Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.17 KB, 98 trang )

Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
1
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thương mại toàn cầu, bất kỳ quốc gia nào cũng phải
quan tâm tới vấn đề xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Trong đó xuất khẩu
đóng vai trò rất quan trọng, góp phần đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nhập
khẩu, làm cân bằng cán cân thương mại, tăng đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển có tốc độ tăng
trưởng nhanh trên thế giới. Việc gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới -
WTO lại càng tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế Việt Nam nói chung,
tăng trưởng cho kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam nói riêng. Song, nền
kinh tế sau hội nhập cũng đang phải gồng mình lên trước khủng hoảng tài
chính bắt nguồn từ chính các nước mà ta đã nghĩ rằng sẽ đóng góp nhiều nhất
cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà trong quá trình hội nhập ngày càng
sâu rộng, mà sự tác động trực tiếp là đối với kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam. Bong bong bất động sản có nguyên nhân sâu xa từ tín dụng dưới chuẩn
tràn lan đã nổ như báo hiệu sự xuất hiện của khủng hoảng tại nền kinh tế lớn
mạnh nhất thế giới – Hoa Kỳ. Khủng hoảng tài chính càng làm cho suy thoái
kinh tế đã xuất hiện lại càng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Biểu hiện
mạnh mẽ của suy thoái và khủng hoảng ở các nước phát triển không cần phải
đề cập đến nhiều vì đã quá rõ và đó cũng là nguyên nhân khiến cho các nền
kinh tế đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi bắt đầu cảm thấy sức nóng
của mình. Sự ảnh hưởng lớn nhất có thể dễ dàng nhận ra đó là sự tụt dốc của
ngành xuất khẩu ở các nước. Trung Quốc – quốc gia có tăng trưởng kinh tế
nóng nhất thế giới có lẽ là ví dụ nổi bật nhất, hiện đang đối mặt với khó khăn
trong xuất khẩu khi mới chỉ mấy tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu
đã giảm 20% so với cùng kỳ năm 2008. Việt Nam cũng không nằm ngoài
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A


2
danh sách các nước gặp khó khăn trong vấn đề này. Các con số thống kê
những tháng đầu năm 2009 quả là đáng lo ngại. Các Doanh nghiệp xuất khẩu
Việt Nam đang lâm vào tình cảnh khó khăn khi có quá nhiều rủi ro chờ đón
phía trước. Nhu cầu tiêu dùng của người dân các nước phát triển đều giảm đi
đáng kể ngay cả với hàng hóa trong nước cũng như hàng hóa nhập khẩu.
Trong khi các nước đang suy thoái đó lại chiếm phần lớn trong “chiếc bánh”
Xuất khẩu của Việt Nam. Chưa cần nhắc đến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các
nước xuất khẩu với nhau thì tình hình khó khăn của các thị trường tiêu thụ
cũng đủ khiến cho tình hình của các Doanh nghiệp xuất khẩu không mấy sáng
sủa. Kinh tế khó khăn, đầu tư giảm sút, nhu cầu về nguyên nhiên liệu giảm
cũng làm cho mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là dầu thô khốn đốn.
Như vậy, với các rủi ro tiềm ẩn vốn có, nguồn vốn đối với ngành Xuất
khẩu chưa bao giờ là đủ, thêm vào đó là cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế
hiện nay khiến cho các Doanh nghiệp xuất khẩu càng điêu đứng, khó khăn.
Cũng như đã đề cập đến, Xuất khẩu là một ngành quan trọng trong quá trình
hội nhập thương mại toàn cầu hiện nay, nên cũng như các nước khác, chính
sách tín dụng Xuất khẩu là một chính sách đang được Chính phủ quan tâm
thực hiện.
May mắn được thực tập ở Ngân hàng Phát triển Việt Nam, em đã được
tiếp cận với nhiều nguồn thông tin cũng như các hoạt động liên quan chặt chẽ
đến tình hình hỗ trợ của Chính phủ cho ngành xuất khẩu nước nhà. Từ những
băn khoăn của mình về tình hình của ngành xuất khẩu Việt Nam như đã nhắc
đến ở trên, em đã nghiên cứu và thực hiện chuyên đề thực tập của mình về đề
tài:“Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng
Phát triển Việt Nam”.
Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, danh mục tài liệu tham
khảo, chuyên đề này được kết cấu theo 3 chương:
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A

3
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân
hàng phát triển
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển
Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng
phát triển Việt Nam.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong việc nghiên cứu tìm hiểu và học hỏi
để hoàn thành chuyên đề, nhưng chắc chắn em không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của các thầy
cô, ban lãnh đạo và các anh chị trong Ban tín dụng Xuất khẩu, Ngân hàng
Phát triển Việt Nam để chuyên đề được thành công hơn.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giáo viên hướng dẫn: PGS.TS
Nguyễn Thị Thu Thảo – người đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề
này.
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
4
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG
CHO VAY XUẤT KHẨU TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN
1.1. Tổng quan về Ngân hàng phát triển
1.1.1 Khái niệm Ngân hàng phát triển
Quá trình hình thành và phát triển của các tổ chức tài chính gắn liền với
quá trình phát triển kinh tế. Các ngân hàng thương mại (NHTM), các tổ chức
tài chính phi ngân hàng đóng vai trò ngày càng quan trọng trong thu hút tiền
tiết kiệm, tiền đầu tư của nền kinh tế và tài trợ cho phát triển, hạn chế rủi ro
và tăng khả năng sinh lời. Phần lớn các trung gian tài chính hoạt động vì mục
tiêu tối đa hóa lợi ích tài chính của chủ sở hữu. Song có một số tổ chức hoạt
động với các mục tiêu và đối tượng phục vụ đặc biệt, hướng tới lợi ích kinh tế
xã hội nhiều hơn. Những thể chế thực hiện các mục tiêu đó có thể kể ra là:

Quỹ Hỗ trợ phát triển, Ngân hàng xuất nhập khẩu, Ngân hàng phát triển và
các định chế tài chính khác được gọi chung là các tổ chức tài chính phát triển.
Các tổ chức này phục vụ các loại hình doanh nghiệp, dịch vụ có tính chất ưu
đãi của Nhà nước.
Như vậy, Ngân hàng Phát triển (NHPT) thực chất là một tổ chức tín
dụng mà hoạt động chủ yếu của nó là nhằm tài trợ có hiệu quả cho các
chương trình phát triển kinh tế do Chính phủ hoạch định. Nói cách khác,
NHPT là một kênh hỗ trợ của Nhà nước thông qua chính sách tài trợ ưu đãi.
Để thực hiện mục tiêu của Chính phủ, NHPT cũng có những đặc trưng
cơ bản chủ yếu như sau:
• Là một tổ chức tín dụng do Nhà nước thành lập và 100% vốn Nhà
nước, hoạt động của Ngân hàng đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ Chính phủ và đặt
dưới sự kiểm soát của Chính phủ.
• Hoạt động của NHPT không vì mục đích lợi nhuận, được Chính phủ
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
5
đảm bảo khả năng thanh toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp Ngân
sách Nhà nước.
1.1.2 Các hoạt động của Ngân hàng phát triển
Tùy theo điều kiện của mỗi quốc gia và trong từng thời kỳ phát triển,
NHPT có thể thực hiện một hay nhiều chính sách khác nhau, có thể chỉ thực
hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, hoặc thực hiện chính
sách đầu tư phát triển và chính sách đầu tư xuất khẩu hay thực hiện nhiều
nhiệm vụ khác. Chung quy lại, hoạt động của NHPT thực hiện trên cơ sở
chương trình tín dụng ưu đãi của Chính phủ (tín dụng đầu tư phát triển, tín
dụng xuất khẩu) và các dịch vụ khác cho các đối tượng ưu tiên và có trọng
điểm nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế. Tính chất ưu đãi của chính sách thong
qua hoạt động của NHPT có thể là: Cho vay với lãi suất thấp; không cần tài
sản thế chấp hoặc cần ở mức thấp so với giá trị khoản vay; tài trợ cho các dự

án đầu tư, hợp đồng xuất khẩu có rủi ro cao, ưu đãi về mức phí, hạn mức tín
dụng, các hình thức bổ trợ dưới dạng cam kết trả thay cho các NHTM để các
ngân hàng này cung cấp tín dụng cho các Doanh nghiệp (DN) khi các DN gặp
rủi ro không trả được nợ để vừa giảm áp lực về vốn cho vay trực tiếp của Nhà
nước, vừa tạo điều kiện cho các DN được tài trợ, từ đó thúc đẩy nền sản xuất
phát triển theo đúng chương trình của Chính phủ. NHPT thực hiện chính sách
tín dụng của Chính phủ thông qua các hoạt động cơ bản sau:
• Huy động và quản lý vốn: huy động vốn là một nhiệm vụ quan trọng
của NHPT, nhưng bài toán đặt ra đối với NHPT là làm thế nào để huy động
được vốn với lãi suất bình quân thấp, thời gian sử dụng dài và chấp nhận rủi
ro trong điều kiện cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng gia tăng, tiết kiệm
trung và dài hạn của dân cư thấp. Điều này đòi hỏi phải có sự nỗ lực kết hợp
giữa NHPT và các điều kiện kinh tế, pháp luật phù hợp.
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
6
Các hình thức huy động vốn bao gồm: huy động từ tiền gửi của các tổ
chức kinh tế trên thị trường, phát hành trái phiếu Chính phủ, hoặc Chính phủ
bảo lãnh, huy động các quỹ của Nhà nước, các khoản vay tài trợ của các tổ
chức khác, vay nước ngoài (các khoản vay ưu đãi từ các tổ chức tài chính có
mục tiêu cho vay ưu đãi với các dự án phát triển như Ngân hàng thế giới,
NHPT khu vực hoặc các quỹ dành cho phát triển của Chính phủ tại các nước
phát triển), vốn và quỹ của NHPT.
Quản lý nguồn vốn với phương châm tìm kiếm và thực hiện các biện
pháp gia tăng quy mô nguồn vốn có lãi suất thấp, kỳ hạn dài và ổn định là
điều kiện sống còn của NHPT. Các cách thường thực hiện là liên kết các dự
án trong nước và nhà tài trợ nước ngoài, xúc tiến thường xuyên các hoạt động
kêu gọi tài trợ, xác lập mối quan hệ giữa Chính phủ với ngân hàng trong tài
trợ dự án, phát hành trái phiếu Chính phủ… Đồng thời thực hiện quản lý chặt
chẽ kỳ hạn và chi phí vốn.

• Tài trợ cho các dự án đầu tư phát triển, dự án xuất khẩu hoặc hợp
đồng xuất khẩu theo đối tượng mục tiêu mà Chính phủ đặt ra trong từng thời
kỳ, kết hợp chặt chẽ việc tài trợ và quản lý các khoản tài trợ để đảm bảo an
toàn vốn và bù đắp chi phí. Các hoạt động tài trợ gồm:
+ Tài trợ cho các dự án đầu tư phát triển đã được chỉ định trước của chủ
tài trợ (cho vay theo chỉ định của Chính phủ, quản lý và cho vay lại các nguồn
vốn ODA, cho vay các quỹ quay vòng), cho vay theo đối tượng ưu tiên, có thể
tài trợ độc lập hoặc đồng tài trợ, bảo lãnh tín dụng đầu tư…
+ Tài trợ cho các dự án xuất khẩu với tỷ lệ doanh thu xuất khẩu quy
định, quản lý và cho vay các dự án ODA ra nước ngoài, tài trợ dự án xuất
khẩu tư liệu sản xuất sang thị trường ưu tiên, cho vay ngắn hạn những đối
tượng ưu tiên, bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, cho thuê.
• Cung cấp các dịch vụ thanh toán, tư vấn cho DN, cung cấp thông tin
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
7
và các dịch vụ thu nợ khó đòi…
1.2 Cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển
Tín dụng xuất khẩu là hình thức tài trợ trực tiếp về mặt tài chính để các
nhà xuất khẩu (NXK) nước sở tại đẩy mạnh sản xuất, khuyến khích xuất
khẩu, đồng thời giúp các nhà nhập khẩu (NNK) nước ngoài có đủ các điều
kiện về tài chính để nhập khẩu hàng hóa của nước đó.
Trong tín dụng xuất khẩu thì cho vay xuất khẩu (CVXK) là hình thức
đầu tiên xuất hiện và luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Cùng với sự phát triển của
sản xuất hàng hóa và nền kinh tế, tín dụng xuất khẩu phát triển ở những cấp
độ cao hơn, đa dạng hơn, từ hình thức trực tiếp phát triển thêm các hình thức
gián tiếp như: Cho vay NNK, bảo lãnh xuất khẩu, bao thanh toán, cho thuê tài
chính… và có sự bổ trợ bởi bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Tuy đa dạng như
vây song xét về cơ bản thì các loại hình này đều có chung bản chất là sự cung
cấp tín dụng trợ giúp tài chính cho NXK trên cơ sở bên cung cấp tín dụng và

bên nhận tín dụng tin cậy lẫn nhau và cùng có lợi.
1.2.1 Khái niệm và đặc trưng của cho vay xuất khẩu
Về bản chất, cho vay là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau
một thời gian nhất định; đó là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử
dụng vón và là quan hệ bình đẳng, các bên cùng có lợi. Trên cơ sở đó, cho
vay xuất khẩu của NHPT là một hình thức mà bên cho vay (là NHPT) cung
cấp vốn có thời hạn cho bên vay (bao gồm NXK và NNK) để thực hiện được
hợp đồng xuất khẩu hay dự án xuất khẩu, nhưng có những đặc trưng riêng để
phản ánh được tính chất hỗ trợ của Nhà nước:
• Cho vay xuất khẩu có mục đích không vì lợi nhuận: Với mục tiêu hỗ
trợ để thúc đẩy xuất khẩu, Chính phủ sử dụng công cụ tín dụng hỗ trợ xuất
khẩu nhằm hỗ trợ tài chính cho các DN, cá nhân để đầu tư đổi mới công nghệ,
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
8
giảm chi phí, hạ giá thành, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, từ đó
nâng cao sức cạnh trah của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Các đơn vị sản
xuất, chế biến, kinh doanh mặt hàng xuất khẩu chiến lược và có tỷ lệ xuất
khẩu đảm bảo quy định của Nhà nước sẽ được vay vốn của Nhà nước với lãi
suất thấp hơn lãi suất thị trường, lãi suất này sẽ tăng với tỷ lệ thấp hơn mức
độ tăng rủi ro và độ lớn của khoản vay. Điều này đảm bảo tính chất hỗ trợ cho
các khoản vay lớn, chiến lược nhưng có nhiều rủi ro hoặc giúp cho các Doanh
nghiệp cải thiện khả năng sinh lời khi đầu tư vào mặt hàng mới, thị trường
mới. Đây là một tiêu chí quan trọng để phân biệt giữa tín dụng nhà nước và
tín dụng thương mại vì hầu hết các NHTM đều hoạt động trên cơ sở thu lợi từ
việc cho vay và rủi ro càng cao thì lãi suất áp dụng càng cao.
• Đối tượng cho vay được chọn lọc và hạn chế: Trong khi các nguồn
lực của Nhà nước có hạn và NHPT được thiết kế là một kênh cung cấp tín
dụng có hiệu quả trên cơ sở thu hồi vốn cho vay thay vì Nhà nước cho không,
theo đó mỗi quốc gia sẽ xác định những mặt hàng xuất khẩu chiến lược trong

từng thời kỳ phát triển kinh tế và sử dụng nhiều biện pháp đồng bộ nhằm thúc
đẩy mặt hàng đó, tín dụng xuát khẩu của Nhà nước được thiết kế để thực hiện
yêu cầu này. Do đó, đối tượng cho vay của NHPT hạn chế hơn các NHTM,
các đối tượng có thể thay đổi trong thời kỳ tùy thuộc vào chiến lược xuất
khẩu. Đặc điểm này cho thấy hoạt động cho vay của NHPT không cạnh tranh
với các NHTM mà ngược lại, cho vay của NHPT và NHTM sẽ cùng nhau
thúc đẩy xuất khẩu phát triển.
• Cơ chế cho vay ưu đã hơn hình thức cho vay thông thường: Ưu đãi
đầu tiên là ưu đãi về lãi suất, điều này chỉ NHPT mới làm được vì Nhà nước
sẽ cấp bù chênh lệch lãi suất (Cho vay thấp hơn lãi suất huy động) hoặc
NHPT được huy đọng những nguồn vốn có lãi suất rẻ hơn lãi suất của thị
trường. Các NHTM thường ngần ngại khi cho vay đối với các dự án có thời
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
9
hạn dài vì rủi ro cao và không tương thích với kỳ hạn huy động thường có của
họ, còn tín dụng ưu đãi của Nhà nước sẵn sàng chấp nhận rủi ro ở mức nhất
định và tạo điều kiện cho DN hoàn trả nợ theo đúng chu kỳ sinh lợi của dự án,
kỳ thu tiền của hợp đồng xuất khẩu nên sẽ thay NHTM hỗ trợ cho vay đối với
các đơn vị sản xuất, chế biến, kinh doanh có nhu cầu vay vốn trong thời gian
dài. Ưu đãi tiếp theo là đảm bảo tiền vay không cần thiết hoặc ở mức dưới giá
trị vốn vay. Khi vay vốn tại NHTM, các đơn vị, đặc biệt là các DN mới, kinh
doanh những mặt hàng có rủi ro cao phải thế chấp tài sản và có khi thế chấp
bằng hoặc cao hơn giá trị khoản vay. Tuy nhiên, không phải đơn vị nào cũng
có đủ tài sản để thế chấp khi vay vốn, vì vậy tín dụng ưu đãi của Nhà nước có
cơ chế riêng về đảm bảo tiền vay với một mức tài sản thế chấp tối thiểu hoặc
không phải thế chấp khi vay vốn.
1.2.2 Các hình thức của cho vay xuất khẩu
 Theo thời hạn: Có hai loại là CVXK ngắn hạn và CVXK trung,
dài hạn.

Việc phân chia cho vay ngắn hạn và trung dài hạn chỉ mang tính chất
tương đối và là cơ sở để các ngân hàng và các tổ chức tín dụng xác định mức
lãi suất cho vay cũng như cân đối kế hoạch nguồn vốn hoạt động của mình
trong từng giai đoạn.
• CVXK ngắn hạn: là các khoản CVXK có thời hạn vay dưới 1 năm.
Về nguyên tắc, CVXK ngắn hạn có thể cung cấp cho cả người mua và
người bán, tuy nhiên do thời gian thanh toán ngắn nên các cơ quan cung cấp
tín dụng thường thực hiện cho vay thời hạn ngắn đối với người bán. Cho vay
ngắn hạn chủ yếu nhằm phục vụ cho các nhu cầu chi trả trực tiếp cho thương
vụ xuất khẩu của đơn vị như: cho vay mua nguyên liệu, phụ liệu, năng lượng
cho sản xuất, cho vay trả lương công nhân và các chi phi khác phát sinh trong
quá trình sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. CVXK ngắn hạn có thể được
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
10
thực hiện dưới các hình thức cho vay để chuẩn bị hàng xuất, cho vay trong
khuôn khổ nhờ thu, chiết khấu hối phiếu hoặc trên cơ sở thanh toán theo
phương thức tín dụng chứng từ. Thời hạn cho vay phụ thuộc vào thời gian
thực hiện thương vụ, thông thường bắt đầu từ khi DN thu mua nguyên liệu,
sau đó chế biến, thực hiện xuất khẩu, chờ tiền thanh toán của NNK theo hình
thức thanh toán của hợp đồng xuất khẩu/ Thư tín dụng đến khi nhận được tiền
thanh toán.
• CVXK trung, dài hạn:
Là các khoản tín dụng có thời hạn trên 1 năm.
Hình thức này được sử dụng để tài trợ cho các hợp đồng xuất khẩu trả
chậm trên 1 năm, đặt cọc, bảo lãnh, bảo hiểm cho những hợp đồng xuất khẩu
có thời gian thực hiện dài. Tuy nhiên, hình thức này chủ yếu tài trợ cho mở
rộng khả năng sản xuất cho NXK như mở rộng nhà máy, mua sắm thêm máy
móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, mua tài sản cố định phục vụ sản xuất hàng
xuất khẩu.

Việc cho vay với thời hạn dài nếu chỉ căn cứ vào nguồn thu từ hợp
đồng xuất khẩu thì thông thường các tổ chức tín dụng chỉ tài trợ đối với các
hợp đồng có hình thức thanh toán là thư tín dụng (L/C) với ngân hàng mở L/C
hoặc ngân hàng xác nhận/ ngân hàng bảo lãnh có uy tín hoặc được chính phủ
của nước nhập khẩu bảo lãnh thanh toán; thời hạn cho vay tùy thuộc vào thời
gian sản xuất và kỳ hạn thu tiền từ hợp đồng xuất khẩu. Đối với hình thức cho
vay đầu tư mở rộng/ đầu tư chiều sau của các DN xuất khẩu, việc quyết định
cho vay phụ thuộc vào tính khả thi của dự án, khả năng tài chính của NXK
bên cạnh mối quan hệ tín nhiệm của bên vay; thời hạn cho vay đối với khoản
vay trung, dài hạn để đầu tư dự án bắt đầu tư khi bên vay thực hiện dự án từ
khâu khảo sát, thiết kế, xây dựng nhà xưởng, mua sắm thiết bị, đi vào sản
xuất đến khi ký được hợp đồng xuất khẩu, sản xuất hàng hóa, xuất khẩu và
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
11
nhận tiền thanh toán. Thời điểm cấp tín dụng và khối lượng tín dụng cấp mỗi
lần phụ thuộc vào nhu cầu thực tế của người vay. CVXK lúc này có vai trò
cung cấp vốn cho NXK tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh mà không phải
chờ đến khi có tiền thanh toán từ NNK. Theo đó, nếu dàn xếp được khoản vay
trung, dài hạn, NXK có thể chấp nhận cho phía NNK trả chậm để tăng kim
ngạch xuất khẩu.
 Theo đối tượng được cung cấp khoản vay:
• Khoản vay dành cho người bán: Là khoản vay cung cấp trực tiếp
cho NXK để chi trả các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất, thu mua và
xuất khẩu hàng hóa. Thời hạn, lãi suất và điều kiện cho vay tùy thuộc vào nhu
cầu thực tế là vốn lưu động hay vốn cố định, khả năng tài chính của NXK và
hình thức thanh toán của hợp đồng xuất nhập khẩu, dự án được thực hiện
trong nước hay nước ngoài. Đối với các khoản cho vay dài hạn đầu tư ra nước
ngoài thường đi kèm với các điều kiện về bảo hiểm và bảo lãnh cho nghĩa vụ
thanh toán của khoản nơ. Tín dụng người bán được cung cấp dưới 2 hình thức

trước và sau khi giao hàng.
Cho vay trước khi giao hàng: Để có vốn cho sản xuất, nhất là đối với
NXK là các DN vừa và nhỏ, họ cần được cung cấp khoản vay trước khi giao
hàng. Thực chất đây là khoản vay bổ sung vốn lưu động để mua nguyên vật
liệu và các yếu tố đầu vào và các chi phí khác để có thể sản xuất và thu mua
đủ hàng theo đơn đặt hàng. Đối với tín dụng trước khi giao hàng, các ngân
hàng rất cẩn thận khi xem xét hạn mức cho vay vì NXK bao giờ cũng muốn
tối đa hóa giá trị khoản vay, trong khi khả năng thanh toán lại không chỉ phụ
thuộc vào một chỉ tiêu là tình hình tài chính đơn vị.
Cho vay sau khi giao hàng: Là khoản tín dụng cấp cho NXK trong
khoảng thời gian kể từ sau khi giao hàng đến khi nhận được tiền thanh toán.
Thời gian của các khoản vay này thường từ một tuần đến vài năm tùy thuộc
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
12
vào hình thức thanh toán của hợp đồng/ Thư tín dụng xuất khẩu. Tùy thuộc
vào tính chất của bộ chứng từ, độ tín nhiệm của NXK, NNK cũng như điều
khoản thanh toán, các tổ chức tín dụng sẽ quyết định tài trợ hay không tài trợ.
Chiết khấu hối phiếu và cho vay cầm cố hối phiếu là các nguồn tài trợ
quan trọng cho xuất khẩu. Nhìn chung, NXK có thể vay vốn nhanh chóng với
các hình thức này. Nếu là chiết khấu, hối phiếu được bán cho tổ chức tín dụng
trước ngày đến hạn để lấy nguồn tiền tài trợ với mức 90% giá trị hàng xuất.
Thông thường, hối phiếu thường phải được gửi kèm với một thư tín dụng và
phải được người mua chấp nhận thanh toán, trường hợp hối phiếu chưa đuwcj
NNK chấp nhận thanh toán, NXK yêu cầu ngan hàng phục vụ mình cho vay
cầm cố bằng hối phiếu, số tiền mà ngân hàng cho vay NXK bằng với trị giá
hối phiếu sau khi xuất trình hối phiếu để cầm cố và ngân hàng coi đây là một
khoản tín dụng với tài sản đảm bảo là hối phiếu. Nếu NNK không thanh toán
số tiền trên hối phiếu, NXK sẽ hoàn trả lại toàn bộ số tiền đã được cấp trước
đó.

• Khoản vay dành cho người mua: Là khoản vay dành cho các NNK
người nước ngoài để tài trợ xuất khẩu hoặc tài trợ dự án. Thường thì tín dụng
người mua phổ biến ở những nước có nền tài chính phát triển, có lượng vốn
dồi dào hoặc trong các trường hợp viện trợ phát triển chính thức của Chính
phủ. Các khoản vay cung cấp cho NNK đặc biệt có tác dụng thúc đẩy xuất
khẩu khi được cung cấp bởi tổ chức của Chính phủ nước xuất khẩu khi hàng
hóa muốn xuất khẩu là loại thuộc diện khuyến khích phát triển xuất khẩu,
hàng hóa có giá trị cao và quảng bá trên thị trường thế giới khi nước ngoài
chưa biết đến danh tiếng của hàng hóa, DN sản xuất loại hàng hóa đó và tạo
được thị trường mới cho các tư liệu sản xuất muốn xuất khẩu khi đầu tư cho
các dự án ở nước ngoài, đồng thời NXK yên tâm sản xuất vì khong lo chịu rủi
ro mất khả năng thanh toán từ NNK và các ké hoạch kinh doanh được thực
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
13
hiện trôi chảy hơn, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của DN và các sản
phẩm, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Đi kèm với sản phẩm này
thường là các khoản bảo lãnh thanh toán, bảo hiểm của một tổ chức có uy tín
hoặc Chính phủ nước nhập khẩu đối với nghĩa vụ thanh toán của NNK.
Khoản vay dành cho NNK thường được thực hiện sau khi NXK đã thực hiện
giao hàng và được thực hiện theo các hình thức như: Cho vay trực tiếp, tài trợ
dự án và cho vay thông qua ngân hàng phục vụ NNK.
Khi trình độ sản xuất phát triển và thương mại quốc tế ngày càng rộng
mở yêu cầu các DN cạnh tranh bình đẳng và công bằng hơn thì hình thức cho
vay trực tiếp có tính chất hỗ trợ cho các NXK dần giảm xuống, thay vào đó là
các hình thức tài trợ mang tính chất gián tiếp như cho vay NNK, bảo lãnh tín
dụng, bao thanh toán tương đối, bao thanh toán tuyệt đối, cho thuê và có thể
đi kèm với hình thức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
 Ngoài ra có thể chia CVXK thành cho vay từng lần và cho vay
theo hạn mức:

• Cho vay từng lần là việc NHPT và khách hàng thỏa thuận việc vay
vốn căn cứ theo từng hợp đồng xuất khẩu cụ thể. Mỗi lần vay vốn, NHPT và
khách hàng làm lại thủ tục như quy định.
• Cho vay theo hạn mức là việc NHPT và khách hàng xác định và
thỏa thuận một hạn mức cho vay duy trì trong một thời hạn nhất định với mức
dư nợ cho vay không vượt quá hạn mức cho phép được thỏa thuận tại hợp
đồng cho vay theo hạn mức.
1.2.3 Vai trò của cho vay xuất khẩu
1.2.3.1 Đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng gia tăng cho hoạt động xuất khẩu
• Vốn cho đầu tư thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu: Cơ cấu xuất khẩu
của các nước thường thay đổi theo các giai đoạn khác nhau. Sự thay đổi này
bao giờ cũng theo hướng gia tăng tỷ trọng hàng chế biến và có hàm lượng
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
14
công nghệ cao, giảm tỷ trọng hàng thô và bán thành phẩm. Hơn nữa, đối với
hầu hết các nước đang phát triển, việc tăng xuất khẩu những mặt hàng mới và
công nghệ cao là cách tốt nhất để tăng tổng kim ngạch xuất khẩu và được coi
là một nhân tố cơ bản trong chiến lược phát triển của các nước này. Để có thể
mở rộng xuất khẩu những mặt hàng này, các nước đều cần đến một lượng vốn
lớn để đáp ứng nhu cầu tài trợ.
• Vốn để đáp ứng nhu cầu trong các công đoạn của quá trình sản xuất,
kinh doanh hàng xuất khẩu: Với mục tiêu đạt được kim ngạch xuất khẩu cao,
chính sách hỗ trợ xuất khẩu cần phải đảm bảo rằng một khối lượng lớn các
DN sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu tiếp cận tín dụng một cách dễ dàng
và giá trị của khoản tín dụng ở mức lớn, thời gian phù hợp với chu kỳ kinh
doanh.
• Do các chu kỳ sản xuất kinh doanh của DN thường diễn ra trong một
thời gian không ngắn, NXK lại phải tiến hành nhiều việc từ tìm hiểu thị
trường, đối tác, giao dịch đàm phán, ký hợp đồng, sản xuất, làm thủ tục xuất

khẩu và chờ thanh toán… Trong khi đó, vốn lưu động của DN cần được quay
vòng liên tục, không thể và cũng không đủ để tài trợ cho các hợp đồng quá
dài. Vì vậy, họ rất cần tài trợ ở nhiều khâu, nhiều mặt dịch vụ cho việc sản
xuất kinh doanh tuận lợi và đạt hiệu quả cao nhất. Việc cung cấp tín dụng có
thể bao gồm các khoản tín dụng cho các DN khi mới thành lập để đầu tư mở
rộng quy mô sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu và các khoản tín dụng cấp
cho DN để tiến hành từng giao dịch xuất khẩu (bao gồm tín dụng trước và sau
khi mua hàng). Trước khi giao hàng, nếu các DN dễ dàng tiếp cận được với
nguồn vốn và được vay vốn với lãi suất hợp lý thì đây được xem là yếu tố cơ
bản cho sự thành công trong hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu.
Sau khi giao hàng, nếu được cấp tín dụng xuất khẩu dưới hình thức chiết khấu
chứng từ hàng xuất, đặc biệt đối với các hàng hóa vốn như máy móc thiết bị
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
15
được xuất khẩu dưới hình thức trả chậm, các DN có thể nhanh chóng thu
được tiền về và tiếp tục đầu tư cho hoạt động của mình.
• Ở nhiều nước, sản xuất trong nước phụ thuộc rất nhiều vào hàng hóa
nhập khẩu đã dẫn đến nhu cầu về tín dụng cho nhập khẩu hàng hóa vốn và
nguyên nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất trong nước gia tăng. Do khả năng
đáp ứng ngoại tệ bị hạn chế, khả năng nhập khẩu hàng hóa đầu vào cho sản
xuất hàng xuất khẩu đã trở thành vấn đề lớn và các NXK thường phải cạnh
tranh với các DN sản xuất hàng hóa cung cấp cho thị trường trong nước. Với
một hệ thống tài trợ cho xuất khẩu đủ mạnh, các NXK có thể tiếp cận được
nguồn vốn dễ dàng và không gặp nhiều khó khăn tài chính khi tìm kiếm
nguồn vốn cho việc nhập khẩu nguyên liệu đầu vào thông qua việc cấp tín
dụng cho họ thì sự cạnh tranh dư thừa giữa nhà sản xuất cung cấp cho thị
trường nội địa và hải ngoại sẽ tránh được.
1.2.3.2 Hỗ trợ các DN vừa và nhỏ tham gia các hoạt động thương mại
quốc tế

Mỗi quốc gia có những tiêu chí đánh giá khác nhau để đưa ra khái niệm
thế nào là DN vừa và nhỏ. Ở Việt Nam, DN loại này được định nghĩa là các
DN có vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng (khoảng 640.000USD ) và có số lao động
trung bình hàng năm dưới 300 người. Một đặc điểm chung của loại hình DN
này là khả năng tự nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng tỷ suất lợi nhuận theo cả
chiều sâu và chiều rộng của cá DN là rất nhỏ, xuất phát từ hạn chế về vốn,
quy mô sản xuất. Nguồn vốn hạn hẹp làm cho các DN thường gặp khó khăn
trong việc mua sắm mới và nâng cao chất lượng trang thiết bị, đổi mới và
hiện đại hóa công nghệ, cải tạo môi trường, đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ
lao động, mua nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, khó khăn trong việc đưa sản
phẩm đã sản xuất ra thị trường quốc tế nhất là khi nước đó hiện ở trong giai
đoạn đang phát triển. Hơn nữa, với quy mô nhỏ, các DN này cũng khó có thể
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
16
tiếp cận được những khoản tín dụng của NHTM và các tổ chức tín dụng theo
nhu cầu thực tế của họ để phát triển sản xuất đáp ứng nhu cầu khách hàng mỗi
khi họ có đơn hàng xuất khẩu, đặc biệt là nguyên nhân không đủ các điều
kiện để vay vốn các NHTM về tài sản thế chấp.
Thêm vào đó, ở các nước đang và kém phát triển, các DN vừa và nhỏ,
đặc biệt là các DN mới tham gia vào hoạt động xuất khẩu chưa có kinh
nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế, chưa am hiểu pháp luật thương
mại và tập quán thương mại phức tạp của các nước và các khu vực lãnh thổ
khác nhau, lại có tài sản cầm cố thế chấp có giá trị nhỏ nên các tổ chức tín
dụng thường do dự và không muốn cấp hay mở rộng tín dụng cho. Với một
cơ quan tài trợ xuất khẩu của Chính phủ, các DN này có thể dễ dàng tiếp cận
với nguồn vốn hơn để mở rộng sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu.
1.2.3.3 Thúc đẩy sự phát triển của hoạt động xuất khẩu
Mọi DN tham gia xuất khẩu hàng hóa sang nước khác đều nhìn thấy
khoản lợi nhuận khổng lồ từ khối lượng hàng hóa và chênh lệch giá cả rất lớn.

Song những khó khăn họ phải đương đầu cũng không hề nhỏ, đặc biệt là
những khó khăn về tài chính hay nguồn vốn vay mượn, vì không dễ gì để tiếp
cận được với những nguồn vốn lớn mà giá lại rẻ. Đề tồn tại trên thị trường
quốc tế, các DN phải thật sự có những mặt hàng chất lượng với giá cả hợp lý
mới mong cải thiện được sức cạnh tranh với các đối thủ khác. Muốn vậy, họ
cần phải có chiến lược đầu tư dài hạn rõ rang, nguồn vốn lớn, chi phí thấp,
thời hạn phù hợp với từng hoạt động, từng hợp đồng của mình. Tiếp cận được
nguồn vốn như vậy gần như là khó có thể xẩy ra nếu họ chỉ có quan hệ tín
dụng với các NHTM. Vốn có ý nghĩa quyết định đối với các DN này, thậm
chí còn quan trọng hơn yếu tố thị trường tiêu thụ bởi lẽ khi vấn đề này được
giải quyết, chi phí sản xuất giảm tạo điều kiện để hạ giá thành sản phẩm, công
nghệ được cải thiện làm tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm thì các khách hàng
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
17
từ các thị trường khác nhau cũng sẽ tự tìm đến để hợp tác với DN. Cũng từ
đó, kim ngạch xuất khẩu cũng sẽ tăng lên. Phân tích đến đây cũng có thể hiểu
được tầm quan trọng của NHPT trong sự phát triển của hoạt động xuất khẩu
nói chung và năng lực sản xuất kinh doanh của DN xuất khẩu nói riêng.
NHPT với tư cách là người cho vay, song lại mang nhiều tính chất của một
người đỡ đầu, người đứng sau giúp đỡ về tài chính, có vai trò cực kỳ quan
trọng đối với các DN hoạt động xuất khẩu. Trong dài hạn, vai trò này phát
huy được tính chất quyết định của mình.
1.2.1.3.3 Giúp đỡ DN đương đầu với rủi ro trong thương mại quốc tế
Thị trường quốc tế luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể gây ra thiệt hại vô
cùng to lớn cho các đối tượng tham gia vào đó. Với một khối lượng vốn đầu
tư lớn trong mỗi thương vụ, việc thua thiệt trong một hai hợp đồng có thể
khiến các NXK đi đến phá sản. Rủi ro có thể đến từ nhiều nguyên nhân khác
nhau, có thể kể đến như: chinh trị bất ổn, hệ thống pháp luật không tương
thích, khác biệt lớn trong tập quán thương mại, rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất,

các rủi ro khác như cướp biển, chiến tranh… đều có thể gây ra những tổn thất
nặng nề. Có thể nói rủi ro trong thương mại quốc tế sẽ khiến cho NXK phải
chú ý tới hoạt động của mình nhiều hơn bất kỳ các DN kinh doanh trong
nước. Trong tình hình như vây, các tổ chức Chính phủ như NHPT sẽ thật sự
là cứu tinh của các DN. Không chỉ giúp đỡ các DN trong việc cho vay vốn,
mà kèm theo đó là các hoạt động tư vấn, bảo lãnh, bảo hiểm…, NHPT thực
sự san sẻ rủi ro với khách hàng của mình. Ngay từ một quyết định cấp vốn
hay không cũng đã giúp DN tránh được những khoản chi phí nặng nề. Hơn
thế nữa, với sự giúp đỡ, hỗ trợ từ NHPT, NXK sẽ mạnh dạn hơn trong đầu tư
về cả chiều sâu và chiều rộng nhằm tăng tính cạnh tranh của mình trên trường
quốc tế, cùng với việc có thể nâng cao khả năng phân tích, tìm hiểu thị trường
qua sự tư vấn của NHPT, từ đó giảm thiểu được những rủi ro đáng tiếc.
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
18
1.3 Chất lượng cho vay xuất khẩu tại NHPT
1.3.1 Khái niệm chất lượng cho vay xuất khẩu tại NHPT
Rất khó có thể đưa ra một khái niệm cụ thể và chính xác cho cụm từ:
“Chất lượng cho vay”, mà đặc biệt là các khoản vay cho xuất khẩu tại NHPT.
Sau đây là một số hiểu biết về chất lượng cho vay tại các NHTM, từ đó có thể
có được những hình dung cụ thể về khái niệm này tại NHPT.
Chất lượng CVXK tại NHTM là chất lượng của các khoản CVXK của
NHTM. Các khoản CVXK có chất lượng khi vốn vay được khách hàng sử
dụng đúng mục đích, hiệu quả, tạo ra được lợi nhuận, thông qua đó, NHTM
thu hồi được nợ và lãi, còn DN có thể trả được nợ, bù đắp chi phí và thu được
lợi nhuận. Điều này có nghĩa là ngân hàng vừa tạo ra được hiệu quả kinh tế,
vừa tạo ra được hiệu quả xã hội.
Về cơ bản thì khái niệm cần phân tích có cấu trúc như khái niệm trên
song có sự khác nhau về bản chất. Như đã tìm hiểu ở trên về đặc điểm của
NHPT, hoạt động của NHPT không đặt cao mục tiêu lợi nhuận, mục tiêu

chính là hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển và khuyến khích xuất khẩu. Như
vậy, mục đích của CVXK không phải là để nhận được số tiền lãi lớn nhất có
thể mà chỉ là để giúp đỡ các DN xuất khẩu trong nước tham gia các hợp đồng
mua bán với nước ngoài tốt hơn. Mục đích khác nhau, như vậy khái niệm
cũng sẽ có điểm không trùng hợp. Có thể hiểu: một khoản CVXK tại NHPT
có chất lượng là khoản cho vay mà người vay sử dụng đúng mục đích, có hiệu
quả, qua đó NHPT thu lại được nợ gốc và lãi đủ để bù đắp chi phí hoạt động
và làm tăng sự hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu ở mức cao nhất có thể. Chất
lượng cho vay là một khái niệm mà muốn đánh giá thì phải dựa trên các chỉ
tiêu định tính và định lượng. Chỉ tiêu định lượng bao gồm dư nợ quá hạn, lãi
treo, tốc độ tăng trưởng dư nợ… trong khi các chỉ tiêu định lượng là hiệu quả
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
19
xã hội đạt được. Để phân tích rõ hơn về chất lượng CVXK tại NHPT, sau đây
sẽ là một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng của hoạt động CVXK.
1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng CVXK tại NHPT
1.3.2.1 Dư nợ và tốc độ tăng trưởng dư nợ CVXK tại NHPT
Có thể hiểu dư nợ CVXK là con số tuyệt đối nói lên quy mô của hoạt
động này tại NHPT, đồng thời thể hiện tiềm lực tài chính của NHPT trong
lĩnh vực CVXK. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng dư nợ lại thể hiện khả năng
mở rộng quy mô và các hình thức cho vay qua các thời kỳ. Tốc độ tăng
trưởng dư nợ CVXK được tính theo công thức:
Dư nợ kỳ n – Dư nợ kỳ (n-1)
Tốc độ tăng trưởng dư nợ = x 100%
Dư nợ kỳ (n-1)
Việc phân tích kết hợp hai chỉ tiêu này hết sức quan trọng. Một ngân
hàng có quy mô dự nợ ở mức cao và luôn đạt mức tăng trưởng dư nợ cho hoạt
động CVXK nhanh cho thấy chất lượng các khoản tín dụng là tốt, khả năng
thu hồi nợ và việc thực hiện các chính sách về hỗ trợ xuất khẩu sẽ được thực

hiện thuận lợi. Song, cần hết sức lưu ý khi sử dụng hai chỉ tiêu này trong việc
phân tích bởi chúng có mối quan hệ liên quan chặt chẽ với nhau. Nếu những
con số về dư nợ CVXK là rất lạc quan trong khi đó tốc độ tăng trưởng của nó
lại gặp khó khăn trong một số giai đoạn gần đây cho thấy xu hướng hạn chế
dần của hoạt động CVXK. Bởi quy mô dư nợ thì lớn lên từng ngày trong khi
đó tốc độ tăng trưởng của dư nợ lại chững lại thậm chí là âm chứng tỏ NHPT
không muốn hay không có khả năng mở rộng quy mô CVXK.
1.3.2.2 Dư nợ CVXK trên tổng dư nợ
Đây cũng là một chỉ tiêu khá quan trọng, phản ánh vị trí của hoạt động
CVXK trong hoạt động tín dụng của NHPT. Chỉ tiêu này thể hiện mức độ
quan tâm của các cấp lãnh đạo đối với hoạt đông này trong tổng thể các hình
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
20
thức tín dụng và cũng thể hiện mức độ thành công của NHPT trong việc thu
hút sự tín nhiệm của các DN xuất khẩu. Chỉ tiêu này càng cao thể hiện mức
độ phát triển của hoạt động này càng lớn. Ngược lại, chỉ tiêu này thấp phản
ánh chất lượng của hoạt động còn yếu, sự quan tâm của chính sách Nhà nước
cho hoạt động này không nhiều và sự nghèo nàn trong các hình thức CVXK.
1.3.2.3 Tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn được tính theo công thức sau:
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100%
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này cho phép đưa ra sự đánh giá rõ hơn về chất lượng CVXK
bởi nó đánh giá và phản ánh tình hình về nợ quá hạn ở NHPT trong quá trình
CVXK. Chỉ tiêu này tỷ lệ thuận với chất lượng hoạt động CVXK của NHPT,
Bởi lẽ, nếu tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao cho thấy sự an toàn của các
khoản vay không được đảm bảo, rủi ro là lớn làm đình trệ quá trình luân
chuyển vốn, như vậy sẽ khiến NHPT không hoàn thành được nhiệm vụ hỗ trợ

cho các hoạt động, dự án hay các DN khác. Tuy nhiên, phải thừa nhận sự tồn
tại của nợ quá hạn là tất yếu, không thể tránh khỏi trong hoạt động tín dụng.
Theo các nghiên cứu và khuyến nghị của WorldBank thì tỷ lệ nợ quá hạn có
thể chấp nhận được là dưới 5%, có nghĩa rằng đó là mức tối đa đặt ra cho các
nhà quản lý chú ý cân bằng được giữa rủi ro và hiệu quả của khoản cho vay.
Món vay nào cũng tiềm ẩn các rủi ro, vì vậy nhiệm vụ của ban lãnh đạo, các
cán bộ tín dụng là phải lựa chọn các dự án sao cho các tổn thất là không quá
nghiêm trọng và nằm trong phạm vi có thể kiểm soát được.
1.3.2.4 Tỷ lệ lãi treo
Tỷ lệ lãi treo được tính theo công thức:
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
21
Lãi treo chưa thu được
Tỷ lệ lãi treo = x 100%
Tổng số lãi phải thu
Tương tự như chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn, chỉ tiêu này cũng thể hiện chất
lượng và hiệu quả của công tác CVXK. Chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng
CVXK càng thấp và ngược lại. Tỷ lệ này cao có nghĩa là số lãi cho vay đến
hạn trả chưa thu được từ các dự án là cao dẫn đến chất lượng thu nợ lãi thấp,
ảnh hưởng đến hoạt động khác của NHPT. Lãi treo và nợ quá hạn cao là một
trong các biểu hiện của chất lượng thẩm định dự án kém. Quá trình tìm hiểu
các dự án thiếu thông tin minh bạch, cán bộ thẩm định thiếu kinh nghiệm
cũng như tìm hiểu không kỹ càng về khả năng tài chính, sản xuất kinh doanh
của DN, dự án. Tất cả dẫn đến các quyết định cho vay và giải ngân sai, khiến
cho nguồn vốn bị sử dụng không hiệu quả, gây lãng phí và tổn thất. Nghiên
cứu và cải thiện 2 chỉ tiêu này là nhiệm vụ quan trọng của NHPT, không chỉ
giúp ngân hàng hoạt động tốt hơn mà còn tạo môi trường đầu tư xuất khẩu
hiệu quả và minh bạch hơn.
Khi xem xét các chỉ tiêu định lượng trên, chỉ đưa ra các đánh giá sau

khi đã kết hợp phân tích các chỉ tiêu với nhau tránh gây sai sót khi đánh giá
phiến diện, chủ quan. Ví dụ, nếu Ngân hàng có dư nợ CVXK và tốc độ tăng
trưởng dư nợ cao mà nợ quá hạn và lãi treo cũng cao, không thể khẳng định
chất lượng hoạt động tốt. Nếu nguồn vốn dùng để giải ngân là nguồn vốn
ngân sách thì các khoản vay đó chỉ gây lãng phí lớn các khoản thuế mà người
dân lao động đã đóng góp, phục vụ cho lợi ích của một số ít cá nhân trong xã
hội.
1.3.2.5 Các chỉ tiêu phản ánh khác
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
22
Không giống như CVXK ở các NHTM, hoạt động cho vay này tại NHPT
không vì mục đích lợi nhuận mà chỉ dừng lại ở mức thu hồi đủ vốn và đủ bù
chi phí hoạt động để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu, giúp đỡ các DN xuất
khẩu tiếp cận nguồn vốn rẻ, giảm giá thành để tăng tính cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Như vậy, việc CVXK có đạt được chất lượng tốt hay không
không chỉ dựa vào các chỉ tiêu nằm trong ngân hàng mà nó còn được đánh giá
qua các chỉ tiêu khác. Tăng trưởng CVXK trên địa bàn, trong nước là một chỉ
tiêu tốt để đánh giá hiệu quả hoạt động này. Vì suy cho cùng, như tên gọi,
mục đích chính của nó là để hỗ trợ xuất khẩu. Các chỉ tiêu dư nợ cao, tốc độ
tăng trưởng cao mà không làm cho xuất khẩu tăng trưởng, không cải thiện vị
thế các DN xuất khẩu cũng như thị trường Việt Nam trên trường quốc tế thì
cũng không có nhiều ý nghĩa. Một chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xã hội khác là
đời sống nhân dân, tỷ lệ thất nghiệp có được cải thiện nhờ xuất khẩu tăng hay
không. Cuối cùng là chỉ tiêu mức cấp bù chênh lệch lãi suất từ Ngân sách Nhà
nước. Nhiều trường hợp khi nền kinh tế biến động, NHPT phải huy động vốn
với lãi suất cao để CVXK với lãi suất thấp hơn, khoản chênh lệch lãi suất này
sẽ được Chính phủ bù đắp. Như vậy, nếu Chính phủ phải bù đắp quá nhiều thì
chứng tỏ chất lượng của hoạt động CVXK của NHPT chưa cao.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay xuất khẩu tại NHPT

1.4.1Các nhân tố bên ngoài
1.4.1.1 Từ phía các DN xuất khẩu
• Trình độ tổ chức, sản xuất kinh doanh của DN:
Một khoản CVXK được coi là có chất lượng nếu khoản cho vay đó được
người tiếp nhận sử dụng đúng mục đích và đem lại hiệu quả. Như vậy, nếu
nội bộ ngân hàng thực hiện tốt các yêu cầu đề ra vẫn gặp phải rủi ro nhất định
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
23
từ phía khách hàng. Một DN yếu kém ở khâu tổ chức hoạt động của DN, hoặc
gặp phải những vấn đề vướng mắc trong khâu sản xuất như: không tìm được
phương thức giảm thiểu chi phí, nâng cao năng suất, hạ giá bán, tăng sức cạnh
tranh thì không thể làm ăn hiệu quả và khả năng trả nợ là rất thấp dẫn đến
những khoản nợ quá hạn của Ngân hàng xuất hiện ngày càng nhiều. Vấn đề
nợ quá hạn có thể coi là bất khả kháng song nếu tiến hành tìm hiểu thông tin
cụ thể, chính xác về DN thì có thể giảm thiểu được những khoản vay rủi ro
cao.
• Đạo đức của đội ngũ lãnh đạo Doanh nghiệp:
Đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ lãnh đạo DN cũng là yếu tố gây ra
những khoản nợ xấu cho Ngân hàng. Khi công việc làm ăn kinh doanh suôn
sẻ thì các DN không gặp nhiều khó khăn trong việc trả nợ và lãi vay, song vấn
đề sẽ khác khi họ đang có những tổn thất trong hoạt động của mình. Các
khoản nợ mà nhất là các khoản được Nhà nước ưu đãi sẽ là các khoản đầu
tiên mà chủ DN không có ý chí trả nợ. Trong tình hình khó khăn hiện nay,
tình trạng này sẽ rất phổ biến nếu như không có những giải pháp kịp thời. Vấn
đề khác nữa về phạm vi đạo đức của lãnh đạo DN đó là họ đệ trình những dự
án có tính khả thi rất cao cho Ngân hàng để xin vay vốn. Song, sau khi nhận
vốn vay, họ lại không sử dụng đúng mục đích như đã ghi trong hợp đồng, trái
lại, họ có thể mang đi đầu tư chứng khoán với hy vọng hưởng chênh lệch
đáng kể từ lợi nhuận buôn bán chứng khoán với lãi trả cho NHPT. Nếu may

mắn kiếm lời được từ việc đầu tư chứng khoán thì cũng không ảnh hưởng
nhiều lắm đến khoản vốn mà NHPT cấp cho DN, nhưng trong trường hợp thị
trường ảm đạm, mất điểm liên tục hay các chủ DN đầu tư thua lỗ sẽ dẫn đến
việc DN không có khả năng trả nợ gốc và lãi, gây tổn thất cho Ngân hàng.
Tuy vậy, trong cả hai trường hợp thì nguồn vốn cho vay của NHPT đều
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
24
không tạo ra hiệu quả xã hội, chính vì thế có thể nói là hoạt động CVXK có
chất lượng không cao.
• Tiềm lực tài chính và các chiến lược kinh doanh của DN vay vốn
Khi thẩm định bất kỳ dự án kinh doanh nào, các cán bộ tín dụng ngân hàng
đều phải đánh giá đến tiềm lực tài chính của DN đó. Một DN có tiềm lực tài
chính mạnh là DN có khả năng huy động được các nguồn vốn tiếp theo một
cách dễ dàng hơn với giá hợp lý hơn. Khả năng về tài chính đó đến từ uy tín
hoạt đông lâu năm và khả năng kinh doanh sản xuất của họ. Chính vì vậy, DN
có tiềm lực tài chính yếu kém khi gặp thua lỗ trong vài thương vụ xuất khẩu
sẽ khó lòng huy động được các nguồn vốn từ nơi khác để bù đắp và trả nợ cũ,
gây ra tình trạng xấu cho Ngân hàng.
Vấn đề thứ hai cần bàn đến là chiến lược kinh doanh của DN. Một DN
muốn thành công và tồn tại trên thị trường luôn cần có một chiến lược kinh
doanh rõ rang và nhất quán. Chiến lược kinh doanh tác động lớn đến việc
thành bại của các dự án, từ đó ảnh hưởng đến việc huy động vốn và trả nợ của
DN. Một chiến lược kinh doanh không rõ ràng sẽ rất dễ bị hoàn cảnh tác động
và dễ bị thay đổi, khiến cho DN đó khó có thể đứng vững trên thị trường vì
chi phí phát sinh từ việc thay đổi chiến lược kinh doanh là khó có thể bù đắp
một cách nhanh chóng.
• Các dự án được nhận tài trợ
Vai trò của NHPT được đánh giá bởi thành công của các dự án mà Ngân
hàng tài trợ. Nếu Ngân hàng tài trợ cho một dự án lành mạnh, tức là có sự phù

hợp giữa mục tiêu quốc gia và mục tiêu của Ngân hàng, khi dự án thành công,
Ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận. Tuy nhiên, các dự án xuất khẩu thường
Lê Thanh Bách – Tài chính doanh nghiệp
47A
25
chứa nhiều rủi ro, hoặc có nhiều dự án nằm trong chỉ đạo của Chính phủ
mang nhiều mục tiêu chính trị - xã hội (như trợ cấp, hỗ trợ cho các nước
khác), lấn át các chỉ tiêu sinh lời hoặc khó đánh giá các chỉ tiêu sinh lời. Rất
nhiều dự án do cac cơ quan Chính phủ, các ngành đưa đến và Ngân hàng phải
buộc tài trợ trong khi dự án không có nhiều khả năng thành công. Tình trạng
này làm cho bộ máy NHPT kém linh hoạt và nhạy bén, đồng thời làm cho
chất lượng của công tác CVXK của Ngân hàng cũng kém hơn.
1.4.1.2 Các biến số kinh tế vĩ mô và môi trường pháp lý
• Tỷ giá:
Tỷ giá trên thị trường hối đoái biến đổi mạnh có thể gây ảnh hưởng lớn
đến chất lượng các khoản CVXK vì điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình
lợi nhuận của các DN xuất khẩu. Lấy một ví dụ đơn giản: Tỷ giá giảm đột
ngột khi đang ở mức cao. Tỷ giá ban đầu khuyến khích các NXK tham gia
vào thị trường, họ đầu tư mạnh vào dây chuyền sản xuất, công nghệ… và sẵn
sàng đi vay vốn với lãi suất cao để đầu tư. Với NXK, mục đích cuối cùng bao
giờ cũng là lợi nhuận thật bằng tiền Việt Nam đồng, tuy nhiên, việc tỷ giá
giảm đột ngột vì một số nguyên nhân sẽ mang đến những khoản lỗ lớn cho
họ. Khi thua lỗ, DN chắc chắn sẽ không sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ trả nợ
đối với Ngân hàng. Mặt khác, sự chênh lệch tỷ giá trong khoảng thời gian ký
hợp đồng cũng như khi Khách hàng nhận được thanh toán từ đối tác cũng có
thể gây ra tổn thất kinh tế cho khách hàng, khiến cho DN gặp khó khăn trong
việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng và ngược lại. Bởi vậy, khi
quyết định cho vay, NHPT nên xem xét đến sự ổn định của tỷ giá trên thị
trường.
• Lãi suất:

×