MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU........................................................................................................2
NỘI DUNG........................................................................................................2
1. Khái quát chung về người bào chữa......................................................2
1.1. Khái niệm người bào chữa...................................................................2
1.2. Phân loại người bào chữa.....................................................................3
2. Địa vị pháp lý và ý nghĩa của người bào chữa.....................................5
2.1. Địa vị pháp lý của người bào chữa.......................................................5
2.1.1. Quyền của người bào chữa..........................................................5
2.1.2. Nghĩa vụ của người bào chữa......................................................9
2.2. Ý nghĩa của chế định người bào chữa................................................10
3. Thực tiễn thi hành và một số kiến nghị..................................................11
4. Một vài nhận xét.......................................................................................15
KẾT LUẬN......................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................17
1
MỞ ĐẦU
Xã hội ngày càng phát triển thì cuộc sống ngày càng được nâng cao. Điều
đó cũng đồng nghĩa với việc các tệ nạn xã hội sẽ tăng và tình hình tội phạm có
chiều hướng chuyển biến phức tạp. Nhưng không phải trường hợp nào cũng bắt
được đúng tội phạm để xử lý. Do vậy nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người bị buộc tội thì cần phải có người bào chữa. Việc xác định đúng đắn quyền,
nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự sẽ góp phần rất quan tọng đối
với hiệu quả hoạt động tố tụng và công cuộc cải cách tư pháp nói chung. Quy định
của pháp luật về người bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 vẫn còn
nhiều bất cập nên bài viết sẽ phân tích sâu hơn về vấn đề này và từ đó đưa ra một
số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao địa vị pháp lý của người bào chữa trong
giai đoạn hiện nay.
NỘI DUNG
1. Khái quát chung về người bào chữa
1.1. Khái niệm người bào chữa
Trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 ( BLTTHS ), không có điều luật
nào quy định người bào chữa là ai mà vẫn sử dụng cách thức liệt kê để giải thích
một vấn đề. Vậy người bào chữa là người như thế nào?
Theo Từ điển giải thích luật học : “ Người bào chữa là người tham gia tố
tụng để bênh vực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo ”. Hiểu theo
nghĩa rộng hơn thì người bào chữa là người dùng lý lẽ và chứng cứ để bênh vực
cho một đương sự nào đó thuộc một vụ án hình sự hay dân sự.
Người bào chữa là người tham gia tố tụng không có quyền và lợi ích liên
quan đến vụ án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
2
pháp cho người bị buộc tội. Người bào chữa không phải là người tiến hành tố tụng
mà chỉ là người tham gia tố tụng. Từ “ tham gia ” nói lên tính chất, vai trò của
người bào chữa. “ Người tham gia ” chỉ là người góp phần hoạt động của mình
vào một hoạt động chung nào đó, do những chủ thể khác chủ động và chính thức
tiến hành. Hơn nữa, người bào chữa không phải là người được nhân danh quyền
lực nhà nước và không được sử dụng quyền lực nhà nước như những tiến hành tố
tụng. Bên cạnh đó, cũng không thể đồng nhất khái niệm người bào chữa với người
bảo vệ quyền lợi của đương sự. Người bào chữa tham gia tố tụng chủ yếu để
chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Trong khi đó, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự tham gia tố tụng chủ yếu là để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp về dân sự cho người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Dựa trên các quy định của pháp luật ta có thể rút ra được định nghĩa về
người bào chữa như sau : “ Người bào chữa là người được cơ quan chứng nhận,
tham gia tố tụng với mục đích làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến sự thật
của vụ án nhằm chứng mình về sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp người bị tam giữ, bị can, bị cáo về mặt
pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
1.2. Phân loại người bào chữa
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 BLTTHS 2003 : “ Người bào chữa có
thể là luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bào
chữa viên nhân dân ”
Luật sư : Là người đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật
tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật. Luật sư là đội ngũ
chính tham gia bào chữa trong tố tụng hình sự. Hiện nay, Luật luật sư đang điều
chỉnh các quan hệ pháp luật cụ thể về luật sư, theo quy định tại Điều 10, Điều 11
3
thì luật sư phải đáp ứng được các yêu cầu : “ Là công dân Việt Nam trung thành
với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng
cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật
sư, có sức khỏe bảo đảm ”. Muốn hành nghề luật sư thì phải có “ Chứng chỉ hành
nghề luật sư và phải tham gia vào Đoàn luật sư ”.
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo : Người
đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ hoặc người giám
hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược điểm
về thể chất hoặc tinh thần. Ngoài ra các chủ thể khác cũng là người đại diện hợp
pháp như cha mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh chị em ruột
(1)
…Người đại diện theo
pháp luật của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một chủ thể tư pháp có tư cách
của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
Bào chữa viên nhân dân : Bào chữa viên nhân dân là người được Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc cử để
bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Về mặt pháp lý, bào chữa viên nhân
dân và người đại diện theo pháp luật của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một
chủ thể có tư cách người bào chữa nhưng trong thực tế việc xem xét thủ tục chứng
nhận tư cách người bào chữa, các nguyên tắc, phạm vi tham gia tố tụng lại chưa
được hướng dẫn và quy định chi tiết dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng gặp rất
nhiều khó khăn trong việc bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Đồng thời
với chất lượng hành nghề của bào chữa viên không cao, gặp nhiều trở ngại, vướng
mắc do những hạn hẹp về kiến thức pháp luật, hình sự, không được tập sự trong
các tổ chức hành nghề luật sư chuyên nghiệp nên trong thực tiễn bào chữa viên là
chủ thể rất ít tham gia bào chữa.
(1)
Luật hôn nhân gia đình
4
2. Địa vị pháp lý và ý nghĩa của người bào chữa theo quy định của pháp
luật hiện hành.
2.1. Địa vị pháp lý của người bào chữa theo quy định của pháp luật
2.1.1.Quyền của người bào chữa
Hiện nay BLTTHS 2003 đã quy định về quyền của người bào chữa một
cách khá chi tiết và chặt chẽ so với các quy định của pháp luật trước đây. Điều này
đã khiến cho quyền lợi của người bào chữa được mở rộng và đảm bảo tốt hơn
trong quá trình tố tụng hình sự. Quyền của người bào chữa được quy định tại
khoản 2 Điều 58 : “ Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa :
2. Người bào chữa có quyền:
a) Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra
viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động
điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và
các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
b) Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để
có mặt khi hỏi cung bị can;
c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch
theo quy định của Bộ luật này;
d) Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ
chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí
mật nhà nước, bí mật công tác;
đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;
g) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc
bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
h) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;
5
i) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng;
k) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên
hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2
Điều 57 của Bộ luật này ”.
Như vậy, khi tham gia tố tụng người bào chữa có những quyền sau :
Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ,
khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị
can và có mặt tròn những hoạt động điều tra khác và có quyền xem các biên bản
về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng có liên
quan đến người mà mình bào chữa. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho người
bào chữa thực hiện đúng chức năng của mình là làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội
hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo, góp phần đảm bảo việc
điều ra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội. Việc người bào chữa có quyền có
mặt trong các hoạt động điều tra có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Khi có mặt của
người bào chữa, người bị tạm giam, bị can, bị cáo sẽ ổn định về mặt tâm lý hơn,
đồng thời những người tiến hành các hoạt động điều tra phải thận trọng, tuân thủ
pháp luật hơn. Người bào chữa theo dõi được quá trình điều tra và tình hình chứng
cứ, điều đó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc chuẩn bị lời bào chữa và tham gia
tranh tụng của họ sau này tại phiên tòa. Người bào chữa có quyền hỏi người bị tạm
giữ, bị can khi điều tra viên đồng ý để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người
bị tạm giữ, bị can. Khi tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản hoạt
động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến
người mà mình bào chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, người bào chữa
có quyền khiếu nại lên cơ quan có thẩm quyền.
Người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian
và địa điềm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. Quy định này nhằm tạo
6