạnh thiêng liêng".
b. Thập Nhị Nhân Duyên
Thập nhị nhân duyên là một kiến giải rất sâu sắc của Ðức Phật về số phận con
người, về một sự kiện hay sự vật. Những điều ta tưởng chừng như cứng ngắc,

đóng khung, bất di, bất dịch và chắc chắn phải xảy ra như thế, không thể khác
được thì Phật giáo lại cho rằng đó chỉ là tương đối, duyên sinh vô thường, vô
ngã mà thôi. Ðây chính là cái nhìn mới mẻ và độc đáo của Ðức Phật. Có thể
nói: "Cái gì độc sáng nhất và là khám phá mới mẻ của Ðức Thế tôn chính là luật
Thập Nhị Nhân Duyên, theo đó, vạn sự trong trần gian này đều do mười hai nhân
duyên mà có".
[22]
Ðức Phật định nghĩa về Duyên khởi như sau: "Cái này có thì
cái kia có, vật này sinh thì vật kia sinh, cái này không thì cái kia không, vật này
diệt thì vật kia diệt" (Majjhimani Nikaya, III.63).
Mười hai Nhân duyên đó là: Vô Minh (avidyâ), Hành (samskâra), Thức
(vijnâna), Danh sắc (nâma-ru pa), Lục Nhập (sad-âyatana), Xúc (sparsa), Thọ
hay Thụ (vedanâ), Ái (trsnâ), Thủ (upâdâna), Hữu (bhava), Sanh (jâti), Lão
Tử (jarâ-marana). Thực ra, Thập nhị nhân duyên là một cách giải thích khác
của Tứ Diệu Ðế. Như ta thấy, Vô minh, Hành, Ái, Thủ, Hữu là năm chi hợp lại
thành Tập Ðế; Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thụ, Sinh, Lão Tử là bảy chi
mở ra thành Khổ Ðế. Trí huệ xem thấu cái lẽ sinh diệt của nhân duyên gọi là
Ðạo Ðế. Dứt hết mười hai nhân duyên là Diệt Ðế.
Theo thuyết Thập Nhị Nhân Duyên thì cuộc đời là trùng trùng duyên khởi,
tất cả chúng sinh không có gì hiện hữu cô độc hay tự mình mà có. Bất cứ sự vật gì
phát động hay thành toàn đều do luật nhân quả mà ra. Cái gì phát động ra gọi là
nhân, cái gì kết hợp thành toàn do nhân gọi là quả. Nhân và quả cũng sinh ra lẫn
nhau nhờ cái duyên. Không có duyên thì nhân không thể thành quả. Tất cả sự vật
sinh sinh, hóa hóa trong trời đất này đều do luật Thập Nhị Nhân Duyên mà ra
[23]
.
Mười hai Nhân Duyên này: theo nhau liên tiếp như nước sông chảy, cho nên các
sách nhà Phật gọi là Duyên-hà. Các nhân duyên tụ tập mà sinh ra mãi, gọi là
Duyên-hà-mãn, nghĩa là sông duyên đầy tràn. Trái lại, nếu cứ lần lượt dứt hết
nhân duyên nọ đến nhân duyên kia thì gọi là Duyên-hà-khuynh, nghĩa là sông

Duyên nghiêng cạn
[24]
. Nếu cứ để cho mười hai nhân duyên này luân chuyển theo
nhau không ngừng, quay tròn như chiếc bánh xe thì càng làm cho bể sầu nhân thế
không ngừng dâng cao lên mãi. Muốn làm cạn bể sầu này thì phải giải thoát ra
ngoài vòng bánh xe luân hồi kia, diệt trừ không còn bánh xe nữa; nghĩa là không
tạo ra nghiệp quả nhân duyên nữa. Tịch diệt nhân duyên đi là giải thoát
[25]
.
Chúng ta hiện hữu là hiện hữu giữa mọi người, giữa trời đất muôn vật, trăng
sao, sông núi. Trong sự hiện hữu đó là một bể pháp giới trùng trùng không có cái
nào tách biệt. Nếu ta thấy có sự khác biệt là do cái tâm của ta nhỏ hẹp và do cặp
mắt giới hạn của mình bị vô minh che lấp, chứ thực ra dầu người đen hay trắng,
người cao hay thấp, ốm hay mập, sang hay hèn. cũng đều do Tứ Ðại kết hợp mà
thành. Bản thân con người chính là do Nhân Duyên kết hợp. Cụ thể, nó được cấu
tạo bởi hai thành phần: thể xác và tinh thần. Hai thành phần ấy là kết quả hợp
tan, tan hợp của ngũ uẩn gồm: cái tôi sinh lý và cái tôi tâm lý. Cái tôi sinh lý tức
là Sắc (rupa), do "tứ đại" giả hợp mà thành: địa, thủy, hỏa, phong, cái tôi này có
thể cảm giác được. Còn cái tôi tâm lý, tinh thần hay cái tâm của con người, gọi là
Danh (nâma), cũng gồm bốn yếu tố sau giả hợp mà thành: thụ, tưởng, hành,
thức. Như vậy, Thân, Tâm hay Danh, Sắc con người được tạo nên từ ngũ uẩn,
ngũ uẩn lại do nhân duyên hòa hợp mà thành. Duyên hợp ngũ uẩn lại thì là ta, có
ta; duyên tan ngũ uẩn ra thì là diệt, không có ta. Ðó chính là sự vô thường của
kiếp sống
[26]
. Nếu có sai biệt là sai biệt về phương diện hình tướng bên ngoài, còn
trên bình diện tương quan mọi người đều bình đẳng như nhau.
Ðầu mối của Lý duyên khởi là Vô minh. Duyên vô minh có mặt nên hành thức có
mặt, do đó, khổ đau cũng hiện diện. Muốn diệt trừ khổ đau thì phải tận diệt Vô
minh. Vô minh diệt thì Hành, Thức cũng diệt; Hành, Thức diệt thì Ái, Thủ cũng

tan, do đó, khổ đau cũng không còn hiện hữu. Không còn Vô minh thì cũng
không có Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão tử. nên cũng không còn dính mắc vào vòng
quay luân hồi, sinh tử. Diệt trừ được vô minh thì cũng dứt khổ đau sinh tử. Tuy
nhiên, dù Vô-minh vẫn được coi là: "Cái gốc rễ của con đường quá khứ vị lai và
hiện tại"
[27]
. Nhưng ta không được quan niệm Vô minh như là cái nhân hay cái
duyên đầu hết hiểu theo nghĩa tuyệt đối, vì theo Ðức Phật, Ngài không hề nhận
một nguyên lý tuyệt đối nào. Trái lại, Ngài coi tất cả chỉ là tương đối và lệ thuộc
lẫn nhau. Mười hai nhân duyên, liên kết với nhau, không cái nào riêng lẻ một
mình. Cái nào cũng đủ duyên khởi và duyên khởi pháp, cái nào cũng vừa là nhân
vừa là quả. Luật Nhân Quả này không bị giới hạn bởi thời gian, có khi Nhân của
kiếp này nhưng mãi kiếp sau mới thành Quả. Do đó, "khi chúng ta nói tới quá
khứ, hiện tại, đời này hay đời sau, chúng ta nên hiểu rằng thực ra trong Phật giáo
nguyên thủy, luật Thập-nhị-nhân-duyên có thể áp dụng vào bất cứ một lúc hay một
giai đoạn nào của hiện hữu. bởi vì, theo tư tưởng của Ðức Thế tôn, trong cuộc đời
của chúng ta, thực ra mỗi lúc chúng ta chết đi và (tái) sinh".
[28]
Giáo lý duyên khởi rất thâm sâu, tưởng chừng như dễ hiểu, nhưng hiểu
không dễ. Ðức Phật khẳng định: "Ðạo Ta là cái đạo đi ngược dòng", là một chân
lý vi diệu, khó nhận và khó hiểu, nhất là đối với những hạng người tầm thường,
những kẻ bị chìm đắm trong dục vọng, và Vô minh che lấp. Chính vì không hiểu rõ,
không giác ngộ, không chứng nhận pháp này mà chúng sanh bị rối ren như cuộn
chỉ. không thoát khỏi luân hồi. Tại sao lại nói như vậy? Bởi vì không hiểu được lý
duyên khởi, tức là không hiểu được mình, không hiểu được vạn pháp, nên chấp
ngã, đề cao cái tôi của mình trên tất cả, từ đó sinh ra ảo tưởng, ảo giác, đó cũng
chính là nguồn gốc của vô minh.
[29]
Vì thế, qua thuyết Thập Nhị Nhân Duyên Ðức
Phật lôi kéo chúng sinh ra khỏi ngã chấp, khỏi vòng sinh tử luân hồi, khỏi tham

sân si. đoạn trừ mê muội, u minh trong quá khứ, hiện tại và tương lai mà Ðức
Phật gọi đó là diệt trừ "Tam Tế Ngu". Ðồng thời, Ðức Phật cũng chỉ cho thấy: con
người đau khổ không phải là do số mệnh an bài hay ý trời đã định mà chính là do
Vô minh lôi dẫn. Chỉ khi nào diệt trừ hết Vô minh con người mới được an lạc,
giải thoát, Niết bàn.
[30]
Tóm lại, thuyết Thập nhị nhân duyên "cốt là để đả phá những tri kiến sai lầm của
"ngã chấp" và "phá chấp". Vì, "tất cả phiền não trên đời đều do hai kiến chấp trên
mà có"
[31]
. Một khi đã diệt trừ được vô minh, phá bỏ được cái tâm sai biệt, hành
giả sẽ Thấy Biết được chân tướng của vũ trụ vạn vật, nhờ đó mà đoạn trừ được
phiền não, sanh tử, luân hồi. Thấu hiểu Lý Nhân Duyên, hành giả sẽ giải gỡ và
buông xả được những gì trước đây tưởng chừng như vô cùng quan trọng, vô
cùng tất yếu... buông xả được những mặc cảm, tội lỗi, sợ hãi, khao khát yêu
thương, hay hận thù cháy bỏng... không còn quan trọng hóa vô lối cái tôi của
mình, không còn khư khư bám chặt lấy nó. Trái lại, sống mở rộng thênh thang,
an vui, tự tại giữa cuộc đời bao la, bát ngát không còn gì ngăn ngại hay vướng
mắc.
Với Tứ Diệu Ðế và Thập Nhị Nhân Duyên, Phật giáo coi thế giới khách
quan và tâm thức con người đều là vô thường, vô ngã. Coi tất cả vạn vật trong
thế giới đều do nhân duyên hòa hợp mà: thành, trụ, hoại, không. Phật giáo đã
chọn con đường giải thoát là con đường Trung Ðạo, với sự tu luyện theo Bát
Chánh Ðạo để cắt đứt mọi duyên sinh, diệt hết mọi dục vọng, phá vỡ màn vô
minh để tiến tới giác ngộ, trí huệ và hòa nhập vào Niết bàn tuyệt đối
[32]
. Vì thế,
con đường tu luyện giải thoát của Phật Giáo mang tính toàn diện, từ "đời sống
đạo đức, luân lý đến tâm linh trí tuệ".
Xét cho cùng, Phật giáo là Ðạo Giải Thoát, là ÐI TÌM GIẢI THOÁT. Ðức Phật

đã đẩy con người lên đường để tự giải thoát chính mình. Phả đổ tất cả mọi hàng
rào, mọi vướng bận ngăn cản con người đi đến tự do. Lên đường tìm tự do và
giải thoát là đi tìm chân lý, nghĩa là hòa nhập vào chân lý. Ðức Phật khẳng
định: "Nước trong bốn bể chỉ có một vị là vị mặn, cũng thế, giáo pháp của Ta chỉ
có một vị là vị giải thoát". Lời xác quyết này cho thấy, mục đích tối cao của Ðạo
Phật là đưa chúng sanh đến cuộc sống an lạc giải thoát, đó cũng là nhu cầu tất
yếu và là khát vọng thâm sâu của nhân lọai, mọi thời, mọi nơi. Triết lý giải thoát
của Phật giáo là một bước phát triển đầy sinh khí có ảnh hưởng tích cực vào đời
sống xã hội và tôn giáo Ấn Ðộ đương thời, cũng như cho thế giới, hôm qua, hôm
nay và mãi mãi. Nó là tiếng nói đại diện cho khát vọng đòi tự do, bình đẳng, xóa
bỏ mọi tầng lớp và giai cấp trong xã hội con người. Do đó, nó luôn mang tính hiện
sinh cho cuộc sống con người.
3/ Giải thoát theo chiều hướng hiện sinh
Tôn giáo nào cũng vậy, đều vì con người và vì hạnh phúc nhân sinh. Nếu tôn
giáo làm hủy hoại sự sống, ngăn cản tự do của con người thì tôn giáo đó không
có lý do để tồn tại. Tôn giáo cũng giống như "không gian của bầu trời hay khí
quyển, phải vô vi, phải vô ngã, hoàn toàn "trống rỗng", hoàn toàn dứt bỏ danh
lợi, từ bỏ chính mình, không hiện hữu cho mình, nhưng hiện hữu cho nhân loại.
Một tôn giáo chỉ hiện hữu cho mình, phô trương thế lực, tham lam tìm kiếm danh
lợi"
[33]
... thì không phải là một tôn giáo đích thực. Theo Ðức Giêsu, tôn giáo
cũng giống như "men trong bột" (x. Mt 13,33), hay như "muối ướp" cho mặn
đời (x. Mt 5,13), và như "đèn soi" cho thế giới (x. Mt 5,14-16). Có như vậy, tôn
giáo mới có lý do để đồng hành cùng nhân loại, để phục vụ sự sống con người,
cho lẽ phải và cho lòng nhân. Ðó chính là chiều kích hiện sinh của tôn giáo.
Trong chiều hướng hiện sinh đó, ta có thể xem giải thoát như là một sự "phá
chấp" tất cả, xa lìa "các tướng, các pháp"; giải thoát là "hàng phục vọng
tâm", "an trụ chân tâm", tu tâm để Phát tâm "Bồ Tát" và cuối cùng, giải
thoát là nhập thể vào đời đem công lý, hòa bình, tự do, an vui và hạnh phúc

cho con người.
a. Giải thoát là "Phá chấp" tất cả.
Cuộc sống con người không bám chấp vào cái này thì cũng dính dấp vào cái
kia. Nguyên nhân của mọi khổ đau, tranh chấp, thù hằn, nghèo đói, chiến
tranh, chia rẽ... trong đời sống con người đều do căn bệnh Chấp Ngã. Chấp
tức là quy về mình, thu tích, phòng giữ mọi thứ cho mình. Trong thân tâm sâu
thẳm con người là cả một sức mạnh dữ dội, một cái thấy biết mù lòa tăm tối
hay một lý trí mù quáng, khiến con người luôn quy hướng về cái Tôi, cái bản
Ngã của mình. Ðể rồi từ đó bộc lộ ra trong cách ứng xử, thái độ, hành vi, tư
tưởng và cả trong từng khởi niệm thầm lặng nhất của mình. Ðiều đó giải thích
tại sao thế giới này lại có sự phân hóa giàu nghèo, phân biệt chủng tộc, giai
cấp, và ý thức hệ khác nhau? Con người ai cũng muốn đề cao cái Tôi của
mình, muốn thống trị thiên hạ, muốn cho mình là nhất, là đúng, nên mới sinh
lòng ích kỷ, tìm cách bảo vệ và chiếm hữu cho mình càng nhiều càng tốt. Ngay
cả khi bám chấp vào lý tưởng, niềm tin, tôn giáo và những sự thánh thiện của
mình để loại trừ người khác hay tôn giáo khác cũng là một điều nguy hiểm.
Thông thường, cái mà con người hay bám chấp nhiều nhất là tình cảm,
tiền của và danh lợi. Ca dao Việt Nam thường nói:
"Con đường danh lợi cong cong,
Người mong thoát khỏi kẻ mong bước vào".
Còn nhà thơ Tú Xương thì lại bám chấp vào ba cái lăng nhăng sau:
"Một trà, một rượu, một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng cứ phá ta".
Cuộc sống tự nhiên con người là thế, luôn bị chi phối bởi tình, tiền, tài;
nói khác đi là bởi dục vọng và đam mê. Muốn thoát khổ, con người cần phải phá
chấp tất cả, phá chấp luôn cả những gì là thánh thiện nhất, không bám trụ vào bất
cứ cái gì, kể cả bám trụ vào Chúa, vào Phật, vào thần thánh mà ta tự tạo nên để
rồi giam hãm mình trong đó, không còn tự do, tự tại. Chính vì bám chấp vào không
gian và thời gian, vào ngôn từ và tư tưởng mà con người đã làm méo mó tôn giáo
và khuôn mặt của thần thánh, như Pascal đã nói: "Thiên Chúa của các triết gia

không phải là Thiên Chúa của Tổ Phụ Abraham, Isaac và Giacop". Ðức phật dạy:
"Chấp trước vào một điều gì (quan điểm) và khinh miệt những điều khác xem là
thua kém - đấy trí giả gọi là một xiềng xích"
[34]
. Ðức Giêsu cũng dạy: Các con đừng
gọi ai dưới đất là Thầy, là Cha vì các con chỉ một Thầy một Cha duy nhất ở trên
trời (x. Mt 23,8-9).
Một trong những căn bệnh và cũng là nguy cơ lớn của con người thời đại
hôm nay đó là chấp vào tri thức khoa học kỹ thuật máy móc, vào cơ cấu và ý thức
hệ. Nền văn minh mới: bạo lực và súng đạn đang thống trị địa cầu. Chính sự
"khôn ngoan" vượt bực của con người và những cơ cấu xã hội, kể cả tôn giáo đã
bóp chết con người trong những cái cứng ngắc, đóng khung, khiến tâm hồn con
người trở nên trống rỗng, tê liệt, hay máy móc hóa như những chàng rô bô,
không còn sự hồn nhiên, mở rộng thênh thang mà vui sống trong sự tự do, chân
lý và sự thật. Nếu có dịp xem vở kịch "Chuyện Tình Năm."
[35]
chúng ta sẽ thấy tác
giả phản ánh đúng thực trạng ấy. Vì thế, sứ điệp của vở kịch là muốn kêu gọi con
người: "hãy cứu lấy trái tim. Nó đang đập theo nhịp được chương trình hóa. Hãy
cứu lấy tâm hồn. Nó không còn không gian cho những rung động lãng mạn. Hãy
cứu lấy con người, các rô bô đang tiếm đoạt vị trí của họ. Người chồng không
còn đưa vợ dạo chơi trên phố. Anh ta nhờ rô bô làm thay. Máy móc đang thừa kế
con người. Tưởng đâu như thế con người được giải phóng, ai ngờ lại thành nô
lệ. Con người lệ thuộc vào máy móc. Họ phó thác tự do, năng lực tưởng tượng,
những rung động bay bổng của mình cho rô bô. Rô bô là đứa con cầu tự của con
người. Con người vô sinh. Không còn sản sinh ý tưởng, cảm hứng. Chúng đã
được trao phó cho rô bô, cậy nhờ những trương trình của máy tính".
[36]
Khi con người không có trái tim rung nhịp, không có "trái tim thịt" (x. Ed
36,26) thì người ta sẽ đối xử với nhau như máy móc, hay những quy ước lạnh

lùng, đóng khung, và vô cảm. Người ta sẽ nhìn nhau như những hằng số toán học
vô hồn. Khi đó, thế giới sẽ trở thành bãi chiến trường để người ta giành giật. Và
như vậy, nếu họ có sát hại lẫn nhau thì cũng chỉ là giết chết những con số vô cảm
vô danh. Rồi cuối cùng, thảm họa diệt vong của cõi người sẽ không tránh khỏi.
Chính vì chấp vào nhãn hiệu, lý tưởng, đảng phái hay tôn giáo mà thế giới này
mới có chiến tranh, hận thù, chia rẽ, để rồi đưa đến hậu quả là sự nghèo đói,
bệnh tật và tệ nạn xã hội cũng phát sinh. Lịch sử đã chứng minh không biết bao
lần người ta nhân danh đảng phái hay tôn giáo mình để sát hại lẫn nhau. Ðã có
những con người được mang danh là "lính Chúa Kitô", những cuộc chiến được
mệnh danh là "Ðạo binh thánh giá". Mới đây, báo chí và đài BBC đưa tin, những
người Hồi giáo nhân danh đạo mình theo lệnh giáo chủ độc nhãn Omar đốt phá
tượng Phật, bất chấp "sự lên án mạnh mẽ của dư luận thế giới". Những bức
tượng này đã có trên 1500 năm, nó là "biểu hiện cho một nền văn minh rực rỡ
của khu vực Trung Nam Á", và đã được UNESCO công nhận là "di sản văn hoá
nhân loại. có một không hai trên thế giới"
[37]
. Báo Công An, số 921, ra ngày
6.3.2001 cũng đăng tin, cuộc chiến tranh giáo phái của những phần tử Hồi giáo
quá khích ở Pakistan lại có thêm 12 người chết. Báo An Ninh Thế Giới, số 214,
ngày 17.2.2001 cho biết, phe Taliban đang cầm quyền ở Afghanistan đã sát hại 300
thường dân vô tội. Bên cạnh đó, cuộc chiến tranh dai dẳng vừa mang tính chính
trị vừa nhân danh tôn giáo ở Trung đông giữa Israel và Palestine làm cho biết bao
người bị thương và thiệt mạng.
Người ta đã chấp vào chủng tộc, màu da, vào thần thánh hay Chúa của
mình để loại trừ, thanh toán kẻ khác. Nhưng người ta có biết đâu, đã là Chúa là
Phật thì không có phân biệt đối xử, không loại trừ nhau. Ðã là Chúa là Phật thì
vượt qua mọi ranh giới, ích kỷ, hẹp hòi, tranh chấp và thù nghịch. Ðã là Chúa là
Phật thì luôn luôn thể hiện tấm lòng từ, bi, hỷ xả và bác ái yêu thương. Do đó,
trong mọi trường hợp người ta không thể đưa Chúa, Phật hay thần thánh để
biện minh cho những hành động đen tối của mình. Chúa, Phật không bao giờ

muốn chia rẽ hay gây tang tóc đau thương cho con người. Cũng vậy, lòng từ bi,
bác ái thì không có phân biệt, cũng chẳng có bè phái, không là Chúa, là Phật, là Ấn,
là Hồi Giáo hay bất cứ tôn giáo nào. Do đó, nếu những người có đạo lại nhân
danh niềm tin hay Chúa của mình để loại trừ, sát hại đồng loại thì đức tin của họ
là "cuồng tín", đạo của họ là "đạo vô nhân" chứ không phải là niềm tin và Ðạo
chân chính.
Muốn lập lại trật tự hòa bình, nhân nghĩa và tình thương, con người ngày
nay cần phải phá chấp tất cả, xóa bỏ mọi cơ cấu, ý thức hệ, không nhân danh
đảng phải chính trị hay tôn giáo để giết hại nhau. Trái lại hãy mở rộng cõi lòng,
hãy trao cho nhau trái tim đầy tràn sức sống, với tấm lòng đồng cảm, trỉ kỷ, tri
âm, tinh tế, dịu dàng, đôn hậu và thật thà. Cần có một lần nào đó, Ðức Phật và
Ðức Giêsu đi ngang qua đời, "chân lý chiếu qua tim", để con người bừng tỉnh và
bật dậy, phá tung tất cả, bỏ đi tất cả để hòa nhập vào dòng sống tự do. Hãy vét
rỗng tâm hồn mình, để cho ánh sáng Thần Khí tràn vào. Nếu còn bám chấp vào
không gian, thời gian, già trẻ, cũ mới. thì không bao giờ ta được một lần tự do,
giải thoát. Do đó, dưới cái nhìn hiện sinh, giải thoát là ly, lìa tất cả các tướng các
pháp, không để cho bất cứ cái gì ngăn cản hay chi phối cuộc sống của ta. Chính vì
muốn lật đổ, phá tung tất cả mà Phật giáo coi cuộc sống con người chỉ là Duyên
sinh, Vô thường và Vô ngã: "Chư hành vô thường", "chư pháp vô tướng".
Khi tuyên bố: mọi pháp đều vô ngã, và mọi sự đều là duyên sinh, duyên
khởi, Ðức Phật chỉ muốn làm sao cho con người sống đúng với sự thật, sống
chánh niệm miêm mật trong lòng mình hầu đạt đến thực tại giải thoát. Tức là trở
về với cái Biết thường hằng, bất biến. Mặc dù mọi sự đều biến đổi vô thường,
nhưng có một thực tại không thay đổi đó là sự Thấy Biết về Sự Thật. Nơi mỗi
người đều có khả năng Thấy Biết không bao giờ hư hoại, đó chính là Chân tâm,
Phật tính hay Bản lại diện mục trong mình.
Vì cuộc sống là vô thường, vô ngã nên cần phải buông lơi tất cả, không thiết
tha, bám chấp vào cái gì, không thiết tha với diện mạo của mình, không quyến
luyến với tiền bạc, lợi danh hay tình cảm, không tự hào với kiến thức của
mình, cũng không tìm cách tích trữ thật nhiều và không bám víu vào những

buồn vui của cuộc sống, không nuối tiếc, nhớ thương cái gì dù đó là những kỷ
niệm đẹp. Trái lại, sống theo định luật vô thường là sống hoàn toàn tự do,
không bị nô lệ vào quá khứ, cũng không sợ hãi khi tương lai chưa đến, không
để cho bất cứ cái gì ngăn cản ta mở toang cánh cửa tâm hồn với từng giây
phút hiện tại tràn đầy chân lý. Sống đúng định luật vô thường không phải là
sống tạm bợ, buông xuôi, nhưng là sống hết mình, hòa nhập tất cả hữu thể vào
trong chân lý, sự thật.
Tóm lại, Phật giáo chủ trương "vô thường", "vô ngã" là để "phá chấp" tất cả,
Ly, Lìa tất cả: "Lìa các tướng ấy là chư Phật", có như vậy, con người mới thực
hiện được giải thoát cho mình và cho người. Nghĩa là giải thoát khỏi mọi chi
phối của cuộc đời, khỏi sự kềm chế của Tham, Sân, Si, đặc biệt là lòng ham
muốn. Ðức Giêsu cũng đòi hỏi những ai muốn theo Ngài phải từ bỏ tất cả,
nhất là từ bỏ chính mình (x. Mc, 8, 34; Mt 16, 24). Phải làm sao cho tinh thần
"vô thường", "vô ngã" và "vô vi" đưa người Phật tử đến chỗ "quên mình" vì
dân vì nước và vì tất cả chúng sinh. Người Phật tử phải làm sao nuôi dưỡng và
thể hiện tinh thần ấy trong suốt cả cuộc đời, đó mới là điều quan trọng. Nói
theo Lão Tử là "Ðồng kỳ trần" (ÐÐK. ch. IV), nghĩa là cùng chung bụi bặm,
cùng chia sẻ vận mệnh đau thương, tội lỗi của con người và dân tộc. Về điểm
này, ta thấy các tôn giáo lớn đều gặp nhau. Ðức Giêsu thì dạy các môn đệ
mình phải sống "nghèo", phải "hủy mình" đi; Ðức Phật thì đòi hỏi các Tỳ
Kheo phải thực hiện "vô ngã"; Lão Tử thì chủ trương "vô vi"; Khổng Tử thì
đòi hỏi người quân tử phải có "tiết trực tâm hư"; còn với thi hào Tagore thì ta
lại tìm thấy trong hình ảnh chiếc ống sáo bằng sậy, nó vừa "thẳng" lại vừa
"rỗng" có như vậy nó mới vang lên nhưng điệu nhạc du dương khi có hơi thở
chạm vào. Có thể nói, những bậc thánh nhân, quân tử, không hiện hữu cho
mình mà sống cho tha nhân. Cũng vậy, "lý tưởng tôn giáo chính là thực hiện vô
vi, vô ngã, thực hiện "tiết trực tâm hư", hay chấp nhận từ bỏ chính mình, như
Ðức Giêsu hóa mình ra không"
[38]
, để cứu độ toàn thể nhân loại.

b. Giải thoát là Tu Tâm: "hàng phục vọng tâm, an trụ chân tâm"
Tâm (citta) là thức, là Lời, là cái nhìn, là mắt là quan điểm hay cảm nghĩ,
cảm quan. Tâm cũng có thể hiểu là lòng, tấm lòng, tâm hồn, trái tim, tình cảm,
tình yêu, tư tưởng, lý trí. của con người. Tâm tức Phật tánh. Phật tánh tức
tánh không. Tánh không tức Như lai. Như lai tức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
Thường, Lạc, Ngã, Tịnh tức là cảnh giới mầu nhiệm giải thoát chẳng thể nghĩ
bàn
[39]
.
Vậy tâm là cái mầu nhiệm tối quan trọng, phiền não hay an vui hạnh phúc
cũng do tâm, địa ngục hay Niết bàn cũng do tâm. Không có cái tâm thì không
có suy tư cảm nghiệm, không có văn hóa, tôn giáo cũng không có con người.
Nhưng cũng chính cái tâm đó quay lại tác động, chi phối trên con người và
làm cho con người hạnh phúc hay khổ đau. Tâm làm cho con người dơ bẩn
hay trong sạch. Tâm xây đắp bản tánh và gầy dựng số mạng con người. Tư
tưởng thấp hèn làm cho ta nên bần tiện. Trái lại tư tưởng trong sạch đưa con
người đến chỗ thanh cao, siêu thoát. Lắm khi chỉ một tư tưởng, một niệm cũng
đủ tiêu diệt cả thế gian hay nâng trần gian lên
[40]
.
Do đó, đối với Phật Giáo, vô chấp hay giải thoát là Tu Tâm, trở về với mình
xoay tâm mình lại. Làm sao an trụ được dòng tâm để Thấy Biết đúng sự thật,
tự do, đầy sáng tạo, nghĩa là sống tận kỳ tính của mình, sống thật con người
mình một cách đơn sơ chân chất giữa cuộc đời. Mỗi người phải trở về xoay
tâm mình lại cho hồn nhiên, tự tại, để đi đến vô tâm, vô niệm. Ðó chính là ý
nghĩa câu hỏi của ông Tu Bồ Ðề trong Kinh Kim Cang: "Vân hà ưng
trụ", "Vân hà hàng phục kỳ tâm", "Làm sao hàng phục vọng tâm", "Làm sao an
trụ chân tâm"?
- "Hàng phục Vọng Tâm"
Cuộc sống ồn ào, sôi động lôi kéo chúng ta đi. Tâm chúng ta luôn vun vút

phóng ngoại, băng mình chạy theo những nhịp độ chớp nhoáng hay những
ngoại cảnh bên ngoài. Ðến độ, ta ăn mà không biết mình ăn, tụng kinh, làm
việc mà không biết mình đang làm gì, muốn nghỉ ngơi tĩnh lặng nhưng đủ mọi
thứ công việc và mọi hình ảnh trong đời cứ khuấy động bắt ta phải suy nghĩ,
và lo âu... Chúng sanh tất cả đều ở trong trạng thái biến đổi, trôi chảy không
ngừng như dòng sông không bao giờ cạn. Cái tâm của chúng sinh thường bị vô
minh che lấp và bị Tham, Sân, Si lôi kéo, nên lầm tưởng rằng có sự khác biệt
với tha nhân, với ngoại cảnh, từ đó phát sinh ra cái tâm sai biệt, chấp ngã và
mê loạn. Vì chấp ngã, mê lầm nên đau khổ, luân hồi bất tận. Do đó, Phật giáo
đặc biệt coi trọng việc khảo sát Tâm để làm chủ nó. Xoay chuyển cái tâm ô
nhiễm, vọng động, trở về chân tâm, Phật tính.
Thật ra, mỗi người có một lối nhìn căn bản tự nó là thanh tịnh: "Chân
không diệu hữu". Nhưng vì bị màn vô minh che phủ, nói theo Kitô giáo là bị "tội
nguyên tổ" chi phối, khống chế, nên nhìn cái gì cũng sai lạc, không thanh tịnh,
không đúng sự thật. Do tham, sân, si nảy sinh đủ loại danh mục của trạng thái
tâm lý khác nhau, gọi là Tâm sở, Thiện tâm sở, bất thiện tâm sở. Theo tư tưởng
Kinh Hoa Nghiêm, mọi sự đều do tâm phát sinh: "vạn pháp duy tâm tạo". Tất cả
mọi cái trên đời đều do tâm, hay do cách nhìn của mình mà ra. Tâm ta phóng chiếu
vào đủ mọi thứ và nó lại quy chiếu về mình để quậy phá ta, làm cho cái nhìn của
ta bị méo mó. Nắng hay mưa, hạnh phúc hay đau khổ, buồn hay vui, thánh hay
tội, đẹp hay xấu đều do cách nhìn, do tâm của ta. Kinh Hoa Nghiêm nói: "Mọi thứ
trong Tam giới đều do ở tâm".
Do đó, phá chấp không phải là phủ nhận cuộc đời, phủ nhận hiện hữu của
mình nhưng là dám nhìn thẳng cuộc đời bằng cái nhìn hoàn toàn tự do. Vô
chấp không phải là khinh chê tất cả nhưng là có cái nhìn mới về cuộc đời. Nói
khác đi là nhìn thẳng vào nội tâm mình điều chỉnh và chế ngự tâm mình khỏi
mọi vọng động, tà kiến, hay biên kiến. Ðưa vọng tâm trở về chân tâm. Trong
kinh Lăng nghiêm, Ðức Phật cũng chỉ muốn dạy chúng sinh điều đó: làm sao
Ngộ được Chân tâm, bằng ngược lại, nếu còn vọng tâm thì phải trầm luân
trong biển luân hồi, khổ đau sinh tử.

Như vậy, vấn đề chính yếu là làm sao để đưa tâm trở về bản tịnh. Tâm
bản tịnh thì ta sẽ thấy rõ mọi sự rất kỳ diệu và sâu xa. Ðó là một cái nhìn không
thành kiến, không bị che chắn bởi dục vọng, đam mê, cái nhìn đó rất thật và rất
yêu cuộc đời, gắn bó với cuộc đời, nhưng lại vượt lên trên tất cả
- "An trụ Chân Tâm":
Cái đích của Phật giáo là gì? Phật giáo đi tìm cái gì? Phật giáo đi tìm con
người đích thực của mình, sống con người thật của mình, tức là tìm về chân
tâm, bản tính, Phật tính nơi mình. Do đó, Phật chính là tất cả con người chiều
sâu đích thực của mình, Phật cũng chính là hơi thở sáng tạo, là hình ảnh Thiên
Chúa nơi mình. Một con người tự do, tràn đầy hạnh phúc, yêu thương rộng
lớn vĩnh cửu đó chính là Phật.
Vì thế, đối với Phật giáo, vấn đề chủ yếu là Tâm (Lời). Tâm là cái nhìn, cái
thấy, là tinh thần hay Lời trong trong lòng mỗi người. Tâm là khả năng Thấy
Biết hay khả năng trở thành Lời. Mỗi người đều có khả năng thấy biết, khả
năng nên Lời liên tục. Nói đúng ra, con người khi sinh ra đã ở trong sự Thấy
Biết, đã ở trong Lời (Thiên Chúa). Cả vũ trụ này đều ở trong Lời và đang trở
nên Lời. Chân tâm chính là Lời. Lời như là hạt sương, là mầm sống, đang vùi
mình trong trần gian điên dại này để cho thế giới trở nên sinh động, vui tươi,
tràn đầy sức sống. Vì thế, đối với Ðại thừa là sống làm sao để thể hiện Chân
tâm, Phật tánh. Trở về với chân tâm là sống tự do. Làm sao cho vọng tưởng
cũng nhập vào chân tâm, vào trong Lời tràn ngập trong vũ trụ nàỵ.
Vì thế, Vấn đề giải thoát ở đây là đưa tâm hay Lời vào trong vắng lặng,
tịnh diệt, nghĩa là đạt đến chân tâm, tuyệt đối không còn biên kiến hay tà kiến,
không còn phân biệt trắng đen, tốt xấu, hay dở. Giải thoát theo Ðại thừa là đi từ
"vọng tâm" đến "chân tâm", để nhìn mọi sự đúng như thật, không còn nhiễm
nhơ gì nữa. Tuy nhiên vẫn còn có nhị nguyên, còn "vọng" còn "chân", dù vấn đề
biên kiến hay tà kiến hầu như không còn. Phải đạt đến "Tánh không", "Bất nhị",
hay "Trung quán luận" của Phật Thừa hay tối Thượng thừa thì mới gọi là Lìa hay
giải thoát thật sự.
Bất nhị hay Trung luận là bất sinh bất diẹt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất

giảm. Trung luận là vượt lên cái nhị biên, cái tương đối, đi vào giữa, xuyên qua
giữa hai biên bờ để đi thẳng vào chân lý. Mọi cái trên đời không đi bên này thì
chạy theo bên kia, nghĩa là thiên lệch không đúng đường. Ðó cũng là cái óc nhị
biên, phân biệt của con người. Càng sống thấp kém bao nhiêu thì càng thiên lệch,
càng sống tâm linh bao nhiêu thì càng siêu thoát khỏi cái tâm hẹp hòi, biến kiến,
phân biệt bấy nhiêu.
Cũng vậy, Tánh không: là vượt lên trên tất cả mọi thứ trần gian. Càng ngày càng
dẹp bớt đi cái suy tư ý tưởng của con người để nhận ra cái vô cùng vô tận, cái
sống động làm ra cuộc đời này. Cái mà mọi sự đều đặt nền trên cái bản chất duy
nhất, bất sinh, bất diệt mà tư tưởng con người không thể đạt thấu được, tức là
tuyệt đối, Chân như.
Do đó, Lìa theo Ðại thừa là xoay chuyển dòng tâm, nói khác đi là thay đổi
cái nhìn của mình, để Thấy Biết sự vật đúng sự thật, đúng bản chất , "bản lai diện
mục" . Vì tất cả vấn đề nhơ hay sạch không do bên ngoài tạo nên nhưng là do tâm
của mình. Nhiễm hay không nhiễm cũng đều do tâm mà ra: "vạn pháp duy tâm
tạo". Do đó, đối với Ðại thừa, câu hỏi: tôi như thế nào trong cuộc đời này, không
quan trọng cho bằng câu hỏi: cái nhìn của tôi về cuộc đời như thế nào? Mỗi
người có cái nhìn khác nhau. Bản thân ta, cũng như toàn hể vũ trụ này đều không
có thật, tất cả đều tùy thuộc vào cái nhìn của mỗi người. Tất cả chỉ là "hoa đốm
mưa không", do đó mà "ngã pháp giai không".
Cao hơn nữa, Lìa hay giải thoát theo Phật thừa (tối thượng thừa) là Giải thoát
mà không còn đặt vấn đề giải thoát, nói khác đi là không còn có cõi nhơ hay
cõi sạch, cũng chẳng còn vọng tâm hay chân tâm nữa mà chỉ còn là thái độ
như trẻ thơ, như nước chảy, mây trôi, sống tự nhiên y như thật, không còn gì
để phân biệt, hay nhiễm nhơ nữa, tức là trở về với cái tự nhiên, bình thường
như trẻ thơ của tinh thần Lão Tử. Càng hồn nhiên bao nhiêu càng trở về với
tuyệt đối bấy nhiêu. Càng trở về với trẻ thơ bao nhiêu, càng giải thoát bấy
nhiêu. Ðó cũng chính là lời mời gọi của Ðức Giêsu: "Nếu các con không trở nên
như trẻ nhỏ, các con không thể vào được Nước Trời" (Mt 18, 3).
Nếu Tiểu Thừa là đi từ cái này đến cái kia: từ nhơ đến sạch, nô lệ đến tự do,

chấp đến vô chấp, ta bà đến tịnh độ, Niết bàn, thì vẫn còn là tương đối. Còn có
phận biệt là còn thấp, còn có cái phàm tục, giới hạn. Ðại thừa bỏ hết bên này
bên kia. Không chấp vào có, vào không, vào thánh thiêng hay phàm tục. Ðại
thừa nhận ra ngay trong cõi ta bà, tục lụy này vẫn có Chúa, vẫn có Phật, vẫn
có thánh thiêng ngay trong phàm tục. Nghĩa là Chúa Phật, Chân như, Phật
tánh đã có sẵn nơi tâm mình rồi, chỉ cần buông mình đi, ly lìa tất cả để cho
Chúa, Phật lộ diện và tỏ hiện trong mình.
Nói một cách đơn giản thì mê hay ngộ, hữu hay vô, thánh hay phàm. đều là
hiện tượng của cái tâm sai biệt của ta. Vì thế, điểm cốt lõi của tư tưởng Bát
nhã (Ðại thừa) là nhằm phủ định tất cả, tất cả đều là không. Ngay cả cái tâm
của ta cũng chỉ là hiện tượng. Vì muốn phủ định tất cả những quan niệm sai
biệt nên Kinh Bát Nhã đã nêu lên "thập nhị không" (12 cái không) để phủ
định tất cả. Tất cả chỉ là Không và ngay cả cái không cuối cùng ấy cũng phải
phủ định nốt: "Nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, không
đại, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất kính không, vô tế không,
tánh không, vô biến dị không, bản tính không, tự tướng không, cộng tướng
không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tính không, tự tính không,
vô tính tự tính không". Cũng vậy, trong Trung quán Luận, Long Thọ Bồ Tát đã
đưa ra bài kệ "Bát Bất" (tám phủ định) để nói lên chân lý Ðệ Nhất Nghĩa như
sau:
"Chẳng sinh cũng chẳng diệt,
Chẳng thường cũng chẳng đoạn,
Chẳng một cũng chẳng khác,
Chẳng đến cũng chẳng đi.
Phật nói pháp Nhân duyên ấy,
Nhằm chấm dứt mọi tranh luận.
Con cúi đầu lễ Phật, Ngài là Bậc Ðệ Nhất trong những người thuyết pháp".
[41]
Tóm lại, mục tiêu chính của Bát nhã và Trung quán luận là muốn thuyết minh
tư tưởng không nhiễm trước, không sai biệt. Phủ định tất cả các tướng sai biệt

của vạn pháp để đi đến Không. Nhưng cái Không này không phải là cái không
trống rỗng, hư vô, chỉ toàn là phủ định, mà là cái không linh động, cái không
"Diệu hữu", Chân như, siêu việt, không thể luận bàn. Tất cả mọi hiện tướng
đều là biểu tượng của tâm, ngoài tâm ra, tất cả đều là không. Không chấp
trước vào bất cứ cái gì để phát huy cái tinh thần hoạt động tự do, tự tại, vô
ngại, diệu dụng vô biên. Như kinh Kim cang nói: "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ
tâm", đó là cực điểm của tinh thần Bát Nhã. "Lấy tâm kính trọng tu tập hạnh
không; tu tập hạnh không nên xa lìa mọi chỗ thấy, xa lìa mọi kiến hoặc, nên tu
hành chính đạo nên thấy được pháp giới" (Kinh Ðại Bát Nhã, quyển 567).
Một khi đã hàng phục dòng tâm, xoay chuyển dòng tâm, xa lìa vọng tâm trở về
với chân tâm rồi, hành giả sẽ phát triển tâm thức của mình, phát triển nội lực
để cứu độ chúng sinh. Ðó là phát triển "tứ vô lượng tâm", hành đạo Bồ tát thị
hiện vào đời hóa độ chúng sinh. Bồ tát theo Ðại thừa lẽ ra đã nhập Niết bàn,
nhưng vì chúng sanh đau khổ, Bồ tát thề nguyện không nhập Niết bàn để hóa
thân vào tất cả mọi thứ và làm mọi cách để cứu độ chúng sinh. Ðó là ý nghĩa
của lời thệ nguyện trong kinh Pháp Hoa "Chúng sinh vô biên thề nguyện độ".
Ðối với Ðại thừa, ai cũng có thể thành Bồ tát và hành đạo Bồ tát. Bất cứ bậc
chân tu nào theo Ðại thừa cũng vậy, không tu vì mình mà vì chúng sinh, bao
lâu còn một con người, một con kiến hay con chim đau khổ, run rẩy thì Bồ tát
thề nguyện chưa nhập Niết bàn. Nếu tu theo Tiểu thừa là "tự độ tự giác",
nghĩa là để đạt đến thanh tịnh, hỷ lạc (Alahán) cho riêng mình, dường như
thế. Thì tu theo Ðại thừa là để phát tâm Bồ tát. Và giải thoát là giải thoát trong
tuyệt đối, giải thoát toàn thể chứ không chỉ giải thoát riêng mình.
c. Giai thoát là phát Tâm Bồ Tát: Từ, Bi, Hỷ, Xả
Khi đã làm chủ được dòng tâm, an trụ chân tâm, sống trong tự do và sự thật,
hành giả sẽ mở tâm Bồ tát hay phát huy nội lực của mình để cứu độ chúng
sinh. Theo Phật Giáo, "mỗi người đều có cái tâm thường trụ, bất biến và bao
trùm vũ trụ, đồng với bản thể của vũ trụ. đó là cái tâm đại bình đẳng mà nhà Phật
gọi là cái Tâm Bát Nhã hay là Tâm Chân Như, Phật Tánh"
[42]

.
Con người là một huyền nhiệm có năng lực phi thường. Tiềm năng ấy trái
ngược nhau, một hướng về cao thượng chân chính, đó là đặc tính của bậc
thánh hiền. Và một hướng về những điều xấu xa, tội lỗi, đó là đặc tính của kẻ
tiểu nhân. Cả hai tiềm lực này đều có thể phát sinh bất ngờ với một sức mạnh
vô cùng hùng hậu. Cũng vậy, cái tâm của con người vô cùng dũng
mạnh:"Nó chứa đựng một kho tàng đức hạnh và một hầm tật xấu. Người biết
vun trồng đức hạnh là một phước lành cho nhân loại, kẻ bị tật xấu chi phối là
một đại họa"
[43]
. Bậc thánh nhân là người luôn luôn vượt lên trên đám đông
quần chúng để phục vụ nhân loại bằng cách nêu cao đức hạnh, không ngừng
gia công loại trừ tật xấu và phát triển phẩm hạnh đang ngủ quên trong tâm để
đi đến một lối sống cao thượng, một trạng thái cao siêu mà nhà Phật gọi là Tứ
vô lượng tâm. Tứ vô lượng tâm giúp cho con người trở nên hoàn thiện, nên
thánh ngay trong kiếp nhân sinh này. Ðồng thời cũng giúp cho tha nhân và xã
hội ngày thêm thịnh vượng, an vui, hạnh phúc. Nếu mỗi người cố gắng thực
hành Tứ vô lượng tâm thì thế giới này sẽ trở thành một vương quốc hòa bình,
an lạc, Tịnh Ðộ, trong đó, tất cả mọi người đều là anh em với nhau: "Tứ hải
giai huynh đệ"
[44]
.
Tứ vô lượng tâm là những đức tính rộng lớn bao la, không bến bờ không ranh
giới hay hạn định. Bao trùm tất cả mọi chúng sinh, không phân biệt tôn giáo
hay chủng tộc, cũng không loại trừ một chúng sinh nhỏ bé nào. Do đó, Giải
thoát theo chiều kích hiện sinh là phát triển tối đa những đức tính này: Từ, Bi,
Hỷ, Xả là vô lượng vô biên. Nhờ phát triển những đức tính này mà Phật giáo
trở nên gần gũi với con người, thiết tha với cuộc đời, lăn lộn giữa dòng đời ô
trọc để hóa độ chúng sinh.
- Tâm Từ (Metta): là lòng từ ái, hảo tâm, thiện ý, nói theo ngôn ngữ

nhà đạo là "động lòng trắc ẩn". Tâm từ không chỉ là tình thương có liên quan
đến xác thịt, hay lòng trìu mến đối với một người. Trái lại, tâm từ rải khắp mọi
chúng sinh, bao trùm tất cả vạn vật, sâu rộng, đậm đà, không loại bỏ và không
phân biệt chúng sanh nào. Mức tột cùng của tâm từ là tự đồng hóa với tất cả
chúng sanh, tự mình chan hòa trong toàn thể, thấy vạn vật là một, hằng ước
mong cho tất cả chúng sinh được an lành, hạnh phúc, vui tươi.
Người có tâm Từ không thể sân hận, thù oán, không nghĩ đến chuyện làm hại
người hay làm giảm giá trị một ai. Trái lại, xem tất cả chúng sinh là bạn, trời
đất là nhà, luôn cố ý làm cho người khác được an vui, hỷ lạc. Người có tâm từ
cũng giống như một từ mẫu, hằng sẵn sàng nâng đỡ, che chở cho con mình,
dầu có phải hy sinh tính mạng cũng cam lòng. Người thực hành tâm từ, tự
mình đồng hóa với tất cả chúng sinh đau khổ, rải tâm từ đến tất cả, không còn
thấy một chút khác biệt nào giữa mình và chúng sinh. Chính nhờ có tâm Từ vô
lượng vô biên mà Ðức Phật đã tạo an lành hạnh phúc cho chúng sinh, cả người
yêu kính lẫn kẻ thù nghịch hay oán ghét ngài. Ngài dạy: "Không thể lấy thù
oán để diệt sân hâ n, chỉ có tâm từ mới dập tắt lòng sân"
[45]
.
- Tâm bi (Karunã): Bi là sức mạnh làm cho tâm ta rung động trước
đau khổ của người khác và làm thoa dịu lòng người. Ðặc tính của tâm Bi là ý
muốn giúp người khác thoát khỏi khổ đau và tiêu trừ mọi hành động độc ác,
tàn bạo cũng như sự ươn hèn, suy nhược, ưu sầu và phiền muộn, không ngần
ngại hy sinh. Nhờ tâm Bi mà con người có thể hoàn toàn vị tha trong phục vụ
tha nhân, không sống cho mình mà sống cho người, cũng như Ðức Kitô: hiến
thân mình làm giá chuộc muôn người, làm ơn không mong đáp trả.
[46]
Ðối tượng của tâm Bi là những chúng sinh bần cùng đói khổ, dốt nát, "khố
rách áo ôm". Cụ thể là phần đông dân chúng Á châu và Phi châu được xem
như là những nước nghèo đói, chậm phát triển (thế giới thứ III), đang cần đến
tấm lòng từ bi trắc ẩn của toàn thế giới, đặc biệt là các đoàn thể tôn giáo. Theo

gương Ðức Phật và đức Giêsu, hết lòng thương xót, giải thoát chúng sinh khỏi
cảnh nghèo đói khổ đau bằng những hàng động cụ thể.
- Tâm Hỷ (Mudita): Tâm hỷ hay vui, không chỉ là trạng thái thỏa
thích suông hay có cảm tình riêng tư đối với một người nào đó mà là lòng hoan
hỷ thực sự, vui với hạnh phúc của người khác: "vui với ai đang mừng vui,
khóc với ai đang khổ sầu". Ðặc điểm chính của tâm hỷ là hoan lạc trước sự
thịnh vượng của người. Tâm hỷ bao trùm chúng sinh hữu hạnh, loại trừ mọi
hình thức bất mãn, hay lòng ganh tỵ trước hạnh phúc và thành công của tha
nhân
[47]
.
Ðiều khó khăn của tâm Từ cũng như tâm Hỷ là khó bộc lộ ra trước những ai
thù nghịch với mình. Do đó, ta cần theo gương Ðức Phật và đặc biệt là Ðức
Kitô trên thập giá, sẵn sàng tha thứ tất cả. Mặc dù bị người đời thù nghịch và
hãm hại, nhưng Tâm các Ngài vẫn bình an, hỷ lạc, không oán ghét kẻ đã giết
hại mình, trái lại còn yêu thương và cầu xin cho họ: "Lạy Cha, xin tha cho họ
vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23, 34).
- Tâm Xả (Upekkhã): Là đức tính cuối cùng trong Tứ Vô
Lượng Tâm, khó thực hành nhất nhưng cũng cần thiết nhất. Theo sát nghĩa
tâm Xả là thấy đúng và nhận định chính xác, suy nghĩ vô tư, không luyến ái,
không ghét bỏ, cũng không thiên vị. Xả không phải là lạnh lùng, lãnh đạm mà
là sự thanh thản, quân bình, chí công vô tư trước mọi thay đổi thăng trầm của
cuộc sống. Như vậy, tâm xả bao hàm ý nghĩa của một phẩm hạnh
[48]
.
Người có tâm Xả luôn an vui, tự tại trước những thành công hay thất bại,
trước những lời khen chê, trước hạnh phúc khổ đau và những biến đổi vô
thường của cuộc sống. Ðức Phật và Ðức Giêsu là mẫu gương tuyệt vời cho
những ai muốn thực hành tâm Xả. Bị người đời chỉ trích, chống đối, lăng mạ, sỉ
nhục nhưng các Ngài vẫn an nhiên và mở rộng tâm lòng ra với hết mọi người.

Có khổ nhục nào bằng khổ hình thập giá, vậy mà Ðức Giêsu vẫn vui lòng đón
nhận, và coi đó như là một "Hiến Lễ" cứu độ.
Tóm lại, Bốn đức tính trên (Từ, Bi, Hỷ, Xả) luôn luôn tiềm ẩn trong mỗi
người, nếu ai chú tâm, kiên trì trao dồi và phát triển mỗi ngày, người ấy sẽ trở
thành thánh nhân ngay trong kiếp sống này. Như Kinh Phật dạy: "Khi mình chưa
được độ mà muốn độ người, đó là tâm bồ tát. Khi mình giác ngộ rồi đem ra khai
sáng cho người tức là tánh Như lai"
[49]
. Hẳn thật, "Ðức từ bi, hay lòng cảm

×