M U
Phân chia quyền lực là t tởng chính trị - pháp lý đã xuất hiện từ rất sớm
trong lịch sử, và đã đợc phát triển ngày càng hoàn thiện hơn cùng với sự tiến
bộ của loài ngời. Ngày nay, phân chia quyền lực đã trở thành nguyên tắc hàng
đầu trong xây dựng và tổ chức bộ máy nhà nớc hiện đại, là một trong những
tiêu chí quan trọng nhất để xây dựng nhà nớc pháp quyền - mô hình nhà nớc
mang đầy tính nhân bản, nhân văn - nhà nớc của nhân dân, do nhân dân lập ra,
vì nhân dân mà phục vụ.
NI DUNG
T tng phõn chia quyn lc nh nc cũn gi tt l t tng phõn
quyn- l tng th cỏc quan im v vic chia tỏch quyn lc nh nc thnh
cỏc loi khỏc nhau, v c ch vn hnh ca tng loi quyn lc v mi quan
h theo hng ngn cn, kim ch, kim soỏt hoc i trng vi nhau gia
cỏc loi quyn lc y trong quỏ trỡnh thc hin quyn lc nh nc. C th
ú l tng th cỏc quan im cp n vic phõn tỏch quyn lc nh nc
thnh nhng loi quyn lc cú tờn gi, ni dung v v trớ khỏc nhau; c
trao cho cỏc ch th khỏc nhau thc hin v trong quỏ trỡnh hot ng, cỏc
ch th y cú th kim ch, ngn cn, kim soỏt ln nhau hoc i trng vi
nhau. Song li phi hp vi nhau va m bo s kim soỏt quyn lc
nh nc nhm ngn chn s c ti chuyờn ch, bo v t do cụng dõn.
Cựng vi s phỏt trin ca xó hi thỡ cỏc lnh vc qun lớ ca nh
nc ngy cng c m rng, cụng vic ca nh nc ngy nng n, phc
tp v a dng hn nờn mt cỏc nhõn hoc mt c quan khụng th thc hin
c m phi phõn chia hay phõn cụng cho nhiu c quan khỏc cựng thc
hin. Cỏch thc t chc b mỏy nh nc phi cng ngy cng khoa hc hn
thỡ mi ỏp ng c vi ũi hi ca xó hi i vi nh nc. Phõn chia hay
phõn cụng quyn lc l cỏch thc t chc b mỏy nh nc khoa hc vỡ nú
làm cho hoạt động của các cơ quan nhà nước không trùng lặp, chồng chéo
hoặc loại trừ nhau. Con người đảm nhiệm các công việc của nhà nước, mà
con người thì thường có xu hướng lạm quyền, vụ lợi khi có điều kiện nên
cần có cơ chế kiềm chế, kiểm soát họ. Trong tổ chức bộ máy nhà nước tư
sản, tư tưởng phân chia quyền lực được thể hiện ở hai nội dung chính.
Thứ nhất, quyền lực nhà nước được chia thành ba loại là lập pháp,
hành pháp, tư pháp và được trao cho các cơ quan nhà nước khác nhau thực
hiện. Các cơ quan này đều hoạt động trên cơ sở luật pháp và sẽ chuyên chú
vào việc thực hiện chức năng, thẩm quyền riêng của mình. Sự phân quyền
giữa các cơ quan sao cho không có cơ quan nào nắm trọn vẹn quyền lực nhà
nước, không tách khổi chức năng của mình và không sai khiến hay chen lấn
chức năng của cơ quan khác.
Thứ hai, các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp không chỉ độc
lập với nhau khi thực hiện chức năng, thẩm quyền mà còn kiềm chế, đối
trọng hoặc ngăn cản nhau trong hoạt động không có cơ quan nào nằm ngoài
sư giám sát, kiểm tra từ phía cơ quan khác. Việc này giúp cho mỗi cơ quan
có thể ngăn cản được sự lấn quyền, vượt quyền của các cơ quan khác và
đồng thời tránh được sư chuyên quyền độc đoán, lạm quyền trong việc thực
hiện quyền lực nhà nước. Do đó tránh được những nỗi nguy hại khác của sư
lạm quyền và đảm bảo tự do cho công dân. Muốn cho các cơ quan trên thực
sự được chia tách với nhau để vừa độc lập với nhau, vừa chuyên môn hóa
hoạt động lại vừa có thể kiềm chế, ngăn cản nhau thì chúng phải bao gồm
các nhân viên khác nhau. Trong cùng một thời gian, một người chỉ có thể là
thành viên của một trong số ba cơ quan đó. Song mỗi cơ quan có thể tác
động ở môt mức độ nhất định tới tổ chức và hoạt động của cơ quan khác để
đồng thời vừa kiểm soát nhau lại vừa phối hợp với nhau nhằm tạo nên sự
thống nhất của quyền lực nhà nước.
Hiện nay trên thế giới có rất cách áp dụng khác nhau học thuyết phân
chia quyền lực phù hợp với mỗi điều kiện khác nhau của mỗi nước. Nhưng
có ba cách áp dụng khác nhau tạo nên ba mô hình chính thể cổ điển khác
nhau của nhà nước tư sản : Chính thể cộng hòa tổng thống , chính thể cộng
hòa đại nghị kể cả cộng hòa lẫn quân chủ và cuối cùng là chính thể cộng hòa
hỗn hợp. Những chính thể này đều được qui định trong hiến pháp của các
nước. Chính vì thế hiến pháp là văn bản qui định việc phân chia quyền lực.
So với các nhà nước tư sản áp dụng học thuyết phân chia quyền lực
thì nhà nước tư sản theo chính thể cộng hòa tổng thống áp dụng học thuyết
phân chia quyền lực một cách “ cứng rắn nhất “, với đặc trưng là các cơ
quan hành pháp, lập pháp, và tư pháp độc lập với nhau trong hoạt động,
đồng thời có thể ngăn cản, kiềm chế lẫn nhau. Quyền hành pháp thuộc về
nguyên thủ quốc gia, hành pháp không phải chịu trách nhiệm trước lập pháp
và sự phân quyền được ghi nhận trong hiến pháp. Đại diện điển hình cho
mức độ áp dụng này là nước Mỹ. Việc phân chia quyền chủ yếu thể hiện qua
mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp. Lập pháp do quốc hội, được phân
thành hai viện, Thượng viện và Hạ viện, do dân trực tiếp bầu ra. Hành pháp
do Tổng thống đảm nhiệm, do dân gián tiếp bầu ra. Tổng thống, hành pháp
không chịu trách nhiệm trước quốc hội, lập pháp. Lập pháp và hành pháp
cùng chịu trách nhiệm trước cử tri. Lập pháp không được lấn sang hành
pháp và ngược lại, trừ một số quyền hiến pháp qui định thể hiện cơ chế kiềm
chế và đối trọng. Những mệnh lệnh, quyết định hoặc biểu quyết có sự đồng
ý của Thượng viện và hạ viện trước khi có hiệu lực thì phải trình lên tổng
thống chấp thuận. Nếu không được chấp thuận thì cần phải có sự chấp thuận
lần thứ hai của hai viện với đa số 2/3 của mỗi viện, theo đúng luật lệ. Ngược
lại, Tổng thống là người có quyền được bổ nhiệm các chức danh cao cấp
trong bộ máy nhà nước như bộ trưởng, hay Thẩm phán tòa án tối cao, nhưng
những người được bổ nhiệm chỉ thực hiện nhiệm vụ khi có sự phê chuẩn của
Thượng nghị viện.
Một mô hình áp dụng học thuyết thứ hai, có tính chất mềm dẻo hơn,
tạo ra mô hình tổ chức nhà nước tương đối điển hình trong thế giới tư bản.
Đó là chính thể đại nghị kể cả cộng hòa lẫn quân chủ. Mặc dù có sự phân
chia quyền lực lập pháp với hành pháp nhưng chúng vẫn có sự phối kết hợp
với nhau như: Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước lập pháp, Chính phủ
phải thành lập dựa trên cơ sở của lập pháp….. trong tất cả các dấu hiệu kể
trên, thì chế định chính phủ, hành pháp phải chịu trách nhiệm trước quốc
hội, lập pháp là quan trọng bậc nhất. Chính chế định này tạo nên cơ sở của
chế độ đại nghị. Trong chính thể này hành pháp luôn luôn được sự tín nhiệm
của quốc hội, lập pháp. Trong trường hợp không được sự tín nhiệm của lập
pháp, chính phủ phải giải tán. Quốc hội thành lập ra một chính phủ mới, nếu
chính phủ mới không được thành lập thì quốc hội, lập pháp bị giải tán. Đây
là cách giải quyết mâu thuẫn giữa chính phủ và quốc hội, phải nhờ đến sự
trọng tài của nhân dân. Sự bất tín nhiệm lật đổ chính phủ là một chế tài gay
gắt, thể hiện mâu thuẫn giữa lập pháp và hành pháp dễ gây ra khủng hoảng
chính trị cho đất nước. Cho nên hiến pháp tư sản qui định việc sử dụng phải
hết sức khắt khe, phải đáp ứng được một loạt các yêu cầu. Chế định bất tín
nhiệm chính phủ này còn được kiềm chế bằng chế định giải tán quốc hội.
Theo hiến pháp của nhiều nước tư sản theo chế độ đại nghị qui định : Quốc
hội có thể bị nguyên thủ quốc gia với tư cách người đứng đầu nhà nước theo
yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, hoặc theo sáng kiến của mình sau khi đã
tham khảo ý kiến của thủ tướng. Nhưng vì Nguyên thủ quốc gia của nước
theo chính thể đại nghị chỉ có ý nghĩa tượng trưng, không có thực quyền,
bao giờ cũng nghe theo lời đề nghị chính phủ tức là của người đứng đầu
hành pháp. Vì vậy trên thực tế, người ta nói thẳng ra răng chính phủ được
quyền giải tán quốc hội. Nhiều Tổng thống cũng như Thủ tướng lợi dụng
chế định này để kéo dài nhiệm kì của mình. Một trong những nguyên nhân
làm cho nguyên tắc phân chia quyền lực không có hiệu lực trên thực tế là sự
hoạt động của các đảng phái chính trị. Chính vì qui định chính phủ, hành
pháp luôn phải chịu trách nhiệm trước quốc hội, lập pháp và với sự hoạt
động cứng rắn của các đảng phái chính trị nên trên thực tế chính phủ được
hình thành dựa trên cơ sở của các đảng phái chính trị. Hay nói một cách
khác là đảng nào chiếm được đa số ghế sau mỗi lần bầu hạ nghị viện thì
được đứng ra thành lập chính phủ. Mặc dù quyền này được hiền pháp qui
định cho nguyên thủ quốc gia. Ví dụ như nữ hoàng Anh được quyền bổ
nhiệm thủ tướng chính phủ, nhưng bà ta không thể bổ nhiệm một người nào
đó khác hơn, nếu như người đó không phải là thủ lĩnh của đảng cầm quyền,
tức là đảng chiếm đa số ghế trong hạ nghị viện Anh quốc. Từ đây người ta
cho rằng không thể có sự phân quyền giữa lập pháp và hành pháp. Có chăng
ở đây chỉ có sự phân chia quyền lực giữa đảng cầm quyền với đảng đối lập.
Quốc hội là đại hội đảng cầm quyền, còn chính phủ là ban chấp hành của
đảng cầm quyền. Một chính khách có chân trong ban lãnh đạo đảng cầm
quyền thì mới có cơ hội trở thành bộ trưởng. Thủ lĩnh của đảng cầm quyền
bao giờ cũng được nguyên thủ quốc gia bổ nhiệm làm thủ tướng chính phủ.
Và sự mất chức thủ lĩnh đảng cầm quyền cũng là cơ sở cho việc mất chức
thủ tướng. Những vấn đề trên hầu như không hề được một hiến pháp trong
thế giới tư sản quy định.
Kết hợp hai mô hình phân chia quyền lực nhà nước nêu trên tạo thành một
mô hình áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước nữa. Mô hình
phân chia quyền lực này tạo nên một mô hình chính thể điển hình thứ ba
trong cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước tư sản. Đó là chính thể cộng hòa
lưỡng tính mà mô hình của nó là Cộng hòa Pháp của hiến pháp năm 1958.