MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC 1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ 2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
I. Khái niệm quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài 2
II. Vấn đề phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài –
Vấn đề cần chung tay giải quyết
4
1. Đi tìm nguyên nhân 4
2. Đâu là giải pháp 5
III. Thực trạng vấn đề Quyền và lợi ích của phụ nữ trong hôn
nhân có yếu tố nước ngoài ở một số thành phố của nước ta.
7
1. Thực trạng 7
2. Nguyên nhân chính 8
3. Kiến nghị 10
IV. Ví dụ về các vấn đề hôn nhân có yếu tố nước ngoài 12
V. Các biện pháp giảm thiểu rủi ro trong hôn nhân có yếu tố
nước ngoài
13
1. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể, các tổ
chức xã hội
13
2. Vai trò gia đình 14
3. Hành trang cho các thôn nữ kết hôn với người nước ngoài 15
a.Thông tin về thực trạng đời sống hôn nhân của những cô
dâu Việt Nam ở nước ngoài
15
b. Các em cần được đào tạo, được học về làm vợ, làm dâu ở
nước ngoài với một số nội dung cơ bản
15
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Với chính sách “ hòa bình,hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với
tất cả các nước trên thế giới” , ở nước ta các quan hệ hôn và gia đình có
yếu tố nước ngoài ngày càng phát triển một cách đa dạng và phức tạp cả
về bề rộng lẫn chiều sâu. Việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia
1
đình có yếu tố nước ngoài trở thành một yếu tố cấp bách, quan trọng
nhằm làm ổn định và phát triển giao lưu dân sự quốc tế, đồng thời bảo vệ
được quyền, lợi ích hợp pháp của công dân các nước có liên quan. Hiện
nay vấn đề phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài đang được
quan tâm nhiều ở nước ta hiện nay.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Khái niệm quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 điều chỉnh quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài theo nghĩa rộng hơn so với Luật hôn nhân
và gia đình năm 1986. Theo quy định tại khoản 14 Điều 8:
“ Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn
nhân và gia đình:
a. Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài;
b. Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam;
c. Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay
đổi,chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản
liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”.
- Theo quy định tại Khoản 4 Điều 100 thì : “ Các quy định của
chương này cũng được áp dụng đối với các quan hệ hôn nhân và gia đình
giữa công dân Việt Nam với nhau mà một hoặc cả hai bên định cư ở nước
ngoài”.
Theo các quy định trên thì quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài có thể được hiểu là các quan hệ hôn nhân và gia đình như sau
- Có ít nhất một bên chủ thể là người nước ngoài.Nó chỉ xảy ra trong
các trường hợp sau: Giữa người Việt Nam với người nước ngoài, giữa
người Việt Nam với người không có quốc tịch, giữa người nước ngoài
2
với nhau thường trú tại Việt Nam, giữa người không có quốc tịch với
nhau thường trú tại Việt Nam.
- Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài ( điểm c khoản 14 Điều
8). Theo quy định này có thể hiểu rằng, trong một số trường hợp nhất
định, pháp luật Việt Nam thừa nhận việc phát sinh, thay đổi, chấm dứt
các quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các công dân Việt Nam với nhau
theo pháp luật nước ngoài trong một chừng mực nhất định.
Ví dụ : Trường hợp hai công dân Việt Nam kết hôn với nhau tại Mỹ,
theo pháp luật của Mỹ và chung sống tại Mỹ khoảng 10 năm, sau đó
chuyển về Việt Nam sinh sống. Sau khi về nước Việt Nam sống được hai
năm thì họ phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu li hôn tại tòa án Việt Nam.
Trong trường hợp này, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết việc ly
hôn, song việc ly hôn chỉ có thể giải quyết được nếu Tòa án Việt Nam
thừa nhận việc kết hôn của họ và các tài sản mà họ có ở Mỹ là hợp pháp.
Theo pháp luật của Mỹ, điều kiện kết hôn được xác định theo pháp luật
của nước nơi tiến hành kết hôn, bất kể quốc tịch và nơi cư trú của các bên
đương sự. Trong trường hợp trên, điều kiện kết hôn được xác định theo
pháp luật của Mỹ, quan hệ tài sản của vợ chồng được xác định theo luật
nơi cư trú của vợ chồng, tức là theo luật của Mỹ.
- Quan hệ giữa công dân Việt Nam với nhau mà tài sản liên quan đến
quan hệ đó ở nước ngoài. Trong trường hợp này các bên chủ thể.
Như vậy theo điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, khái niệm
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được hiểu là các quan
hệ hôn nhân và gia đình có một trong ba yếu tố sau: chủ thể là người
nước ngoài, hoặc sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan
hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản có
liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
3
II. Vấn đề phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài – vấn đề
cần chung tay giải quyết.
Trước diễn biến phức tạp của tình hình phụ nữ Việt Nam kết hôn với
người nước ngoài, trong các ngày từ 8 – 10/6/2006,TW Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam đã tổ chức Hội nghị về Vấn đề phụ nữ Việt Nam kết
hôn với người nước ngoài với sự tham gia của đại diện TW.Hội Liên hiệp
phụ nữ, Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh/thành phố, các Bộ, Ngành, đoàn thể,
Thành phố Hồ Chí Minh nhằm tìm ra nguyên nhân, giải pháp để nhanh
chóng giải quyết vấn đề bức xúc này.
1. Đi tìm nguyên nhân.
Không phải bây giờ các phương tiện thông tin đại chúng mới đề cập
đến vấn đề phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài. Nhưng để có
một cái nhìn xác thực đâu là nguyên nhân dẫn một số cô gái Việt Nam
chủ yếu ở độ tuổi từ 18 – 25 lại sa cơ lỡ bước trở thành “ món hàng” để
được “ coi mắt”, xếp hàng chờ đợi đến lượt được lựa chọn làm vợ hoặc bị
lừa gạt vào các “ động quỷ” bán thân nơi xứ người, qua các ý kiến tại hội
nghị cho thấy hầu hết họ là những phụ nữ nông thôn, học vấn thấp và đa
phần là muốn đổi đời nhanh chóng bất kể tuổi tác, tình yêu, biên giới.
Một bộ phận nữ thanh niên lười lao động, thích đua đòi, ăn chơi. Bên
cạnh đó, một số cô gái do hoàn cảnh kinh tế quá khó khăn đã coi con
đường lấy chồng nước ngoài là cách trả hiếu duy nhất.
Nhưng muốn “ được” chồng nước ngoài thì không thể không kể đến
các “cò” môi giới hoạt động dưới nhiều hình thức ngày càng tinh vi, xảo
quyệt. “ cò” mồi có thể là những người “ hàng xóm” vốn hàng ngày vẫn
thường tiếp xúc, thân thiết hay những người đã từng lấy chồng nước
ngoài, những người ở thành phố có mối quan hệ họ hàng quen biết, về
nông thôn rỉ tai những cô gái nhẹ dạ, cả tin. Có thể thấy nơi nào “ cò”
môi giới hoạt động mạnh thì nơi đó có nhiều phụ nữ lấy chồng nước
ngoài.
4
Mặt khác, quy định về các thủ tục đăng kí kết hôn với người nước
ngoài của ta chưa chặt chẽ. Chỉ vài ngày sau khi các cô gái đã lọt vào
“mắt xanh” của những người đàn ông ngoại quốc là “ cò” làm xong thủ
tục kết hôn, chỉ cần chờ vài tháng sau là có vé máy bay về nhà chồng.
Một nguyên nhân khác nữa là công tác tuyên truyền, phổ biến kiến
thức pháp luật, giáo dục đạo đức, lối sống còn hạn chế thực hiện chưa
thường xuyên đã dẫn đến nhận thức sai lệch của một bộ phận chị em phụ
nữ cũng như cộng đồng về việc kết hôn với người nước ngoài.
2. Đâu là giải pháp ?
Trong xu thế hội nhập, kết hôn với người nước ngoài là quyền nhân
thân của mỗi người trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tự nguyện tiến bộ,
hạnh phúc và hiện đã không còn bị pháp luật cấm đoán. Dự báo số phụ nữ
lấy chồng nước ngoài còn gia tăng, chắc chắn không còn bó hẹp trong
phạm vi một số nước như hiện tại. Tuy nhiên, việc lợi dụng hôn nhân với
người nước ngoài để buôn bán trục lợi, xúc phạm đến danh dự, nhân
phẩm của người phụ nữ Việt Nam là điều cần phải lên án và xử lý thích
đáng, Theo Trung tướng Nguyễn Việt Thành, Phó Tổng cục trưởng Tổng
cục Cảnh sát – Bộ Công an : Chưa bao giờ nhân phẩm của người phụ nữ
Việt Nam bị xâm hại nghiêm trọng như trong thời gian qua. Nhiều đường
dây môi giới mại dâm tổ chức coi mắt, lựa chọn rất trắng trợn, hàng nghìn
phụ nữ bị bán ra nước ngoài làm nô lệ tình dục. Thế nhưng, việc phát
hiện, ngăn chặn của các lực lượng chức năng vẫn còn hạn chế, đặc biệt là
chính quyền sở tại. Chính vì vậy, đã đến lúc rất cần có sự phối hợp đồng
bộ giữa các cấp, nghành, các cơ quan, các tổ chức, đoàn thể chung tay
giải quyết vấn đề này.
Đối với ngành Công an cần tăng cường kiểm tra, phát hiện các tổ
chức, cá nhân môi giới bất hợp pháp và xử lí nghiêm minh trước pháp
luật. Kiên quyết xử lý những cán bộ, công chức có biểu hiện tiêu cực
hoặc tiếp tay cho bọn tội phạm trong việc làm thủ tục kết hôn giữa phụ nữ
5
Việt Nam với người nước ngoài. Với các nhà hàng, khách sạn cho thuê
địa điểm, tổ chức xem mặt cô dâu, nhẹ thì xử phạt hành chính, còn nặng
thì cần rút giấy phép hành nghề.
Đối với ngành Tư pháp, Ông Trần Thất, vụ trưởng Vụ Hành chính Tư
pháp, Bộ Tư pháp cho rằng, Bộ tư pháp sẽ cùng Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam và một số cơ quan hữu quant ham mưu hoàn chỉnh các quy
định bổ sung trình Chính phủ và Quốc hội phê duyệt, tiến hành đàm phán
hỗ trợ tư pháp về hôn nhân và gia đình với một số nước trong khu vực.
Một giải pháp mang tính cấp bách và cũng là lâu dài là cần phải quy
định rõ trình độ ngôn ngữ nhất định của người chuẩn bị kết hôn và nhất
thiết phải qua một lớp học ngắn hạn về luật pháp, văn hóa, phong tục của
đất nước mà người phụ nữ đến làm dâu. Chỉ khi nào cô gái có đủ điều
kiện cần thiết theo quy định thì Sở Tư pháp mới chứng nhậ kết hôn.
Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức của
chị em là một nhiệm vụ hết sức quan trọng không chỉ riêng với Hội Liên
hiệp phụ nữ mà cần thiết, đề nghị Bộ Chính trị ra nghị quyết về vấn đề
này để cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc. Quan tâm đến việc phát triển
kinh tế, tạo công ăn việc làm, đảm bảo cuộc sống của chị em, đặc biệt là
đối với chị em vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số và chị em bị
buôn bán hoặc do hôn nhân bất hạnh trở về quê hương làm ăn sinh sống
cũng là trách nhiệm chung của các Bộ, ngành, các cấp ủy, chính quyền
địa phương. Việc tuyên truyền giáo dục, nhân rộng các gương điển hình,
tiên tiến, những người biết vượt lên số phận hay tổ chức những cuộc tọa
đàm, trao đổi trực tiếp với những người đã từng là nạn nhân của buôn
bán, bất hạnh đẻ răn đe cũng là việc nên làm.
Và cũng cần phải cảnh tỉnh với một số chị em rằng, tất cả các biện
pháp nêu trên có thành công hay không thì điều quan trọng không kém
còn phụ thuộc vào quyền quyết định của chị em. Trong thời đại ngày nay,
khi xã hội không còn chuyện “ cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”, và Luật
6