Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VỤ KIẾU KIỆN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT THỔ CƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.75 KB, 15 trang )


Trường Chính trị tỉnh Quảng Ngãi Tiểu luận cuối khóa
LỜI MỞ ĐẦU
Đất đai là tài nguyên vô cùng quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần
quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các
cơ sở kinh tế, văn hóa-xã hội, an ninh-quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân đã tốn
bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày nay.
Hiên nay, việc quản lý đất đai và nhà ở đã và đang là một trong những vấn đề mang
tính thời sự nóng bỏng mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm ưu tiên hàng đầu. Qua từng thời
kỳ cách mạng chính sách đất đai của Nhà nước ta cũng trên cơ sở đó mà có những thay đổi
cho phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước. Nhất là trong công cuộc đổi mới hiện nay,
để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước thì vấn đề đất
đai, hơn lúc nào hết cần phải có những sửa đổi nhằm giúp các quan hệ về đất đai vận động
và phát triển.
Trên cơ sở đó Luật đất đai năm 1993 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Đất đai đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và có hiệu
lực từ ngày 01/10/2001. Theo đó Nhà nước là chủ thể duy nhất đối với quyền sở hữu đất đai,
song bên cạnh đó cũng mở rộng thêm các quyền cho người sử dụng như quyền thừa kế,
chuyển nhượng, chuyển đổi quyền sử dụng đất, quyền khiếu nại, tố cáo về những hành vi, vi
phạm quyền sử dụng đất bất hợp pháp.
Thực tế cho thấy, những năm gần đây việc khiếu nại, tố cáo của công dân, của các
tổ chức kinh tế - xã hội về tranh chấp đất đai, chuyển nhượng quyền sử dụng đất... diễn ra
ngày càng nhiều và có chiều hướng gia tăng, nội dung vụ việc có nhiều tình tiết phước tạp,
thậm chí dẫn đến làm mất đạo lý luận thường truyền thống của người Việt Nam. Nguyên
nhân của những khiếu nại trên phần lớn là do nhân dân thiếu hiểu biết về Luật đất đai và
các văn bản của Nhà nước về Luật đất đai, bên cạnh đó cũng có không ít những trường hợp
các cấp cơ quan có thẩm quyền đã thực hiện chưa đúng chức năng, trách nhiệm quản lý và
xử lý đất đai dẫn đến nhiều vụ kiện rắc rối, kéo dài làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối
với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Do đó đòi hỏi các các cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực này phải thực hiện tốt
việc tiếp dân, tích cực giải quyết tốt các kiến nghị, khiếu nại của công dân và các tổ chức


kinh tê - xã hội, phải thật sự là “người đầy tớ trung thành” của nhân dân, coi đây là nhiệm
vụ thiết thực để đảm bảo quyền dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Nhìn chung, thời gian qua các cấp chính quyền, cơ quan hành chính Nhà nước đã có
những bước chuyển biến tích cực, có sự quan tâm rõ nét, giải quyết kịp thời các vụ khiếu
kiện, ban hành các Quyết định đúng pháp luật, phù hợp với tình hình thực tế và được nhân
dân đồng tình ủng hộ. Song bên cạnh những mặt đã làm được, vẫn còn một số nơi các cơ
quan, ban, ngành chưa làm tròn trách nhiệm của mình, chưa thật sự tôn trọng, lắng nghe và
nắm bắt thông tin từ nhân dân, dẫn đến một số vụ kiện các cơ quan chức năng xử lý thiếu
khách quan, xử lý trên cơ sở có “tình “ mà không có “lý” hoặc ngược lại nên các bên
đương sự không thi hành mà tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến cấp cao hơn. Điển hình là vụ
chuyển nhượng đất thổ cư trái phép luật giữa các ông Nguyễn Văn A, Nguyễn Văn B và ông
Lê Văn C mà tôi chọn làm đề tài tình huống để viết tiểu luận cuối khóa.
Trên cơ sở những kiến thức mà các giảng viên đã truyền đạt ở lớp “bồi dưỡng kiến
thức quản lý Nhà nước chương trình chuyên viên” và cùng với sự sưu tầm, tìm tòi học hỏi
HVTH: Phạm Thị Trúc Trang 1

Trường Chính trị tỉnh Quảng Ngãi Tiểu luận cuối khóa
của bản thân, tôi xin trình bày đề tài tình huống “Biện pháp giải quyết vụ khiếu kiện về
tranh chấp đất thổ cư”.
Với sự hạn chế về năng lực cũng như thời gian nên việc thực hiện đề tài
sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong sự đóng góp, phê bình
của các Thầy để đề tài được hoàn thiện hơn.
HVTH: Phạm Thị Trúc Trang 2

Trường Chính trị tỉnh Quảng Ngãi Tiểu luận cuối khóa
ĐỀ TÀI TÌNH HUỐNG:
BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VỤ KIẾU KIỆN VỀ
TRANH CHẤP ĐẤT THỔ CƯ.
PHẦN THỨ I
MÔ TẢ TÌNH HUỐNG.

Ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1940, hiện cư trú tại thôn N, xã M,
huyện S, tỉnh QN, có nội dung đơn khiếu kiện như sau:
Năm 1977, ông Nguyễn Văn B là anh ruột ông A, sau thời gian tập kết trở về quê
hương sinh sống do không có chổ ở nên ông A đã cho ông B ở tạm trên diện tích 750m
2
đất
thổ cư trong khu vườn của mình. Trong thời gian ở ông B đã làm nghĩa vụ nộp thuế về đất
đai cho Nhà nước. Vào năm 1990 ông B xây nhà kiên cố, làm công trình phụ và trồng các
loại hoa màu trên mảnh đất ấy. Đến năm 1999 vì điều kiện gia đình nên ông B đã bán nhà,
chuyển nhượng lại lô đất cho ông Lê Văn C để vào huy ChưPãh, tỉnh GiaLai ở và làm ăn với
con trai. vào ngày 05 tháng 4 năm 2000 ông Nguyễn Văn A gửi đơn khiếu kiện, khiếu nại
vụ việc trên lên UBND huyện H đòi lại lô đất mà anh trai ông đã chuyển nhượng cho ông
Lê Văn C.
Người bị kiện: ông Lê Văn C cho rằng: Lô đất mà ông B đã chuyển nhượng cho ông
là hợp lý vì lô đất ấy đã được UBND xã M chứng nhận quyền sử dụng, do vậy ông không
chấp nhận việc ông A khiếu nại ông.
Ngày 10/4/2000, UBND huyện S đã thành lập đoàn thanh tra và giải quyết vụ việc
tranh chấp đất thổ cư trên.
Đại diện các bên tham gia gồm:
- Đoàn thanh tra huyện.
- Ông Nguyễn Văn A, người khởi kiện.
- Ông Lê Văn C, người bị kiện.
- Ông Nguyễn Văn B, người chuyển nhượng.
- Đảng ủy, HĐND, UBND, Địa chính xã M.
Trên cơ sở đoàn thanh tra xác minh, làm việc với các đương sự và tham mưu cho
UBND huyện. Ngày 25/4/2000, UBND huyện S đã ra quyết định số 125/QĐ-UB về việc giải
quyết tranh chấp đất đai.
Nội dung quyết định như sau:
- Đối với UBND xã M: Căn cứ khoản 4, điều 25, chương 2 Luật đất đai
(sửa đổi, bổ sung), ngày 14/7/1993 thì việc UBND xã chứng nhận quyền sử

dụng đất cho ông B là sai nguyên tắc, trái với thẩm quyền theo luật định. Vì
vậy UBND xã cần phải nghiêm túc kiểm điểm và chịu trách nhiệm trước
UBND huyện.
HVTH: Phạm Thị Trúc Trang 3

Trường Chính trị tỉnh Quảng Ngãi Tiểu luận cuối khóa
- Ông Nguyễn Văn B phải có trách nhiệm hoàn trả lại số tiền là 80
triệu đồng mà ông có được từ việc chuyển nhượng đất bất hợp pháp cho ông
Lê Văn C.
- Ông Lê Văn C có trách nhiệm hoàn trả lại ngôi nhà và diện tích đất mà ông B đã
chuyển nhượng cho ông (bao gồm diện tích đất mà ông B đã xây nhà, công trình phụ và
trồng các loại hoa màu).
- Phần ông A có trách nhiệm trả lại số tiền mà ông B đã làm nhà (tính giá thời điểm
năm 1990) và số hoa màu mà ông đã cho ông B ở.
Trong quá trình thực hiện việc đền bù, ông Lê Văn C không chấp nhận việc ông B
đền bù cho ông số tiền là 80 triệu đồng như theo Quyết định của UBND huyện S. Vì ông cho
rằng: Trong thời gian chuyển nhượng (1999-2000) ông đã bỏ ra nhiều tiền để sửa lại nhà ở,
xây dựng lại tường rào, cổng ngõ và giá chuyển nhượng đất thời điểm hiện nay đã lớn hơn
nhiều so với thời điểm năm 1999, nên ông đòi ông B phải trả cho ông số tiền là 95 triệu đồng
(thay vì 80 triệu đồng như trong quyết định của UBND huyện H).
Phần ông B cho rằng:
- Ông không chịu trả số tiền như theo đòi hỏi của ông Lê Văn C, nếu có trả ông chỉ
chấp nhận trả cho ông C khoản tiền mà UBND huyện S đã có Quyết định tại Quyết định số:
125/QĐ-UB ngày 25 tháng 4 năm 2000.
- Lô đất mà ông chuyển nhượng cho ông C là của ông vì lô đất ấy đã được cha ông
thừa kế lại cho hai anh em ông. Hơn nữa ông đã sinh sống mảnh đất đó lâu năm và hàng năm
ông vẫn làm đầy đủ nghỉa vụ nộp thuế đất đai cho Nhà nước nên ông không thể trả lại cho
ông C được.
Từ những vụ việc nêu trên nên ông Nguyễn Văn A lại tiếp tục khởi kiện lên cấp cao
hơn.

PHẦN THỨ II
PHÂN TÍCH VÀ GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG:
I. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG:
1. Nhận xét chung:
Qua tình huống trên, ta thấy điểm chung nhất mà các bên đương sự mắc
phải dẫn đến sai phạm khi khiếu kiện, khi cho ở và chuyển nhượng đối với lô
đất tranh chấp đất là sự thiếu hiểu biết về Luật đất đai và các văn bản của Nhà
nước qui định về việc giải quyết tranh chấp đất đai, chuyển nhượng quyền sử
dụng đất nên để tình trạng trên kéo dài, từ sai phạm này đến sai phạm khác.
Bởi :
Một là: Nếu trước khi cho anh trai (ông Nguyễn Văn B) ở trên mảnh
đất thổ cư trên khu vườn của mình, ông A đến chính quyền địa phương liên hệ
làm đầy đủ các thủ tục cần thiết để đủ chứng cứ pháp lý, tiện cho việc thu hồi
HVTH: Phạm Thị Trúc Trang 4

Trường Chính trị tỉnh Quảng Ngãi Tiểu luận cuối khóa
lại diện tích đất trên khi cần thiết hoặc khi có sự cố thì sự việc đã không xảy ra
khiếu kiện như đã nêu trong phần nội dung tình huống.
Hai là: Cho dù là với một lý do do nào đó mà ông Nguyễn Văn B (Khi
đang ở tạm trên mảnh đất của ông A) cần đi đăng ký quyền sử dụng trên lô đất
thổ cư mà ông đang ở thì ông cũng phải nên biết rằng thẩm quyền cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là thuộc về cơ quan quản lý hành chính nhà
nước cấp huyện (tức huyện S) mới đủ thẩm quyền cấp cho ông, chứ không
phải thuộc xã M cấp. Điều này đã được qui định tại khoản 2, điều 24, chương
II, Luật đất đai (sửa đổi, bổ sung).
Ba là: Trong quá trình làm thủ tục bán nhà và chuyển nhượng lô đất
750m
2
giữa ông Nguyễn Văn B và ông Lê Văn C, nếu các ông tìm hiểu kỷ và
thận trọng hơn thì ông C sẽ thấy rằng: Lô đất mà ông B chuyển nhượng cho

ông là chưa có đầy đủ giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng của lô đất đó.
Song bên cạnh những yếu tố như đã nêu trên, chúng ta cũng nhìn nhận
sự việc một cách khách quan hơn để thấy rằng nguyên nhân dẫn đến vụ kiện
kéo dài đó là sự thiếu sót trong việc tổ chức và hoạt động quản lý Nhà nước,
sự thiếu trách nhiệm, yếu kém về điều hành quản lý ở xã M và huyện S. Tuy
nhiên để làm rõ những nguyên nhân dẫn đến vụ khiếu kiện kéo dài, chúng ta
cần tìm hiểu nguyên nhân của vụ việc từ các bên đương sự có liên quan.
2. Các nguyên nhân dẫn đến vụ khiếu kiện kéo dài.
a. Về phía các cơ quan hữu quan:
Quyết định hành chính số: 125/QĐ-UB, ngày 25/4/2000 của UBND
huyện là phù hợp và đúng thời điểm giải quyết vụ việc, không để kéo dài, đã
được qui định tại mục a, khoản 2, điều 38 Luật đất đai. Song, qua đó cũng cho
thấy những sai sót, hạn chế của Quyết định, dẫn đến tính bất khả thi của Quyết
định. Thể hiện ở những điểm sau:
- Trước khi ra Quyết định hành chính giải quyết vụ việc, UBND huyện
H đã không tìm hiểu, nghiên cứu kỷ nội dung của vụ khiếu kiện, tranh chấp và
nguyên nhân dẫn đến khiếu kiện giữa các bên đương sự đối với 750m
2
đất thổ
cư. Bên cạnh đó, cũng cho thấy việc tham mưu giải quyết tranh chấp cho
UBND huyện S của các cơ quan, ban, ngành có liên quan ở huyện và UBND
xã M còn nhiều hạn chế. Đã dẫn đến tình trạng hiểu lầm của ông A và các bên
đương sự. Nếu các cơ quan chức năng của UBND huyện và xã M khi xác định
việc ông B xin cấp giấy phép và chuyển nhượng đất là sai trái, từ đó xác minh
cụ thể nội vụ và tham mưu cho UBND huyện S ra Quyết định thu hồi diện
tích mà trên thực tế hai bên gia đình đã thỏa thuận trước đây và cấp lại cho
HVTH: Phạm Thị Trúc Trang 5

Trường Chính trị tỉnh Quảng Ngãi Tiểu luận cuối khóa
ông A, thì không những bảo đảm trình tự hành chính mà còn tránh được việc

hiểu không đúng của ông A.
- Từ những thiếu sót trên mà UBND huyện H đã ra Quyết định giải
quyết không sát đúng với tình hình, nguyên nhân và cái “gốc” của vụ việc
tranh chấp, dẫn đến nội dung của Quyết định chỉ mang tính chất chung chung,
giải quyết trên cơ sở chưa hợp tình, hợp lý nên các bên đương sự tiếp tục
khiếu kiện cũng là điều dể hiểu. Đây là một sai sót của UBND huyện H, mà
có thể coi đó là sự quan liêu của cơ quan hành chính cấp huyện.
Đối với UBND xã M: Là cơ quan hành chính địa phương cấp cơ sở và
cũng là nơi vụ việc tranh chấp xảy ra. Sai sót cơ bản nhất của UBND xã M là
đã làm trái với chức năng, thẩm quyền Luật định khi chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông B.
- Xã đã không hòa giải tốt vụ việc tranh chấp từ khi mới xảy ra theo
thẩm quyền của mình (được qui định tại khoản 1, điều 38 Luật đất đai (sửa
đổi) ngày 24/7/1993), hoặc nếu không giải quyết được thì có công văn chuyển
vụ việc trên lên UBND huyện S tiếp tục giải quyết.
- UBND xã đã không tìm hiểu kỷ nguyên nhân từ các bên khiếu kiện
đối với vụ việc tranh chấp ngay từ đầu để từ đó tham mưu cho UBND huyện
S giải quyết vụ việc tranh chấp một cách kịp thời, hợp tình, hợp lý.
b. Về các phía bên đương sự.
b.1. Đối với ông Nguyễn Văn B, người khởi kiện:
Qua nghiên cứu tài liệu, đơn khiếu kiện cho thấy nguyên nhân dẫn đến
khiếu kiện của ông Nguyễn Văn B là vì:
Một là: Việc ông cho anh Trai ông ở tạm trên diện tích 750m
2
trong khu
vườn đất thổ cư của mình là bất đắc dĩ. Lý do là vì anh trai ông sau thời gian
tập kết ra bắc về chưa có chổ ở. Hơn nữa, dù sao thì ông B cũng là anh ruột
của ông. Tuy nhiên trong quá trình ông B ở tạm, ông không có một loại giấy
tờ nào để làm chứng và cũng không đặt điều kiện gì đối với ông B, vả lại thời
gian mà ông B ở trên lô đất ấy cũng khá lâu. Khi ông B xây nhà, làm công

trình phụ và xây tường rào ngăn cách, hai bên gia đình đã không có ý kiến gì
mà còn tận tình giúp đỡ, thể hiện đạo lý “lá lành đùm lá rách”, đất ở được hai
bên gia đình phân chia ranh giới. Một yếu tố khác là, từ khi được sử dụng số
diện tích đất trên, ông B đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế sử dụng đất
cho Nhà nước. Nhưng sau này, do điều kiện gia đình, ông B đã bán nhà và
chuyển nhượng lô đất thổ cư trên cho ông Lê Văn C thì mới phát sinh tranh
chấp.
HVTH: Phạm Thị Trúc Trang 6

×