Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng XHCN ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.67 KB, 42 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Mô hình kinh tế của Việt Nam được xác định là nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, định hướng XHCN (nói ngắn gọn là kinh tế chính trị định hướng
XHCN).
Nền kinh tế nứơc ta khi bước và thời kì quá độ lên CNXH còn mang
nặng tính tự túc tự cấp vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần
kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội
hoá sản xuất. Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích
tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã
hội cao, đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi,
hình thành đội ngũ cán bộ quản lí có trình độ, lao động lành nghề đáp ứng
nhu cầu phát triển của đất nước.
Như vậy phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với
nước ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của
nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động
quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai
thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp CNH, HĐH. Phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN chính
là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở Việt Nam
hiện nay. Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, hành chính, quan liêu, bao cấp, sang phát triển nền kinh té hàng hoá
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước, theo định hướng XHCN là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát
nhất đối với nền kinh tế của Việt Na trong hiện tại và tương lai.
Với mục đích góp một phần nhỏ bé của mình vào quá trình nghiên cứu
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Nhóm em đã chọn:
Nhóm 10 + 11_ lớp kinh tế chính trị 26
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
“ Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành


phần định hướng XHCN ở nước ta hiện nay” làm đề tài cho bài tiểu luận
của mình.
Cuối cùng, nhóm em xin chân thành cảm ơn cô giáo “ Đỗ Thị Kim
Hoa ” đã hướng dẫn chúng em làm bài tiểu luận này. Chúng em rất mong
cô giáo góp ý để có thể làm những bài tiểu luận sau được tốt hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Nhóm 10 + 11_ lớp kinh tế chính trị 26
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
I. Lí luận chung định hướng XHCN của nền kinh tế nhiều thành
phần trong thời kì quá độ ở Việt Nam
Nói đến quan điểm nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì trước
hết ta phải hiểu nền kinh tế thị trường là gì? Thế nào là thành phần kinh tế
và tại sao phải phát triển kinh tế theo định hướng XHCNmà không theo
một hướng khác
1. Khái niệm về XHCN
Tại đại hội đảng lần thứ 8vào tháng 6 năm 1996 đã xác đinh XHCN ở
Việt Nam là một xã hội do nhâm dân lao động làm chủ, có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất , chủ yếu có nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc , con người được
giải phóng khỏi áp bức bóc lột , mọi người có quyền làm chủ bản thân
mình và làm theo năng lực , hưởng theo lao động .là xã hội mà người dân
có cuộc sống ấm no hạnh phúc , tự do trong khuôn khổ pháp luật , có điều
kiện để phát triển toàn vẹn cá nhân . Các dân tộc trong nước đoàn kết , bình
đẳng và giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ, có quan hệ hợp tác hưu nghị với
nhân dân tất cả các nước trên thế giới .
Theo Mác, XHCN đáng lẽ phải ra đời từ các nước tư bản văn minh có
nền kinh tế phát triển cao xong do lịch sử Việt Nam đã chịu ảnh hưởng
thống trị của phong kiến và thực dân , Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đã
lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc đưa đất nước đi
lên XHCN .Vì vậy , Việt Nam một đất nước kinh tế chưa phát triển còn

nghèo làn lạc hậu đã đi theo con đường XHCN. Định hướng XHCN ở nước
ta ngày càng được giữ vững và không ngừng phát triển đặc biệt là định
hướng về chính trị , xã hội và kinh tế .
2. Thế nào là nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà sản phẩm sản
xuất ra để bán và trao đổi trên thị trường . Kinh tế thị trường là trình độ
Nhóm 10 + 11_ lớp kinh tế chính trị 26
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào ”
và “đầu ra” của sản xuất đều thong qua thi trường , trong kiểu tổ chức mà
toàn bộ quá trình sản xuất– phân phối – trao đổi – tiêu dùng , mua bán và
hệ thống thị trường và do thị trường quyết định . Kinh tế nhà nước giữ vai
trò định hướng kém hiệu quả , chưa làm tốt vai trò chủ đạo . Kinh tế hợp
tác chậm đổi mới , số hợp tác trước kia chỉ còn tồn tại 10% . Nhiều hình
thức hợp tác mới ra đời nhưng chưa được đánh giá cao , nhà nước lại chưa
có sự giúp đỡ nên phương hướng hoạt động còn nhiều vướng mắc , lúng
túng . Để kinh tế hợp tác hoạt động đúng hướng nhà nước phải sớm hoàn
thiện luật kinh tế hợp tác để tạo hành lang phát lí cho quá trình hoạt động
của thành phần kinh tế này . Không có sự đinh hướng của nhà nước , nó sẽ
không liên kết hơp tác với kinh tế nhà nước , xa rời nhà nước và xa dần
định hướng XHCN .
Bên cạnh đó , việc quản lí các doanh nghiệp còn rất nhiều sơ hở .
Phần lớn kinh tế tư bản nhà nước chỉ tập chung vào lĩnh vực dịch vụvà kinh
doanh bất động sản . Sự liên doanh của nhà nước với tư bản tư nhân rất ít .
Việc quản lí các lien doanh có vốn đầu tư còn nhiều sơ hở nghiêm trọng
dẫn đến các hiện tương tiêu cực như : công nghệ lạc hậu , khai man giá
thiết bị máy móc, trốn lậu thuế trở thành phổ biến . Những thành phần kinh
tế tiêu biểu cho lưc lượng quyết định định hướng XHCN còn non kém .
Chúng chưa phát huy được tính ưu việt so với nền sản xuất nhỏ . Sư non
kém đó cùng với năng lực quản lí điều hành yếu kém là nguy cơ dẫn đến

chệch hướng XHCN .
Do vậy , nhiệm vụ của nhân dân là tập chung mọi lực lượng , tranh thủ
thời cơ , đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ . Tiếp
tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lí nhà nước theo định hướng XHCN . Kinh tế xã hội cần nhận
thức tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế là một tất yếu khách quan ,
Nhóm 10 + 11_ lớp kinh tế chính trị 26
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
từ đó có thái độ đúng đắn trong việc khuyến khích sự phát triển của chúng
theo định hướng XHCN .
3. Thế nào thành phần kinh tế :
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế , kiểu quan hệ kinh tế dựa trên
một hình thức sở hữu nhát định về tư liệu sản xuất .
Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập mà có liên hệ chặt chẽ
với nhau , tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm
nhiều thành phần kinh tế .
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên CNXH là
tổng thể các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong môi trường hợp tác cạnh
tranh .
Mỗi thành phần kinh tế , tồn tại các hình thức tổ chức kinh tế với quy
mô và trình độ nhất định . Các thành phần kinh tế được thể hiện ở các hình
thức tổ chức kinh doanh đa dạng , đan xen , hỗn hợp .
4 . Việc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
Đi theo định hướng XHCN là đi đến mục tiêu không còn áp bức bóc
lột đi tới chế độ công hữu về tư liệu sản xuất thực hiên được công bằng xã
hội , nhân dân có mức sống cao . Về mặt kinh tế công bằng không có nghĩa
là bình quân . Đó là một quá trình tịnh tiến dần dần thong qua các biện
pháp kinh tế xã hội tổng hợp . Điểm khác nhau cơ bản của cơ chế kinh tế
XHCN so với cơ chế kinh tế tư bản chủ nghĩa là khả năng từng bước rút
ngắn khoảng cách giàu nghèo trong khi chủ nghĩa tư bản chỉ có thể dẫn đến

phân cực . Trong thời kì quá độ chúng ta thừa nhận còn có bóc lột . Đây là
hiện tương không hợp lí cần phải xoá bỏ .
Định hướng XHCN trong nền kinh tế đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa việc phát triển lực lượng sản xuất , xây dưng quan hệ sản
xuất mới , phải khắc phục được nguy cơ tụt hậu về kinh tế , xây dưng thành
công cơ sở vật chất của CNXH . Phải có những cải cách mới các hình thái
Nhóm 10 + 11_ lớp kinh tế chính trị 26
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kinh tế xã hội thay thế chế độ sở hữu này bằng chế độ sở hữu khác những
sự thay thế đó không diễn ra trong một lúc mà có tính kế thừa lịch sử trong
thời kì quá độ , lâu dài có một chế độ sở hữu thuần nhất theo quy luật phủ
định của phủ định . Mỗi hiện tượng mỗi sự vật đều kế thừa những yếu tố
tích cực và từng bước thải loại những nhân tố tiêu cực của hình thái cũ .
Cái cũ và cái mới đan kết với nhau trong mỗi sự vật và tác động lẫn nhau .
Qúa trình đổi mới nền kinh tế theo định hướng XHCN là một nguyên
tắc , một vấn đề quan trọng nhất , cơ bản nhất của tư duy kinh tế mới của
Đảng Cộng Sản Việt Nam .
Thực hiện mục tiêu đó là một nhiệm vụ lâu dài của nhiều thế hệ , phải
giải quyết bằng nhiều biện pháp không làm tổn hại đến lợi ích hợp pháp
của công dân . Bước đầu chìa khoá để giải quyết nhiệm vụ đó là xã hội hoá
XHCN trong thực tế nền sản xuất xã hội .
Việt Nam đang trong thời kì quá độ , việc phát triển nền kinh tế là một
nhiệm vụ hết sức quan trọng và bức thiết , đòi hỏi phải phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần đi theo định hướng XHCN .
5 . Cơ cấu sở hữu trong thời kì quá độ ở Việt Nam :
5.1 – Quan điểm mới trong việc đánh giá , xem xét cơ cấu sở hữu ở Việt
Nam
- Phải xem sở hữu là nền tảng kinh tế của một xã hội .
- Phải xuất phát từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để lựa
chọn các hình thức sở hữu và lien kết trong một cơ cấu sở hữu chung .

- Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm thước đo việc xác lập cơ cấu sở hữu
trong xã hội loài người .
- Để cho sở hữu không chỉ dừng lại về mặt pháp lí mà còn thực hiện
về mặt kinh tế , cần gắn sở hữu với kinh tế .
Nhóm 10 + 11_ lớp kinh tế chính trị 26
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Không nên chỉ dừng lại ở kết cấu bên ngoài của sở hữu mà cần phải
đổi mới cả kết cấu bên trong của sở hữu tức là phải tìm ra được cơ chế
thích hợp để hiện thực hoá .
5.2- Các loại hình sở hữu đang tồn tại :
- Sở hữu công cộng :
+ Nó là sở hữu của những người lao động được giải phóng và
liên kết lại .
+Không dẫn đến bóc lột
+Nó phải có tính chất xã hội trực tiếp
Mác và Ănghen hay gọi sở hữu công cộng là sở hữu xã hội . Sở
hữu công cộng với nội dung như vậy thì nó được thiết lập một cách đầy đủ
trong giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản ( LLSX và NSLĐ phát triển cao
, của cải xã hội dồi dào như lực lượng tự nhiên , xã hội không còn giai cấp ,
không còn NN ) . Khi chưa đủ hai điều này thì chưa có sở hữu công cộng
theo nghĩa đầy đủ . Có sở hữu nhà nước , sở hữu tập thể thì mới chỉ có
nhân tố của sở hữu công cộng . Tuy nhiên trong khuôn khổ nền kinh tế phát
triển theo định hướng XHCN và dựa trên sự đa dạng về hình thức sở hữu ta
cũng có thể coi sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể là đại diện cho sở hữu
công cộng nhưng nó chưa phải là sở hữu công cộng .
- Sở hữu tư nhân :
Là hình thức sở hữu mà tài sản , vốn … thuộc về các chủ tư nhân ( có
thể là nhà tư bản tư nhân , một tiểu thủ ) . Về xuất xứ sở hữu tư nhân không
phải do nhà nước và pháp luật tạo ra , nó có trước nhà nước và pháp luật ,
có tư nhân rồi mới có sự phân chia giai cấp xã hội .

Trong các quan hệ kinh tế của phương tây người ta rất tôn trọng tư
nhân . Sở hữu tư nhân gắn với cá nhân của con người , biết khai thác yếu tố
cá nhân và tạo ra được sự tăng trưởng kinh tế .
- Sở hữu hỗn hợp :
Nhóm 10 + 11_ lớp kinh tế chính trị 26
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Là loại hình sở hữu dựa trên cơ sở liên kết về vốn , về tài sản giữa
kinh tế và nhà nước hoặc giữa hợp tác kinh doanh . Cơ cấu sở hữu ở của
thời kì quá độ ở Việt Nam hiên nay chính sở hữu hỗn hợp là sở hữu trung
gian để kết nối tư nhân và hỗn hợp để đảm bảo định hướng phát triển của
sở hữu tư nhân . Trong sở hữu hỗn hợp có hình thức sở hữu cổ phần , nó
mới xuất hiện trở lại ở Việt Nam . Có thể nói là sự xuất hiên trở lại của nó
có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình chuyển sang kinh tế thi trường
định hướng XHCN ở Việt Nam .
Trong cơ sở 3 loại hình sở hữu này trong điều kiện ở Việt Nam hiện
nay xuất phát từ thực trạng về tư liệu sản xuất cũng như về năng lưc quản lí
, tiềm năng về vốn trong dân cư , sự tác động của xu thế hội nhập . 3 loại
hình sở hữu trên sẽ được đa dạng hoá thành 6 hình thức cụ thể như sau :
+Sở hữu nhà nước
+Sở hữu tập thể
+Sở hữu cá thể
+Sở hữu tư bản tư nhân
+Đồng sở hữu nhà nước với tư bản tư nhân
+Sở hữu của các chủ đầu tư nước ngoài
5.3. Quan hệ giữa các loại hình sở hữu
- Sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân đều là những nhân tố cấu thành
, cơ cấu sở hữu đa dạng trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị
trường đinh hướng XHCN ở Việt Nam . Nghĩa là ta không nên xem xét
chia tách rời giữa sở hữu công cộng và sở hữu cá nhân .
- Trong cơ cấu sở hữu đó thì sở hữu công cộng giữ vai trò nền tảng .

Đây là vấn đề có tính nguyên tắc vì CNXH ở Việt Nam là CNXH theo
quan điểm Mác – Lê nin .
- Sở hữu tư nhân là một trong những động lực kinh tế quan trọng của
nền kinh tế thị trường . Sở hữu tư nhân chính là cái chung của kinh tế thị
Nhóm 10 + 11_ lớp kinh tế chính trị 26
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trường . Thừa nhận sở hữu tư nhân trong nền kinh tế nhưng thừa nhận
trong kết cấu sở hữu đa dạng , chính vì thế họ đã xử lí , kết hợp một cách
hài hoà giữa sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng . Điểm cốt lõi ở đây là
giải pháp một cách hợp lí mối quan hệ giữa sở hữu công cộng và sở hữu tư
nhân .
- Sự phát triển của sở hữu cổ phần : chính là cơ chế để cho sở tư nhân
dần dần tiếp cận với sở hữu công cộng . Ở Việt Nam phải tiếp tục đẩy
mạnh sự phát triển của sở hữu cổ phần .
II. Nền kinh thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
1. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng và phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Tính tất yếu khách quan của
việc tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
- Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó,
mục tiêu quan trọng của thời kỳ này là đưa nên sản xuất nhỏ thành nền sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Do đó, yêu cầu bức thiết đặt ra là làm sao phát
triển được nền kinh tế còn lạc hậu và kém phát triển ở Việt Nam.
Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung cho mọi phương thức sản
xuất. Trong nền kinh tế chưa thực sự phát triển cao như ở nước ta, lực
lượng sản xuất luôn luôn tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau; tương ứng với
mỗi trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do
đó, cơ cấu của nền kinh tế, xét về phương diện kinh tế - xã hội, yêu cầu
phải là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất tồn tại ở
nhiều thang bậc khác nhau, do đó chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có
nhiều hình thức, tức là nền kinh sẽ có nhiều thành phần. Các thành phần
Nhóm 10 + 11_ lớp kinh tế chính trị 26
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kinh tế không tồn tại biệt lập với nhau mà có quan hệ hữu cơ với nhau tạo
thành cơ cấu kinh tế.
Sự tồn tại cơ cấu nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta là tất yếu khách quan, ngoài lý do cơ bản trên còn có các
lý do khác.
- Xã hội cũ để lại không ít các thành phần kinh tế và chưa thể cải biến
nhanh được. Hơn nữa sau nhiều năm cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất
mới đã xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế mới: Thành phần kinh tế
Nhà nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư bản Nhà
nước…Các thành phần kinh tế cũ và các thành phần kinh tế mới tồn tại
khách quan có quan hệ với nhau, cấu thành cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Xây dựng và phát triển hàng hoá có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước,
thực hiện sự quản lý vĩ mô của Nhà nước thực hiện sự nghiệp CNH – HĐH
nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH… với là những nhiệm vụ trọng
yếu của thời kỳ quá độ ở nước ta. Song trong điều kiện ngân sách nhưng rất
hạn hẹp, thu nhập Quốc dân còn thấp, nếu chỉ trông chờ vào Nhà nước thì
việc thực hiện các nhiệm vụ nói trên sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, việc
giải phóng mọi năng lực bị kìm hãm từ trước đến nay, khai thác và sử dụng
có hiệu quả mọi năng về vốn, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý…
tức là sử dụng sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế là đòi hỏi
khách quan của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Nước ta có lực lượng lao động dồi dào (40 triệu lao động), cần cù,
thông minh. Song số người chưa có việc còn nhiều, vừa lãng phí sức lao
động, vừa gây ra những khó khăn lớn về kinh tế xã hội. Trong khi khả năng

thu hút lao động của khu vực kinh tế Nhà nước không nhiều thì việc khai
thác, tận dụng tiềm năng của các thành phần kinh tế khác là một trong
những giải pháp quan trọng để tạo thêm công ăn việc làm cho người lao
động.
Nhóm 10 + 11_ lớp kinh tế chính trị 26
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Vì những lý do trên, việc tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là
một tất yếu khách quan là nhu cầu bức thiết để phát triển nền kinh tế nước
ta, giúp nhanh thời kỳ quá độ.
1.1. Việc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
Hiện nay, việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là
một tất yếu khách quan.
Sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giảm chính quyền
tiếp quản nền kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu về TLSX. Trên thực
tế có 2 loại tư liệu là: tư hữu lớn bao gồm nhà máy, hầm mỏ, doanh nghiệp
của các chủ tư bản trong và ngoài nước. Đó là kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tư
hữu nhỏ gồm: những người nông dân cá thể, những người buôn bán nhỏ -
đó là sản xuất nhỏ cá thể.
Để xác lập cơ sở kinh tế của chế độ mới, Nhà nước ta xây dựng và
phát triển các thành phần kinh tế mới. Đối với tư hữu lớn, kinh tế tư bản tư
nhân chỉ có phương pháp duy nhất là quốc hữu hoá của chủ nghĩa Mác –
Lênin khẳng định: “không nên quốc hữu hoá ngay một lúc mà phải tiến
hành từ từ theo theo từng giai đoạn và bằng hình thức, phương pháp nào là
tuỳ điều kiện cụ thể”. Cho nên doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư
bản còn tồn tại như một tất yếu kinh tế đồng thời hướng chủ nghĩa tư bản
và con đường Nhà nước hình thành, thành phần kinh tế tư bản Nhà nước.
Đối với tư hữu nhỏ thì chỉ có thông qua con đường hợp tác theo các
nguyên tắc mà Lênin đã vạch ra là tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi đồng
thời thuân theo các quy luật khách quan. Do đó, trong thời kỳ quá độ còn
tồn tại thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ.

Hơn nữa các thành phần kinh tế cũ còn có khả năng phát triển, còn có
vai trò đối với sản xuất đời sống. Bởi vậy không thể bồng chốc xoá bỏ ngay
được. Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế cần phải thu hút các nguồn
Nhóm 10 + 11_ lớp kinh tế chính trị 26
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lực từ bên ngoài. Do đó xuất hiện các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài.
Mặt khác, sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia do đặc điểm lịch sử,
điều kiện chủ quan khách nên tất yếu có sự phát triển không đồng đều về
lực lượng sản xuất giữa các ngành, các doanh nghiệp. Chính sự phát không
đều đó quyết định quan hệ sản xuất không giống nhau. Đó là cơ sở hình
thành các cơ sở kinh tế khác nhau. Sự tồn tại các thành phần kinh tế cở
nứơc ta có ý nghĩa lý luận và thực tế to lớn.
Trên đây là nguyên nhân dần đến sự tồn tại và phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần ở Việt Nam, Ngoài ra còn có cơ sở khách quan của sự tồn
tại và phát triển nền kinh tế là do.
Phân công lao động xã hội vơi tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất
nhưng lại không mất đi, trái lại ngày càng tăng cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Ở nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề cổ truyền có tiềm năng lớn trước
đây bị cơ chế kinh tế mà làm mai mốt nay được khôi phục và phát triển.
Sản phẩm đưa ra thị trường phong phú, đa dạng, chất lượng cao, mẫu mã
đẹp hơn. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt khả phạm vi
quốc gia trở thành phân công lao động trên phạm vi thế giới.
Nền kinh tế nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế nhưng trình
độ xã hội hoá giữa các ngành,, các đơn vị sản xuất kinh doanh trong cùng
một thành phần kinh tế, phân phối và tra đổi sản phẩm tất yếu phải thông
qua hình thái hàng hoá - tiền tệ để thực hiện các mối quan hệ kinh tế đảm
bảo lợi ích giữa các tổ chức trong các thành phần với người lao động và giữ
các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần người lao động và giữa các tổ
chức kinh tế thuộc các thành phần với nhau.

Như vậy nếu xuất phát từ ý muốn chủ quan hay cản trở quá trình tiền
tệ hoá các mối quan hệ kinh tế trong giai đoạn lịch sử hiện nay bằng những
hình thức khác nhau se kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta.
Nhóm 10 + 11_ lớp kinh tế chính trị 26
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Qua đó ta thấy sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế nước ta không
phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà là một tất yếu khách quan rất cần
thiết cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà.
Để thấy được tính quan trọng bức thiết của vấn đề đó ta đi sâu nghiên
cứu của từng thành phần kinh tế.
2. Các thành phần kinh tế
Các thành phần kinh tế nước ta có sự khác nhau rõ nét về hình thức sở
hữu, về cách thức thu nhập. Tuy nhiên, chúng đều xuất phát từ yêu cầu phát
triển khách quan của nền kinh tế và xã hội ta. Vì vậy, mỗi thành phần kinh
tế đều là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Chúng có vị trí, vai trò
nhất định trong một hệ thống kinh tế thống nhất có sự quản lí của nhà nước.
Căn cứ vào nguyên lí chung và điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng
cộng sản Việt Nam xác định nền kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH ở
Việt Nam có 6 thành phần kinh tế cơ bản.
2.1. Kinh tế nhà nước
Thành phần kinh tế nhà nước là những đơn vị tổ chức trực tiếp sản
xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất mà toàn bộ nguồn lực sở hữu của
nhà nước hoặc phần của nhà nước chiếm tỉ lệ khống chế.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, việc tổ chức, sản xuất kinh doanh được tiến hành theo hạch
toán kinh tế, thực hiện phân phối theo lao động.
Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các tài sản
thuộc sở hữu của nhà nước như đất đai, tài nguyên, kết cấu hạ tầng, các
nguôn dự trữ, ngân hàng, kể cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác. Đại hội toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: “Kinh tế nhà

nước cần tập trung vào những ngành, những lĩnh vực chủ yếu như: kết cấu
hạ tầng KT – XH, hệ thống tài chính ngân hàng, bảo hiểm, nhưng cơ sở sản
suất thương mại”.
Nhóm 10 + 11_ lớp kinh tế chính trị 26
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong mối quan hệ gắn bộ hữu cơ
với các thành phần kinh tế khác, thể hiện ở các mặt sau, kinh tế nhà nớc
tạo động lực về kinh tế để nhà nước có thể thực hiện hiệu chức năng sự
tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, nó còn
cung ứng những hàng hoá và lâu bền của toàn bộ nền Kinh tế. Mặt khác, nó
còn cung ứng những hàng hoá, dịch vụ cần thiết trong một số lĩnh vực quan
trọng như giao thông, thông tin liên lạc, quốc phòng, an ninh…Đồng thời
kinh tế nhà nước đảm bảo vai trò can thiệp và điều tiết vĩ mô của nhà nước,
khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, thực hiện một số chính
sách xã hội.
Sở dĩ kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo so với các thành phần kinh
tế khác là do: kinh tế nhà nước là thành phần dựa trên trình độ xã hội hoá
cao nhất, nó không chỉ có ưu thế về học vấn, trình độ, kĩ thuật mà còn có
vai trò quyết định sự tồn tại, phát triển của nền kinh tế nước ta.
Trong thành phần kinh tế nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước là bộ
phận quan trọng nhất của kinh tế, giữ vị trí then chốt, phải đi đầu trong việc
ứng dụng tiến bộ KHKT, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả
kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật.
Để làm được điều này phải hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều
chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt đông của các doanh
nghiệp hiện có, đồng thời phát triển các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước,
các doanh nghiệp cổ phần chi phối có một số ngành, lĩnh vực quan trọng,
then chốt.
Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước được Đảng và Nhà nước
ta thực hiện theo các hướng.

+ Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty
nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Khẩn trương cải tiện
tình hình tài chính và lao động của các doanh nghiệp nhiều, củng cố và
hiện đại hoá một bước các tổng công ty nhà nước. Ngày nay, Việt Nam
Nhóm 10 + 11_ lớp kinh tế chính trị 26
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đang chủ trương xây dựng các tập đoàn kinh tế về dầu mở, về than… Đây
là những công nghiệp then chốt, chủ yếu là nền tảng để phát triển các thành
phần kinh tế khác.
+ Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng sở hữu đối với
những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100%.
+ Giáo, bán, cho thuê… các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước
không cần nắm giữ.
+ Sáp nhập, giải thể cho phá sản nhiều doanh nghiệp hoạt động không
hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên.
Thành phần kinh tế nhà nước có vai trò vô cùng to lớn kinh tế nhà
nước đi đầu về năng suất chất lượng, hiệu quả, từ đó thúc đẩy sự tăng trưởng
kinh tế nhanh bền vững. Kinh tế nhà nước là nền tảng là điều kiện hỗ trợ các
thành phần kinh tế khác cùng phát triển, kinh tế nhà nước là lực lượng vật
chất về nhà nước điều tiết kinh tế. Ngày nay, cùng với kinh tế tập thể, kinh tế
nhà nước đang dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế nhà nước quốc
dân.
Qua đó, cho thấy coi nhẹ kinh tế nhà nước cho rằng chuyển sang cơ
chế thị trường phải tự hữu hoá tất cả tư liệu sản xuất là sai lầm, nhưng hếu
duy trì và phát triển kinh tế nhà nước thiếu cân nhắc kĩ đến hiệu quả kinh tế
- xã hội của nó thì cũng không đúng.
Mấy năm qua, khu vực kinh tế nhà nước có chuyển biến tích cực biểu
hiện ở: tỉ trọng sản phẩm trong nước tăng nhanh, từ 36%/năm 1991 lên
Hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng lên, số doanh nghiệp thua lỗ giảm
bớt: tuy nhiên, nó cũng chưa phát huy đầy đủ tính ưu việt và sự chỉ đạo đối

với nền kinh tế quốc dân, những tiến bộ đạt được chưa đáp ứng yêu cầu,
chưa tương ứng với năng lực sẵn có. Doanh nghiệp nhà nước chiếm 85%
tài sản cố định trong công nghiệp; 100% mỏ khoáng sản lớn, hơn 90% lao
động được đào tạo nhưng hiệu quả kinh doanh còn thấp. Do đó, vấn đề cấp
thiết đặt ra cho khu vực kinh tế nhà nước là tạo ra động lực, lợi ích trực tiếp
Nhóm 10 + 11_ lớp kinh tế chính trị 26
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cho người lao động về nhận thức quyền làm chù, kiểm tra, kiểm soát quá
trình sản xuất kinh doanh. Việt đổi mới kinh tế nhà nước phải có sự coi
trọng đầu tư và thường xuyên tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm, bổ sung
tri thức, nhằm thực hiện tốt vai trò chủ đạo và mục tiêu định hướng XHCN
của thành phần kinh tế này.
2.2.Thành phần kinh tế tập thể.
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kĩ thuật do
người lao động tự nguyện, là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể.
Nó bao gồm các đơn vị kinh tế do những người lao động góp vốn, góp sức
cùng sản xuất, kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện tập trung bình đẳng
cùng có lợi. Là thành phần kinh tế liên kết các thành viên nhằm kết hợp sức
mạnh các thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn
những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống.
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là
hợp tác dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng
rãi những người lao động, các hộ sản xuất. Kinh doanh, các doanh nghiệp
vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế. Không giới hạn qui mô và địa
bàn, phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ,
hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Nòng cốt của thành phần kinh tế tập thể là kinh tế hợp tác xã
Hiện nay, một thực tế đặt ra là nên không củng cố và phát triển kinh tế
hợp tác xã để nó cùng với kinh tế nhà nước tạo nền tảng của xã hội thì mục
tiêu phát triển nền kinh tế thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là

rất khó khăn. Vì vậy, đại hội toàn quốc lần VIII đã nêu lên nhiệm vụ “phải
phát triển kinh tế hợp tác xã với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao”.
Thực tiễn cho thấy: Kinh tế tập hợp phải được tổ chức trên cơ sở đóng
góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên hưởng lợi theo
việc chung. Kinh tế hợp tác xã có nhiều dạng, có những thình thức trở
Nhóm 10 + 11_ lớp kinh tế chính trị 26

×