BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
TRẦN THỊ BÍCH HỢP
PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG SỬ DỤNG THUỐC
TẠI BỆNH VIỆN A TỈNH THÁI NGUYÊN
NĂM 2013
LUẬN VĂN THẠC SĨ DƯỢC HỌC
HÀ NỘI - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
TRẦN THỊ BÍCH HỢP
PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG SỬ DỤNG THUỐC
TẠI BỆNH VIỆN A TỈNH THÁI NGUYÊN
NĂM 2013
LUẬN VĂN THẠC SĨ DƯỢC HỌC
CHUYÊN NGÀNH: TỔ CHỨC QUẢN LÝ DƯỢC
MÃ SỐ: 60.72.04.12
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thanh Hương
HÀ NỘI - 2014
LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc em xin gửi lời cảm ơn chân
thành nhất tới TS. Nguyễn Thị Thanh Hương, người thầy đã trực tiếp hướng
dẫn, chỉ bảo tận tình trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Em xin cảm ơn các thầy cô giáo Bộ môn Quản lý và kinh tế dược, đặc
biệt là GS.TS. Nguyễn Thanh Bình, PGS.TS. Nguyễn Thị Thái Hằng,
PGS.TS. Nguyễn Thị Song Hà đã truyền đạt cho em phương pháp nghiên cứu
khoa học và nhiều kiến thức chuyên ngành quý báu.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong Ban giám hiệu,
các phòng ban và các thầy cô giáo trường Đại học Dược Hà Nội đã giúp đỡ,
dạy dỗ em trong suốt quá trình học tập tại trường.
Em xin cảm ơn Ban giám đốc, phòng Kế hoạch - Tổng hợp, phòng Tài
chính - Kế toán, khoa Dược Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên đã tạo điều kiện
cho em trong quá trình làm đề tài.
Em xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu, các thầy cô, đồng nghiệp
trường Đại học Y Dược Thái Nguyên đã tạo điều kiện tốt nhất giúp em đi học.
Sau cùng, em xin gửi những lời yêu thương nhất tới gia đình và bạn bè
đã luôn cổ vũ, động viên, giúp đỡ em trong suốt thời gian qua.
Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Sinh viên
Trần Thị Bích Hợp
MỤC LỤC
NỘI DUNG Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương 1: TỔNG QUAN 3
1.1. Thực trạng sử dụng thuốc ở Việt Nam 3
1.2. Danh mục thuốc bệnh viện 9
1.3. Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên 12
1.3.1. Vài nét về Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên 12
1.3.2. Mô hình bệnh tật tại BVATN năm 2013 15
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 16
2.1. Đối tượng nghiên cứu 16
2.1.1. Đối tượng 16
2.1.2. Thời gian nghiên cứu 16
2.2. Phương pháp nghiên cứu 16
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu 16
2.2.2. Cỡ mẫu và cách lấy mẫu 16
2.2.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu 17
2.2.4. Trình bày số liệu 28
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 29
3.1. Phân tích cơ cấu danh mục thuốc sử dụng tại bệnh viện A tỉnh Thái
Nguyên năm 2013 29
3.1.1. Cơ cấu danh mục thuốc bệnh viện theo nhóm tác dụng dược lý 29
3.1.2. Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng tại BVATN năm 2013 31
3.1.3. Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng theo thuốc đơn thành phần, thuốc đa
thành phần 36
3.1.4. Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng mang tên gốc và tên thương mại 37
3.1.5. Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng theo thuốc sản xuất trong nước, thuốc
nhập khẩu 38
3.1.6. Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng theo đường dùng 39
3.1.7. Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng theo quy chế chuyên môn 41
3.1.8. Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng theo khối điều trị 41
3.1.9. Giá trị tiêu thụ thuốc của các khoa tại BVATN năm 2013 43
3.2. Phân tích thực trạng sử dụng thuốc 45
3.2.1. Phân tích thực trạng sử dụng kháng sinh trên các bệnh nhân viêm phế
quản phổi không xác định điều trị nội trú tại khoa Nội Tổng hợp- Bệnh viện A
tỉnh Thái Nguyên năm 2013. 45
3.2.2. Phân tích thực trạng kê đơn thuốc ngoại trú tại Bệnh viện A tỉnh Thái
Nguyên năm 2013. 52
Chương 4: BÀN LUẬN 56
4.1. Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng tại Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên năm
2013 56
4.2. Thực trạng sử dụng tại Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên năm 2013 63
4.2.1. Sử dụng kháng sinh trên các bệnh nhân viêm phế quản phổi không xác
định điều trị nội trú tại khoa Nội Tổng hợp- Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên
năm 2013 63
4.2.2. Thực trạng kê đơn thuốc ngoại trú tại bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên
năm 2013 65
KẾT LUẬN 68
1. Thực trạng cơ cấu thuốc sử dụng tại Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên năm
2013 68
2. Thực trạng sử dụng thuốc 68
2.1. Thực trạng sử dụng kháng sinh trên các bệnh nhân viêm phế quản phổi
không xác định điều trị nội trú tại khoa Nội Tổng hợp- Bệnh viện A tỉnh Thái
Nguyên năm 2013. 69
2.2. Thực trạng kê đơn thuốc ngoại trú 69
ĐỀ XUẤT 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BN : Bệnh nhân
BVATN : Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên
BHYT : Bảo hiểm y tế
DMHC : Danh mục hoạt chất mua theo kết quả trúng thầu của Sở Y tế
tỉnh Thái Nguyên năm 2013
DMTBV : Danh mục thuốc bệnh viện mua theo kết quả trúng thầu của Sở
Y tế tỉnh Thái Nguyên năm 2013
DMTCY : Danh mục thuốc chủ yếu
DMTSD : Danh mục thuốc sử dụng tại Bẹnh viện A tỉnh Thái Nguyên
năm 2013
GTTT : Giá trị tiêu thụ thuốc
HC : Hoạt chất
MS : Mẫu số
SDT : Sử dụng thuốc
SL : Số lượng
SK : Số khoản
STT : Số thứ tự
SX : Sản xuất
TL : Tỷ lệ
TS : Tử số
TB ± SD : Trung bình ± độ lệch chuẩn.
VN : Việt Nam.
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Cơ cấu bệnh tật tại BVATN năm 2013 15
Bảng 2.2. Các chỉ tiêu nghiên cứu 17
Bảng 3.3. Cơ cấu danh mục thuốc bệnh viện theo nhóm tác dụng dược lý 29
Bảng 3.4. Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng tại BVATN năm 2013 theo nhóm
tác dụng dược lý 31
Bảng 3.5. Số lượng thuốc trong DMTBV nhưng không được sử dụng 33
Bảng 3.6. Danh mục thuốc không sử dụng tại BVATN năm 2013 theo nhóm
tác dụng dược lý 34
Bảng 3.7. Các hoạt chất trùng lặp với hoạt chất trong thuốc 35
không được sử dụng 35
Bảng 3.8. Cơ cấu thuốc đơn thành phần và đa thành phần 36
Bảng 3.9. Cơ cấu thuốc đa thành phần theo nhóm tác dụng dược lý 36
Bảng 3.10. Tỷ lệ thuốc mang tên gốc và tên thương mại 37
Bảng 3.11. Cơ cấu thuốc mang tên thương mại theo tác dụng dược lý 37
Bảng 3.12. Tỷ lệ thuốc sản xuất trong nước, thuốc nhập khẩu 38
Bảng 3.13. Nguồn gốc của thuốc nhập khẩu 38
Bảng 3.14. Tỷ lệ thuốc theo đường dùng 39
Bảng 3.15. Cơ cấu thuốc tiêm một số nhóm thuốc 40
Bảng 3.16. Cơ cấu danh mục thuốc theo quy chế chuyên môn 41
Bảng 3.17. Cơ cấu thuốc sử dụng theo khối điều trị 42
Bảng 3.18. Cơ cấu thuốc điều trị ngoại trú 42
Bảng 3.19. Cơ cấu thuốc điều trị ngoại trú theo đường dùng 42
Bảng 3.20. Sử dụng thuốc của các khoa tại BVATN năm 2013 43
Bảng 3.21. GTTT kháng sinh của một số khoa tại BVATN năm 2013 44
Bảng 3.22. Tiền sử sử dụng kháng sinh trước khi nhập viện 45
Bảng 3.23. Các bệnh mắc kèm 46
Bảng 3.24. Phân loại bệnh mắc kèm theo mã ICD-10 46
Bảng 3.25. Danh mục và tần suất sử dụng các kháng sinh 47
Bảng 3.26. Thời gian sử dụng kháng sinh và thời gian điều trị nằm viện 48
Bảng 3.27. Phân loại bệnh nhân nằm viện trên 10 ngày và sử dụng kháng sinh
trên 10 ngày theo nhóm tuổi 48
Bảng 3.28. Đường dùng của kháng sinh 49
Bảng 3.29. Bình quân tiền thuốc 49
Bảng 3.30. Hiệu quả điều trị 50
Bảng 3.31. Số lượng kháng sinh sử dụng trong đợt điều trị 50
Bảng 3.32. Sự thay đổi kháng sinh trên bệnh nhân 51
Bảng 3.33. Lý do thay đổi kháng sinh 51
Bảng 3.34. Ghi thông tin bệnh nhân trong đơn thuốc ngoại trú 52
Bảng 3.35. Số thuốc trung bình/đơn 53
Bảng 3.36. Số lượng thuốc trong đơn thuốc ngoại trú 53
Bảng 3.37. Số đơn có kê vitamin, kháng sinh, thuốc tiêm 55
Bảng 3.38. Trung bình tiền thuốc trong một đơn thuốc 55
DANH MỤC HÌNH
Trang
Hình 3.1. Tỷ lệ giá trị tiêu thụ thuốc theo nhóm tác dụng dược lý 32
Hình 3.2. Tỷ lệ số lượng thuốc trong đơn thuốc ngoại trú 54
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh viện là cơ sở y tế trực tiếp khám chữa bệnh và chăm lo sức khỏe
toàn diện cho người bệnh. Hiện nay, nhiều bệnh viện đã nỗ lực đảm bảo cung
ứng đủ thuốc và sử dụng thuốc một cách hợp lý, an toàn, hiệu quả nhưng qua
các kết quả nghiên cứu cho thấy việc sử dụng thuốc vẫn còn nhiều bất cập.
Chi phí dành cho kháng sinh chiếm tỷ lệ tương đối cao trong tổng chi phí cho
thuốc và hóa chất. Theo số liệu thống kê sử dụng thuốc tại Khoa Dược của
Bệnh viện Bạch Mai cho thấy chi phí về kháng sinh trong toàn viện chiếm
hơn 30% tổng chi phí thuốc điều trị [55]. Tại Bệnh viện C Thái Nguyên năm
2011, chi phí kháng sinh trong toàn bệnh viện chiếm 34,4% tổng giá trị tiêu
thụ thuốc [36]. Tỷ lệ tiền thuốc kháng sinh trong tổng số tiền sử dụng thuốc
chiếm 32,7%, một phần cho thấy mô hình bệnh tật tại Việt Nam có tỷ lệ các
bệnh nhiễm khuẩn cao, mặt khác có thể đánh giá tình trạng lạm dụng kháng
sinh vẫn còn phổ biến [18]. Tỷ lệ thuốc nhập khẩu, thuốc theo tên biệt dược
trong danh mục thuốc tại các bệnh viện được nghiên cứu chiếm ưu thế. Việc
sử dụng quá nhiều thuốc thành phẩm có cùng hoạt chất hoặc sử dụng nhiều
thuốc có tác dụng tương tự nhưng với nhiều mức giá khác nhau đang là tình
trạng phổ biến hiện nay tại hầu hết các bệnh viện thuộc các tuyến [56]. Tỷ lệ
đơn thuốc ghi không đầy đủ, rõ ràng nội dung vẫn còn cao. Tình trạng lạm
dụng thuốc, đặc biệt là thuốc bổ trợ, vitamin, không theo dõi đầy đủ tác dụng
phụ có hại của thuốc ngày càng phổ biến và có xu hướng tăng…. Sử dụng
thuốc không hợp lý không chỉ ảnh hưởng tới công tác chăm sóc khám chữa
bệnh mà còn là nguyên nhân làm tăng chi phí đáng kể cho người bệnh, tạo ra
gánh nặng cho nền kinh tế xã hội. Một trong các yếu tố quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng khám và điều trị cho người bệnh là việc sử dụng thuốc
hợp lý, an toàn, hiệu quả. Do đó phân tích hoạt động sử dụng thuốc của các
bệnh viện là việc hết sức cần thiết để phản ánh thực trạng và góp phần nâng
2
cao chất lượng công tác khám chữa bệnh nói chung và nâng cao công tác sử
dụng thuốc nói riêng tại bệnh viện, đồng thời góp phần nâng cao lòng tin của
nhân dân đối với hệ thống y tế.
Thái Nguyên là một trong những trung tâm kinh tế của các tỉnh trung du
miền núi Đông Bắc. Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên đã ra đời và hoạt động gần
50 năm với số lượng bệnh nhân đến khám và điều trị ngày càng đông nhưng tại
bệnh viện này chưa có đề tài nào nghiên cứu đánh giá về công tác sử dụng thuốc.
Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Phân tích hoạt động sử dụng thuốc tại
Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên năm 2013” với các mục tiêu sau:
1. Phân tích cơ cấu thuốc sử dụng tại Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên
năm 2013.
2. Phân tích thực trạng sử dụng thuốc:
- Sử dụng kháng sinh trên các bệnh nhân viêm phế quản phổi không xác
định điều trị nội trú tại khoa Nội Tổng hợp- Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên
năm 2013.
- Kê đơn thuốc ngoại trú tại Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên năm 2013.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Thực trạng sử dụng thuốc ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu
sắc của sự suy thoái kinh tế, khủng hoảng tài chính toàn cầu kéo theo sự đi
xuống của các ngành kinh tế nhưng ngành y tế nói chung, ngành dược phẩm
nói riêng đã đạt được những kết quả tích cực trong công tác bảo vệ, chăm sóc
và nâng cao sức khỏe nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an sinh
xã hội. Ngành Dược đã cung ứng đủ thuốc cho nhu cầu phòng bệnh, chữa
bệnh của nhân dân, thuốc sản xuất trong nước đã chiếm gần 50% thị phần
dược phẩm.
Năm 2009, tổng giá trị tiền thuốc sản xuất trong nước đạt 831,250 triệu
USD tăng 16,18% so với năm 2008, đáp ứng được 49,01% nhu cầu sử dụng
thuốc của nhân dân. Tiền thuốc bình quân đầu người năm 2009 đạt mức 19,77
USD, tăng 3,32 USD (20,18%) so với năm 2008 và tăng hơn 300% so với
năm 2001. Thuốc sản xuất trong nước đã đạt 234/314 hoạt chất trong danh
mục thuốc thiết yếu, đủ nhóm tác dụng dược lý theo phân loại của Tổ chức Y
tế Thế giới. Trong nước đã sản xuất được một số vắc xin, thuốc điều trị bệnh
tim mạch, tiểu đường… [20].
Theo Ts. Cao Minh Quang, Thứ trưởng Bộ Y tế Việt Nam: “tổng giá trị
sử dụng thuốc trong các bệnh viện trên cả nước năm 2010 là 15.300 tỷ đồng,
tập trung chủ yếu ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh”[38]. Theo thống kê
của Cục Quản lý Dược Việt Nam, tổng giá trị tiền thuốc sử dụng năm 2010
đạt 1,9 triệu USD, tăng 13% so với năm 2009. Tốc độ tăng trưởng giá trị tiền
thuốc sử dụng tăng bình quân 18% trong 5 năm 2006-2010, cao hơn nhiều so
với mức tăng trưởng bình quân của ngành Dược toàn cầu (6,2%). Chi phí
thuốc trên đầu người năm 2010 là 22,25 USD, tăng 12,5% so với năm 2009
(19,77 USD) [21].
4
Năm 2011, giá trị thuốc sản xuất trong nước ước tính đạt khoảng 1.140
triệu USD, tăng 24,04% so với năm 2010. Tổng giá trị tiền thuốc ước sử dụng
năm 2011 là 2.432,5 triệu USD tăng 27,45% so với năm 2010[31]. Về cơ bản
hệ thống y tế đã đáp ứng nhu cầu thuốc thiết yếu, vắc-xin cho công tác phòng,
chữa bệnh cho nhân dân. Các cơ sở đều bảo đảm có đủ thuốc phù hợp với
phân tuyến kỹ thuật, không để xảy ra tình trạng thiếu thuốc ở cộng đồng [24].
Sản xuất thuốc trong nước đáp ứng 47% nhu cầu về thuốc của người dân (về
giá trị sử dụng) [22].
Giá trị thuốc sản xuất trong nước năm 2012 đạt 1200 triệu USD, tăng
5,3% so với năm 2011 [24]. Năm 2012, tổng giá trị tiền thuốc sử dụng tại Việt
Nam đạt 2,6 tỷ USD tăng 9,1% so với năm 2011 [25]. Giá trị thuốc nhập khẩu
chiếm 50%. Trong 05 năm, tiền thuốc bình quân đầu người tăng từ 16,45
USD/người/năm vào 2008 lên 29,50 USD/người/năm vào năm 2012 [23].
Năm 2013, trong bối cảnh kinh tế trong nước phát triển chững lại, sức
mua giảm, hàng tồn kho lớn, áp lực về nguồn vốn, số lượng doanh nghiệp bị
giải thể tăng… nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành dược vẫn
được duy trì tương đối ổn định và đảm bảo cung ứng kịp thời, đủ thuốc phục
vụ công tác khám bệnh, chữa bệnh và phòng chống dịch bệnh và thiên tai.
Tổng giá trị tiền thuốc ước sử dụng năm 2013 là 2.775 triệu USD tăng 6,7%
so với năm 2012. Giá trị thuốc sản xuất trong nước năm 2013 ước tính đạt
khoảng 1.300 triệu USD, tăng 8,3% so với năm 2012 [27].
Nhằm thực hiện tốt mục tiêu đảm bảo đủ thuốc cho nhân dân có chất
lượng với giá hợp lý, Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Công thương,
UBND các tỉnh, thành phố triển khai nhiều giải pháp quyết liệt về quản lý giá
thuốc, đấu thầu thuốc theo quy định Thông tư 50/2011/TTLT-BYT-BTC-
BCT, Thông tư 01/2012/TTLT-BYT-BTC, Thông tư 11/2012/TT-BYT. Các
quy định mới về đấu thầu thuốc có mục đích giảm ngân sách bảo hiểm y tế và
giảm tiền thuốc cho người bệnh bằng cách đấu thầu mua loại thuốc rẻ nhất
5
cho các bệnh viện, đã bảo đảm cạnh tranh công bằng và minh bạch, cải cách
thủ tục hành chính nên đã giảm được khoảng 20-30% so với giá kế hoạch,
góp phần bình ổn thị trường dược phẩm trong bối cảnh chung của nền kinh tế,
không để xảy ra trường hợp tăng giá đột biến và bất hợp lý. Theo số liệu của
Tổng cục thống kê, mức độ tăng giá của nhóm hàng dược phẩm năm 2013 là
3,45% và thấp hơn mức độ tăng giá của hàng hóa tiêu dùng chung (CPI là
6,04%) [25]. Năm 2012 liên Bộ Y tế và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư
liên tịch số 04/2012/TTLT-BYT-BTC, điều chỉnh 447/3000 giá dịch vụ y tế,
bước đầu giải quyết được khó khăn về kinh phí cho hoạt động bệnh viện [15].
Người dân Việt Nam có thói quen chữa bệnh tại gia, và sử dụng những
loại thuốc trước đó đã quen dùng. Theo quan niệm của người Việt Nam, hàng
Việt Nam thông thường có chất lượng không cao bằng so với sản phẩm nước
ngoài, trong trường hợp này, là các sản phẩm của Pháp, hay Đức, Hàn
Quốc…, Vì vậy, hằng năm, Bộ Công Thương vẫn luôn khởi động phong trào
“Người Việt dùng hàng Việt” và Bộ Y tế xây dựng Đề án “Người Việt Nam
ưu tiên dùng thuốc Việt Nam” với mục tiêu đẩy mạnh việc sử dụng thuốc sản
xuất trong nước tại các cơ sở y tế và trong cộng đồng, góp phần hỗ trợ cho
ngành dược Việt Nam phát triển bền vững, đảm bảo nguồn cung ứng thuốc
phòng bệnh, chữa bệnh cho nhân dân một cách ổn định và không lệ thuộc vào
nguồn nhập khẩu từ nước ngoài [22]. Để tăng cường việc tiếp cận, sử dụng
thuốc sản xuất trong nước bên cạnh triển khai đồng bộ các giải pháp tại Đề án
"Người Việt Nam ưu tiên dùng thuốc Việt Nam", Bộ Y tế đã có kế hoạch để
triển khai chương trình truyền thông “Con đường thuốc Việt”, "Ngôi sao
thuốc Việt" [27].
Nhằm đảm bảo sử dụng thuốc an toàn, hiệu quả, Bộ Y tế đã ban hành
một số văn bản quy chế liên quan đến sử dụng thuốc trong bệnh viện. Chỉ thị
05/2004/CT-BYT ban hành ngày 16 tháng 4 năm 2004 của Bộ Y tế về việc
chấn chỉnh công tác cung ứng, sử dụng thuốc trong bệnh viện đã yêu cầu:
6
“đảm bảo đủ thuốc chữa bệnh theo danh mục thuốc chủ yếu sử dụng tại các
cơ sở khám chữa bệnh, không để người bệnh nội trú phải tự mua thuốc trong
danh mục thuốc chủ yếu ”[4]. Theo thông tư 07/2011/TT-BYT về hướng dẫn
công tác điều dưỡng về chăm sóc người bệnh trong bệnh viện, Bộ Y tế quy
định nhiệm vụ của điều dưỡng chăm sóc người bệnh trong bệnh viện là
“phải phối hợp giữa các bác sĩ, dược sĩ, điều dưỡng viên, hộ sinh viên trong
dùng thuốc nhằm tăng hiệu quả điều trị bằng thuốc và hạn chế sai sót trong
chỉ định và sử dụng thuốc cho người bệnh” [10]. Bộ Y tế ban hành thông tư
23/2011/TT-BYT hướng dẫn sử dụng thuốc trong các cơ sở y tế có giường
bệnh, trong đó có quy định “khoa lâm sàng có trách nhiệm hướng dẫn, giải
thích cho người bệnh tuân thủ điều trị” [12].
Nhằm tăng cường sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, Bộ Y tế ban hành
thông tư 22/2011/TT/BYT quy định khoa Dược bệnh viện có 14 nhiệm
vụ, trong đó có nhiệm vụ: khoa Dược “phối hợp với khoa cận lâm sàng và
lâm sàng theo dõi, kiểm tra, đánh giá, giám sát việc sử dụng thuốc an
toàn, hợp lý đặc biệt là sử dụng kháng sinh và theo dõi tình hình kháng
kháng sinh trong bệnh viện” [11].
Tuy nhiên, sử dụng thuốc thiếu hiệu quả và bất hợp lý nói chung và trong
khu vực bệnh viện nói riêng đã và đang là vấn đề bất cập của nhiều quốc gia.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính làm tăng chi phí điều trị cho
người bệnh.Theo các nghiên cứu, kinh phí mua thuốc chiếm 30% - 40% ngân
sách y tế của nhiều nước, và phần lớn số tiền đó bị lãng phí do dùng thuốc
không hợp lý và các hoạt động cung ứng thuốc không hiệu quả [1]. Sử dụng
thuốc không hợp lý bao gồm kê đơn thuốc khi không cần thiết, kê đơn và phát
thuốc không đúng hoặc không có hiệu lực và không an toàn, trong khi những
thuốc hiệu quả sẵn có lại không được tận dụng; bệnh nhân dùng sai thuốc.
Việc sử dụng thuốc không hợp lý trên phạm vi rộng có tác động tiêu cực đáng
kể đến chi phí chăm sóc sức khỏe, chất lượng của việc điều trị bằng thuốc, và
7
là nhân tố đầu tiên góp phần gia tăng vi khuẩn kháng kháng sinh. Một tác
động tiêu cực nữa là làm tăng nguy cơ xảy ra tác dụng không mông muốn và
khuyến khích sự lệ thuộc không hợp lý vào thuốc của bệnh nhân [49], [58].
Ở Việt Nam, đã có nhiều báo cáo điều tra đến việc sử dụng thuốc không
hợp lý tại các cơ sở y tế, nhất là đối với thuốc kháng sinh. Việc sử dụng rất
nhiều kháng sinh tại tất các tuyến là điều đáng lo ngại về tình hình nhiễm
khuẩn mắc phải và tình trạng kháng kháng sinh hiện nay [56].Khi kê đơn, tốt
nhất là dùng tên gốc hay tên chung quốc tế kèm theo tên biệt dược đặt trong
ngoặc, nếu thấy cần thiết. Khi kê hai thuốc hoặc nhiều thuốc hơn trong cùng
một đơn thuốc, thuốc chính ghi đầu tiên. Nên tránh kê quá nhiều thuốc trong
một đơn thuốc. Kê đơn càng ít thuốc càng tốt để tránh tương tác thuốc[60].
Trong kê đơn, việc lạm dụng kháng sinh, nhất là lạm dụng cephalosporin thế
hệ 3 và lạm dụng vitamin; kê quá nhiều thuốc cho người bệnh, dẫn đến nhiều
tương tác thuốc khi điều trị, có bệnh viện kê tới 14-16 thuốc trong một ngày
cho một người bệnh, thậm chí có đơn kê đến 20 loại thuốc trong một ngày
cho bệnh nhân [18]. Tình trạng sử dụng kháng sinh phổ biến (50% đơn thuốc
ngoại trú, tại tuyến huyện lên tới 60%), tỷ lệ dùng kháng sinh tiêm, kết hợp
kháng sinh khá cao trong điều trị nội trú, trong khi không dùng kháng sinh đồ,
dẫn đến tình trạng kháng kháng sinh ngày càng nghiêm trọng [23].Việc kháng
sinh được sử dụng phổ biến có thể còn do các bác sỹ kê đơn theo kinh nghiệm
và đôi khi họ kê đơn kháng sinh nhằm mục đích phòng bệnh, điều trị theo
kiểu bao vây. Kê đơn kháng sinh thực tế phải dựa vào kháng sinh đồ. Đây là
một xét nghiệm không được dùng phổ biến tại Việt Nam do tốn kém và thời
gian có kết quả lâu (khoảng 3-5 ngày). Việc kê đơn kháng sinh không dựa vào
kháng sinh đồ có thể tạo thói quen kê thuốc kháng sinh phổ rộng, phối hợp
nhiều thuốc kháng sinh cho một bệnh nhân hoặc thay đổi kháng sinh trong
một đợt điều trị. Chi phí về kháng sinh trong toàn viện chiếm hơn 30% tổng
chi phí thuốc điều trị. Hai nhóm kháng sinh chiếm chi phí sử dụng cao nhất
8
hiện nay là Cephalosporin III. IV (50%) và carbapenem (20%) [55]. Theo
nguyên tắc sử dụng kháng sinh an toàn, hiệu quả khuyến cáo: chỉ sử dụng
kháng sinh khi có nhiễm khuẩn và thời gian sử dùng kháng sinh thông thường
là 7-10 ngày [5]. Nhưng theo kết quả nghiên cứu của Lưu Đình Thắng, thời
gian sử dụng kháng sinh cephalosporin thế hệ III trong viêm phế quản mãn
tính tại Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên năm 2012 là 13,4 ± 4,1 (ngày). Kinh
phí sử dụng thuốc kháng sinh tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 năm
2009 là 26,4% [32]. Theo nghiên cứu của Dương Ngọc Ngà, tại Bệnh viện C
Thái Nguyên năm 2011, giá trị tiêu thụ của nhóm thuốc kháng sinh có tỷ lệ
cao nhất (34,4%) [36]. Vì vậy, nếu không kiểm soát chỉ định thuốc chặt chẽ,
ngoài việc ảnh hưởng tới chi phí khám chữa bệnh, còn là nguyên nhân khiến
hiệu quả điều trị không được như mong muốn [56].
Theo Quy chế kê đơn thuốc trong điều trị ngoại trú, đơn thuốc là căn
cứ để bán thuốc, cấp phát thuốc, pha chế thuốc theo đơn và sử dụng thuốc [7].
Mặc dù, quy chế kê đơn thuốc trong điều trị ngoại trú theo quyết định số
04/2008/QĐ-BYT đã quy định việc ghi tên thuốc tron đơn được thực hiện
một trong hai hình thức: viết tên thuốc theo tên chung quốc tế (INN, generic
name) hoặc nếu ghi tên biệt dược phải ghi tên chung quốc tế trong ngoặc đơn
(trừ trường hợp thuốc có nhiều hoạt chất) [7], nhưng nhiều đơn thuốc ghi
không đúng mẫu quy định của Bộ Y tế. Để đánh giá thực trạng kê đơn, trên
thế giới người ta đã sử dụng chỉ số kê đơn. Các chỉ số kê đơn được dựa trên
thực tiễn quan sát được (theo phương pháp hồi cứu hoặc phương pháp tiến
cứu) trong một mẫu các lần khám lâm sàng diễn ra ở các cơ sở y tế điều trị
ngoại trú các bệnh cấp tính hoặc mạn tính. Các chỉ số kê đơn chủ yếu đo
lường xu hướng kê đơn chung ở nơi được nghiên cứu, không phụ thuộc vào
chẩn đoán cụ thể [46]. Theo kết quả nghiên cứu tại Bệnh viện 354 năm 2007-
2009, số thuốc trung bình trong một đơn là 2,96, số thuốc được kê tên gốc chỉ
chiếm tỷ lệ 11,73% tổng số thuốc [34]. Nghiên cứu tại Bệnh viện Tim Hà Nội
năm 2008-2010, số thuốc trung bình trong một đơn là 4,4, số thuốc kê tên gốc
9
chiếm 20% tổng số thuốc, 35% đơn thuốc có kê vitamin, 95% đơn ghi liều
dùng, thời gian dùng nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể. Tỷ lệ kê thuốc đúng số
ngày chiếm 95% [30]. Nghiên cứu việc thực hiện quy chế kê đơn trong điều
trị ngoại trú tại Bệnh viện Phổi Trung ương năm 2009 cho thấy, chỉ có 35,0%
đơn thuốc ghi rõ ràng, chính xác địa chỉ bệnh nhân, có 62,0% ghi tên thuốc
theo tên hoạt chất; 83% ghi đầy đủ hàm lượng, nồng độ, số lượng thuốc và có
50,9% tỷ lệ đơn không ghi đường dùng, tỷ lệ thuốc được kê tên biệt dược còn
nhiều, chỉ có 15,8% số thuốc được ghi theo tên chung quốc tế với một thành
phần[29].
Các bệnh viện, trong đó khoa Dược bệnh viện đã phục vụ tốt hơn nhờ
có phần mềm quản lý bệnh viện, đảm bảo theo dõi số lượng, chất lượng thuốc
phục vụ công tác điều trị tại bệnh viện [19]. Ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý và cấp phát thuốc là một tiến bộ lớn của khối dược bệnh viện.
Nhờ vậy công tác cấp phát thuốc cho bệnh nhân nội trú và ngoại trú được
thực hiện nhanh chóng, hợp lý và hiệu quả. Một số bệnh viện tuyến trung
ương đã thực hiện kê đơn điện tử để nâng cao chất lượng kê đơn, chỉ định
thuốc. Tại bệnh viện Nhân Dân 115 thực hiện kê đơn điện tử, các sai sót
thông tin bệnh nhân giảm từ 98% xuống còn 33,6%; thiếu thông tin về thời
điểm dùng giảm từ 54% xuống 33,5%. Kê đơn điện tử giúp hạn chế sai sót
trong kê đơn, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa bệnh nhân, người kê đơn, dược sỹ
và tất cả nhân viên y tế tham gia vào quá trình quản lý thuốc [43].
1.2. Danh mục thuốc bệnh viện
Việc xây dựng một danh mục thuốc sử dụng tại bệnh viện phù hợp sẽ
mang lại nhiều lợi ích cho bệnh viện nói riêng cũng như toàn xã hội nói chung
[1]. Thông tư 21/2013/TT-BYT ban hành ngày 08/08/2013 quy định về tổ chức
và hoạt động của Hội đồng Thuốc và điều trị trong bệnh viện có nêu rõ nguyên
tắc xây dựng danh mục thuốc và tiêu chí lựa chọn thuốc dùng trong bệnh
viện[17]. Trên cơ sở các tiêu chuẩn đã được thống nhất, mỗi bệnh viện tùy
theo nhiệm vụ điều trị, mô hình bệnh tật, trình độ chuyên môn của cán bộ,
10
nguồn kinh phí, trang thiết bị, chính sách của nhà nước… để xây dựng danh
mục thuốc phù hợp. Hàng năm danh mục thuốc cần được bổ sung, điều chỉnh
cho phù hợp với tình hình thực tế điều trị, phù hợp với khả năng ứng dụng các
tiến bộ khoa học kỹ thuật của điều trị [47].
Cơ sở để xây dựng danh mục thuốc bệnh viện: mô hình bệnh tật, phác
đồ điều trị, chính sách quốc gia về thuốc, danh mục thuốc thiết yếu, danh
mục thuốc chủ yếu, nhu cầu của các khoa phòng và khả năng kinh phí của
bệnh viện.
* Mô hình bệnh tật
Mô hình bệnh tật bệnh viện là số liệu thống kê về bệnh tật trong khoảng
thời gian nhất định (thường theo từng năm) về số bệnh nhân đến khám và
điều trị. Để nghiên cứu mô hình bệnh tật được thống nhất, thuận lợi và chính
xác, Tổ chức Y tế thế giới đã ban hành phân loại quốc tế về bệnh tật ICD
(Internation Classification of Diseases and Health Problems). Bảng phân loại
này đã được bổ sung và sửa đổi 10 lần. Bảng phân loại quốc tế bệnh tật ICD
lần thứ 10 gồm 21 chương bệnh, mỗi chương bệnh có một hay nhiều nhóm
bệnh, mỗi nhóm bệnh có nhiều loại bệnh, mỗi loại bệnh có nhiều chi tiết theo
nguyên nhân gây bệnh hay tính chất đặc thù của bệnh đó [3].
* Hướng dẫn thực hành điều trị: là văn bản chuyên môn mang tính pháp
lý, được đúc kết từ kinh nghiệm thực tiễn, được sử dụng như một khuôn mẫu
trong điều trị học mỗi loại bệnh. Một hướng dẫn điều trị có thể có một hoặc
nhiều công thức điều trị khác nhau. Theo Tổ chức Y tế thế giới, một hướng
dẫn bao gồm đủ 4 tiêu chí: hợp lý, an toàn, hiệu quả, kinh tế [3].
* Chính sách quốc gia về thuốc
Chính sách thuốc quốc gia Việt Nam đã đề ra 2 mục tiêu lớn [26]:
- Cung cấp thuốc cho nhu cầu chăm sóc sức khỏe của toàn dân đầy đủ,
kịp thời các loại thuốc có hiệu lực, chất lượng thuốc, giá thành hợp lý.
- Việc sử dụng thuốc phải đảm bảo an toàn, hợp lý, hiệu quả.
11
* Danh mục thuốc thiết yếu:
Việc lựa chọn danh mục thuốc thiết yếu góp phần nâng cao chất lượng
khám chữa bệnh và giúp quản lý tốt hơn các loại thuốc (bao gồm cả cải thiện
chất lượng kê đơn thuốc) đồng thời tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực y tế.
Điều này rất quan trọng để tận dụng nguồn kinh phí hạn hẹp của các nước
nghèo và tăng niềm tin của công chúng trong các dịch vụ y tế [54].
Năm 2013, Danh mục thuốc thiết yếu được áp dụng là danh mục thuốc
thiết yếu lần thứ V được Bộ Y tế ban hành theo quyết định số 17/2005/QĐ-
BYT ngày 01 tháng 07 năm 2005. Danh mục thuốc thiết yếu là cơ sở để xây
dựng Danh mục thuốc chủ yếu sử dụng tại cơ sở khám chữa bệnh. Đối với các
bệnh viện, Hội đồng thuốc và điều trị xây dựng danh mục sử dụng trong bệnh
viện đáp ứng nhu cầu điều trị trình giám đốc phê duyệt [3].
* Danh mục chủ yếu:
Danh mục thuốc chủ yếu được Bộ Y tế ban hành trên cơ sở danh mục
thuốc thiết yếu Việt Nam lần thứ V và Tổ chức Y tế thế giới hiện hành, có
hiệu quả tốt trong điều trị. Mục đích của ban hành danh mục thuốc chủ yếu
nhằm đảm bảo sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, đáp ứng nhu cầu điều trị của
người bệnh và phù hợp với khả năng kinh tế của người bệnh và khả năng chi
trả của bảo hiểm y tế [8]. Danh mục thuốc chủ yếu sử dụng tại các cơ sở
khám chữa bệnh được quỹ bảo hiểm thanh toán được ban hành kèm theo
thông tư số 31/2011/TT-BYT ngày 11/07/2011. Danh mục thuốc bao gồm
1143 thuốc hay hoạt chất, được sắp xếp theo mã ATC (giải phẫu, điều trị, hóa
học); được ghi theo tên chung quốc tế và theo quy định của Dược thư Quốc
gia Việt Nam gồm các thuốc tân dược, thuốc phóng xạ và hợp chất đánh dấu
[13].
* Trình độ chuyên môn, khả năng kinh phí của bệnh viện
Nếu xây dựng danh mục thuốc trong bệnh viện không dựa trên những căn
cứ khoa học thì ngay từ những yếu tố ban đầu của sử dụng thuốc hợp lý đã
không đạt được. Hàng năm danh mục thuốc cần được bổ sung, điều chỉnh cho
12
phù hợp với tình hình thực tế của điều trị, phù hợp với khả năng ứng dụng các
tiến bộ của khoa học kỹ thuật điều trị [47].
Một nghiên cứu tại Bệnh viện Nhân Dân 115 cho thấy việc lựa chọn
thuốc hợp lý trong danh mục đã giảm được hơn 500 triệu đồng trong vòng 6
tháng [41]. Các bệnh viện xây dựng danh mục thuốc sử dụng tại bệnh viện
căn cứ vào danh mục thuốc chữa bệnh chủ yếu sử dụng tại các cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh. Về cơ bản danh mục thuốc bệnh viện đáp ứng được nhu cầu
điều trị. Tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa, tỷ lệ thuốc chủ yếu trong
danh mục thuốc bệnh viện năm 2009 cũng chiếm tới 91,8% [39]. Tại Bệnh
viện C tỉnh Thái Nguyên năm 2011, tỷ lệ thuốc chủ yếu là 86,9% [36]. Năm
2012, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, tỷ lệ này là 91,3%[35]. Tỷ lệ
dùng thuốc nội, thuốc mang tên gốc tại các bệnh viện đã dần được chú trọng,
cụ thể tại Bệnh viện 354, năm 2009, tỷ lệ sử dụng thuốc nội là 45,5%, thuốc
mang tên gốc chiếm 53,4% [34]. Tại Bệnh viện C Thái Nguyên năm 2011, tỷ
lệ sử dụng thuốc sản xuất trong nước là 62,8%, thuốc mang tên gốc là 47,3%
[32].
1.3. Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên
1.3.1. Vài nét về Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên
Bệnh viện A tỉnhThái Nguyên (BVATN) được thành lập năm 1965,
được tách ra từ bệnh viện Khu - Việt Bắc. Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên
được thành lập theo quyết định số 657/UB-QĐ/ BT ngày 31/12/1965 của uỷ
ban hành chính tỉnh Bắc Thái (nay là tỉnh Thái Nguyên), có trụ sở tại phường
Tân Thịnh, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, cách trung tâm thành
phố Thái Nguyên khoảng 4km về phía Tây.
Năm 2013, BVATN tỉnh Thái Nguyên là bệnh viện đa khoa hạng II có
quy mô 420 giường bệnh (tăng thêm 40 giường so với năm 2012), số giường
thực tế dao động khoảng 590- 650 giường, được tổ chức thành 27 khoa,
phòng (5 phòng chức năng, 22 khoa) với tổng số cán bộ là 394. Cán bộ có
trình độ đại học và sau đại học là 98, trong đó 48 cán bộ có trình độ sau đại
13
học, 50 cán bộ có trình độ đại học; còn lại 296 cán bộ có trình độ cao đẳng,
trung học và cán bộ khác.
Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên là bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, đây là
cơ sở y tế đầu ngành của tỉnh đang được định hướng phát triển chuyên sâu về
sản khoa. Bệnh viện có nhiệm vụ khám chữa bệnh cho nhân dân cho các xã,
các huyện phía Tây và phía Bắc của tỉnh. Do chú trọng công tác đào tạo nâng
cao trình độ chuyên môn và nghiên cứu khoa học cho đội ngũ nhân viên, đồng
thời phát triển mạnh công tác khám chữa bệnh nên trong những năm gần đây,
bệnh viện đã tiếp nhận được rất nhiều bệnh nhân của tất cả các huyện trong
tỉnh ngoài ra còn nhận được nhiều bệnh nhân của các tỉnh lân cận đến khám
chữa bệnh.
Đầu năm 2013, BVATN đã triển khai hệ thống phần mềm quản lý dược
bệnh viện trong thực hiện kê đơn thuốc cho bệnh nhân khám bệnh ngoại trú
và giao phát thuốc nội trú nhưng để hoàn thiện và chính thức đi vào sử dụng
tại bệnh viện từ tháng 10 năm 2013 đến nay. Khi chúng tôi tiến hành thu thập
số liệu về đơn thuốc ngoại trú của tháng 12 năm 2013, hệ thống phần mềm
quản lý dược bệnh viện còn đang trong giai đoạn thử nghiệm.
Năm 2013, bệnh viện thực hiện hơn 164 nghìn lượt khám bệnh và triển
khai 4.755 ca phẫu thuật, điều trị nội trú cho trên 25 nghìn bệnh nhân, đã triển
khai được 07 kỹ thuật lâm sàng và 15 kỹ thuật cận lâm sàng mới, trong đó có
12 kỹ thuật vượt tuyến. Bệnh viện đã phối hợp với bảo hiểm y tế triển khai
quy trình khám bệnh mới theo quyết định 1313/QĐ-BYT ngày 22/4/2013 của
Bộ Trưởng Bộ Y tế, lắp đặt hệ thống phát số tự động, đã giảm số lần xếp hàng,
giảm ùn tắc, giảm thời gian chờ đợi của bệnh nhân, tăng công suất khám chữa
bệnh, giảm tải nội trú. Hàng tháng, phòng khám ngoại trú khám và cấp phát
thuốc cho trên 2000 bệnh nhân tiểu đường, tăng huyết áp và gần 1000 người
bệnh HIV/AIDS; quản lý 260 trẻ nhiễm và phơi nhiễm HIV, cấp thuốc ARV cho
89 trẻ. Bệnh viện là cơ sở y tế khám sức khoẻ ngoại viện định kỳ cho cán bộ,
nhân viên, học sinh, sinh viên các cơ quan, đơn vị trong thành phố Thái Nguyên
14
như trường Đại học Nông Lâm, trường Đại học Công Nghiệp, trường Cao đẳng
Kinh Tế, Đơn vị Phú Sơn IV, công ty trách nhiệm hữu hạn Thái Hưng,…
Thông qua chương trình đề án 1816 của Bộ Y tế, BVATN đã được Viện
Bỏng Quốc gia chuyển giao 02 kỹ thuật cấp cứu và điều trị bỏng. Ngoài ra,
bệnh viện còn được sự hỗ trợ chuyên môn của bệnh viện Việt Đức, Bạch Mai,
Phụ Sản Trung ương, viện Dinh dưỡng Quốc gia, bệnh viện Hùng Vương
(thành phố Hồ Chí Minh), bệnh viện Đa khoa Trung Ương Thái Nguyên.
Năm 2013, BVATN đã được phê duyệt là bệnh viện vệ tinh của bệnh viện
Phụ Sản Trung ương. Đồng thời, bệnh viện thường xuyên hỗ trợ chuyên môn
cho tuyến xã và các bệnh viện huyện do Sở Y tế phân công.
Bệnh viện là cơ sở đào tạo thực hành cho sinh viên y và dược của trường
Cao đẳng y tế Thái Nguyên và trường Đại học Y Dược Thái Nguyên. Hàng
ngày có từ 700- 800 sinh viên thực tập tại bệnh viện.
Năm 2013 bệnh viện tiếp tục tham gia các dự án Quốc tế: dự án điều trị
các bệnh không lây nhiễm cho các xã của huyện Đồng Hỷ và dự án hợp tác
quốc tế quỹ toàn cầu.
Tóm lại, Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên có nhiệm vụ chăm sóc sức
khỏe cho nhân dân các huyện phía Bắc tỉnh Thái Nguyên. Bệnh viện đã và
đang nỗ lực nâng cao chất lượng khám chữa bệnh nhằm phục vụ tốt hơn nhu
cầu ngày càng cao về chăm sóc sức khỏe trong cộng đồng. Trong đó, việc sử
dụng thuốc đóng vai trò quan trọng tại bệnh viện. Tuy nhiên, hiện nay chưa
có nghiên cứu khoa học về hoạt động này. Vì vậy, chúng tôi tiến hành thực
hiện đề tài này với mong muốn có được những đánh giá về thực trạng sử dụng
thuốc, từ đó góp phần tăng cường/nâng cao công tác sử dụng thuốc tại Bệnh
viện A tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới.
15
1.3.2. Mô hình bệnh tật tại BVATN năm 2013
Trong năm 2013, BVATN có 25.691 bệnh nhân điều trị tại bệnh viện,
theo phân loại Quốc tế bệnh tật ICD-10, mô hình bệnh tật của bệnh viện có
trong 21 chương bệnh theo bảng sau:
Bảng 1.1. Cơ cấu bệnh tật tại BVATN năm 2013
TT
Mã
ICD
-
10
Tên chương bệnh Tần suất
Tỷ lệ
(%)
1 O00-O99 Thai nghén, sinh đẻ và hậu sản 4 303 16,7
2
J00
-
J99
B
ệ
nh h
ệ
hô h
ấ
p
3 827
14,9
3 K00-K93 Bệnh hệ tiêu hóa 2 941 11,4
4
I00
-
I99
B
ệ
nh h
ệ
tu
ầ
n hoàn
2 891
1
1,3
5 S00-T98
Chấn thương, ngộ độc và hậu qủa của một số
nguyên nhân bên ngoài
2 090 8,1
6
N00
-
N99
B
ệ
nh h
ệ
sinh d
ụ
c
–
ti
ế
t ni
ệ
u
1 981
7,7
7 A00-B99 Bệnh nhiễm khuẩn và ký sinh trùng 1 577 6,1
8
M00
-
M99
B
ệ
nh cơ xương kh
ớ
p và mô liên k
ế
t
1 271
4,9
9 C00-D48 Khối u 980 3,8
10
L00
-
L99
B
ệ
nh da và mô dư
ớ
i da
789
3,1
11 H00-H59 Các bệnh về mắt và phần phụ 753 2,9
12 P00-P96 Một số bệnh lý xuất phát trong thời kỳ chu sinh 610 2,4
13
E00
-
E90
B
ệ
nh n
ộ
i ti
ế
t, dinh dư
ỡ
ng và chuy
ể
n hóa
582
2,3
14 R00-R99
Những triệu chứng, biểu hiện LS và CLS bất
thư
ờ
ng, không phân lo
ạ
i
ở
nơi khác.
481 1,9
15 D50-D89
Bệnh của máu, cơ quan tạo máu, các rối loạn liên
quan đ
ế
n cơ ch
ế
mi
ễ
n d
ị
ch
226 0,9
16 H60-H95 Bệnh tai và xương chũm 167 0,7
17
G00
-
G99
B
ệ
nh h
ệ
th
ầ
n kinh
103
0,4
18 F00-F99 Rối loạn tâm thần và hành vi 37 0,1
19 Z00-Z99
Yếu tố ảnh hưởng tình trạng sức khoẻ và việc tiếp
xúc với cơ quan y tế
37 0,1
20 Q00-Q99
Dị tật bẩm sinh, biến dạng và bất thường về
nhiễm sắc thể
34 0,1
21 V01-Y98 Các nguyên nhân ngoại sinh của bệnh và tử vong 11 0,0
T
Ổ
NG S
Ố
25 691
100
Mô hình bệnh tật tại Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên khá đa dạng, gồm 21
chương bệnh. Có một số chương bệnh chiếm tỷ lệ mắc cao là chương thai nghén,
sinh sản và hậu sản (16,7%), bệnh hệ hô hấp (14,9%), bệnh hệ tiêu hóa (11,4%),
bệnh hệ tuần hoàn (11,3%), chương bệnh chấn thương, ngộ độc và hậu qủa của một
số nguyên nhân bên ngoài chiếm 8,1%.
16
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng
- Toàn bộ thuốc đã sử dụng trong điều trị nội và ngoại trú tại Bệnh viện A
tỉnh Thái Nguyên.
- Hồ sơ bệnh án tại khoa Nội Tổng hợp- Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên
- Đơn thuốc ngoại trú tại Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên.
2.1.2. Thời gian nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: từ tháng 8/2103 đến tháng 5/2014.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
+ Nghiên cứu hồi cứu đối với các dữ liệu thu thập được từ khoa Dược
và phòng Kế hoạch - Tổng hợp.
+ Nghiên cứu tiến cứu đơn thuốc ngoại trú thu thập tại khoa Khám bệnh
từ 01/12/20113 đến 31/12/2013.
2.2.2. Cỡ mẫu và cách lấy mẫu
Để các mẫu được đại diện cho mô hình bệnh tật cũng như tình hình sử
dụng tại BVATN, chúng tôi tiến hành lấy mẫu nghiên cứu như sau:
Đối với hồ sơ bệnh án
+ Lấy tất cả các bệnh án của các bệnh nhân được chẩn đoán xác định
viêm phế quản phổi không xác định (mã ICD- 10 là: J18) thông qua kết luận
chẩn đoán lúc ra viện được điều trị nội trú tại khoa Nội tổng hợp BVATN
trong 06 tháng cuối năm 2013 (từ 01/7/2013 đến 31/12/2013).
+ Kết quả, chúng tôi đã thu thập được 106 bệnh án thoả mãn điều kiện.
Đối với đơn thuốc ngoại trú
+ Theo dõi tiến cứu và thu thập các đơn thuốc theo ngày cấp phát thuốc
từ 01/12/2013 đến 31/12/2013, trong tập đơn thuốc ngoại trú của một ngày,
chúng tôi chọn đơn thuốc đầu tiên, các đơn thuốc tiếp theo có số thứ tự lần
lượt là 05, 10, 15, 20, cho đến khi hết ngày.