Tải bản đầy đủ (.doc) (141 trang)

Biện pháp nâng cao năng lực cho đội ngũ chuyên viên cơ quan Bộ Giáo dục nước CHDCND Lào giai đoạn 2011-2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (758.68 KB, 141 trang )

BỘ GIÁO DỤC NCHDCND LÀO
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu 2 năm vừa qua, đến nay đề
tài nghiên cứu đã được hoàn thành. Tôi là học viên Lào xin bày tỏ kinh trọng
biết ơn sâu sắc đến:
- Ban giám đốc, các thầy cô giáo và toàn bộ các khoa, quý Học viện,
các nhân viên phục vụ của Học viện Quản lý Giáo dục và học viên cao học
nước XHCN Việt Nam cùng học tập nghiên cứu, đã trực tiếp giảng dạy cung
cấp cho tác giả những kiến thức, văn hóa, kỹ năng và bổ ích nghiên cứu về
chuyên ngành quản lý giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi và tận tình giúp đỡ tôi
cũng như tất cả học viên Lào tại Học viện này.
- TS. Nguyễn Thành Vinh đã giành thời gian quý báu, tận tình hướng
dẫn giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
- Tất cả các Vụ trưởng, phó Vụ trưởng, Ủy ban thử ký,phó Ủy ban thử
ký,Giám đốc, phó Giám đốc Viện và các Trung tâm GD; Các Trưởng phòng,
Phó Trưởng phòng và tất cả ĐNCV các cơ quan trực thuộc Bộ Giáo dục nước
CHDCND Lào đã giành thời gian quý báu cung cấp ý kiến và các tài liệu cho
tôi.
Bản thân tôi đã có nhiều cố gắng tìm tòi học hỏi, vì vậy luận văn đã
thu được những kết quả nghiên cứu bước đầu. Tuy nhiên, do điều kiện về
ngôn ngữ tiếng Việt, thời gian và phạm vi nghiên cứu có hạn, cho nên không
thể tránh khỏi được những hạn chế thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự chỉ
dẫn đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà nội, ngày…………tháng…… năm 2011
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
IN THA VONG MA NI THONG
MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập khu vực và
quốc tế sự phát triển đội ngũ cán bộ là khâu then chốt. Như chúng ta đã biết


chất lượng của dội ngũ cán bộ liên quan trực tiếp dến vận mệnh của Đảng, đất
nước và chế độ đây là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc, công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém
“muốn có những cán bộ có chất lượng và hiệu quả thì chúng ta phải chăm lo
việc huấn luyện cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu cuả công việc, muốn phát triển
đất nước thì phải chăm lo phát triển con người, con người có vai trò quyết
định trong mọi lĩnh vực như kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục khoa học, an
ninh, quốc phòng,v,v… tất cả các lĩnh vực đó muốn phát triển thì phải từng
bước không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, các kỹ năng,
kiến thức liên quan đến công việc một cách có hệ thống, có mục tiêu, chương
trình, nội dung, cách thức và nguồn tài chính để đào tạo, bồi dưỡng cho đội
ngũ của mọi lĩnh vực. Đội ngũ chuyên viên là những người làm việc cụ thể
nhất và chiếm đa số nhất trong các cơ quan. Họ là một bộ phận rất quan trọng
bất ký một cơ quan, tổ chức nào cũng phải có đội ngũ này. Nó là một bộ phận
giúp cho cơ quan, đơn vị thực hiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức quản lý,
điều hành và bảo đảm sự hoạt động của cơ quan, đơn vị bộ phận đó là đội ngũ
chuyên viên.
Trong giai đoạn hiện nay, bất cứ quốc gia nào, cơ hội vươn lên và nguy
cơ tụt hậu đều phụ thuộc vào yêu tố con người, trước hết là con người phải có
năng lực trí tuệ, khả năng tư duy, phản đoán, có tầm nhìn sâu xa, có năng lực
quản lý, có khả năng lao động sáng tạo, điều hành của đội ngũ cán bộ trong
đó có đội ngũ chuyên viên cơ quan Bộ Giáo dục Lào. Nói cách khác là trực
thuộc vào những đội ngũ chuyên viên có khả năng tổng hợp, giúp tổ chức các
1
cơ quan quản lý, điều hành mọi công việc trong cơ quan, đơn vị, là những
người tiếp nhận thông tin, tổ chức quan hệ giao dịch với cấp trên, cấp dưới,
với các cơ quan, đơn vị khác, họ là những người hậu cần, quản trị phải bảo
đảm các diều kiện về các thiết bị, máy móc và vật chất, kỹ thuật, tác nghiệp
hành chính giáo dục hay không? Điều đó cũng muốn nói rằng vấn đề chất

lượng và hiệu quả công tác hành chính trong các cở quan Bộ Giáo dục Lào
hiện nay chính là một cơ quản đứng đầu của ngành giáo dục là cơ quan chịu
trách nghiệm trực tiếp về giáo dục trước mặt của chính phủ, mang tính chìa
khoá cho việc thực hiện thành công các mục tiêu phát triển giáo duc trong tầm
vĩ mô. Nếu không chăm lo phát triển đội ngũ cán bộ này sẽ ảnh hưởng rất lớn
đến phát triển giáo dục quốc dân trước mắt và lâu dài.
Bên cạnh những vấn đề khách quan do hoàn cảnh tình hình và nhiệm
vụ giáo dục đã đặt ra, tính cấp thiết của việc nghiên cứu để củng cố, tăng
cường biện pháp nâng cao năng lực cho đội ngũ chuyên viên ở BGD Lào hiện
nay còn được đặt ra chính từ những bất cập trong hàng ngũ cán bộ và trong
công tác phát triển những đối tượng đội ngũ này. Trong đó đối với việc phát
triển ĐNCV tại BGD Lào vẫn tồn tại tình trạng hẵng hút về số lượng; thiếu
chuẩn hoá về chất lượng trong các nội dung cơ bản đối với ĐNCV như công
tác thông tin; công tác tổng hợp; tổ chức công tác văn thư, lưu trữ; việc tổ
chức và thực hiện các nghiệp vụ hành chính; công tác hậu cần trong thực tế
còn tồn tại những vấn đề khó khăn, thách thức, ưu điểm và tồn tại. Đối với đội
ngũ cán bộ chuyên viên trong quá trình tham mưu, quá trình nghiên cứu các
chủ chương đường lối, vấn đề quản lý và điều hành, còn nhiều thiếu thốn về
nguồn tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật, những bất cập trong cơ chế tổ chức
quản lý và triển khai v.v…
Trong công tác tổ chức và cán bộ việc phát triển đội ngũ cán bộ là sự
tiếp tục của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới bằng những cải biến
cách mạng sâu rộng và toàn diện nhằm khơi dậy, tạo ra và phát huy mạnh mẽ
2
của ĐNDCM Lào trong thời kỳ đổi mới đất nước để nâng cao chất lượng và
phát triển đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu của phát triển mọi mặt để
thực hiện mục tiêu giáo dục đã đặt ra nhằm triển khai các chủ chương đường
lối của Đảng, pháp luật của nhà nước Thủ tướng chính phủ nước CHDCND
Lào đã phê diệt nghị định số 62/CP ngày 7 tháng 4 năm 2008 về tỏ chức và
các hoạt động của Bộ Giáo dục Lào cho rằng “Bộ Giáo dục là một cơ quan

hành chính nhà nước cấp trung ương trong cơ cấu tỏ chức của chính phủ,
có vai trò hoạt động, quản lý vĩ mô về giáo dục trong phạm vi toàn quốc,
nhằm giáo dục thế hệ trẻ của Lào phát triển toàn diện trở thành công dân
tốt, có đạo đức cách mạng, có sức khoẻ, có năng lực trí tuệ về lao động,
chuyên môn, nghề nghiệp và có khả năng sáng tạo để đáp ứng nhu cầu
mới của công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn công nghiệp
hoá, hiện đại hoá của nước CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay”.
Như vậy, từ tất cả những điều đã nêu trên đều cho thấy rằng: nâng cao
năng lực cho đội ngũ chuyên viên là một nội dung chủ yếu trong các cơ quan,
nghiên cứu về tổ chức, hoạt động của bộ phận này, tức là nghiên cứu những
công việc chính của các cơ quan theo chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu, bộ máy tổ
chức nếu không nghiên cứu tổ chức, phân công những công việc và giao
nhiệm vụ cho mỗi nhân viên để tổ chức thực hiện và triển khai các chủ
chương, đường lối của Đảng, các chính sách và pháp luật của nhà nước . Vì
vậy, xây dựng bộ máy nhà nước chính quy, hiện đại cần phải nâng cao năng
lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ chuyên viên của cơ quan của mình.
Trước những đòi hỏi mới của tình hình để tạo ra một đội ngũ cán bộ có năng
lực, phầm chất, có khả năng đáp ứng những đòi hỏi đó, đồng thời, khắc phục
những tồn tại và tăng cường chất lượng, hiệu quả phát triển đội ngũ chuyên
viên, cần phải tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc, cơ bản và có hệ
thống đối với công tác này trong điều kiện và hoàn cảnh mới, trên cơ sở đó
tìm ra những nội dung và biện pháp tối ưu. Đó là những lý do khách quan cho
3
sự lựa chọn đề tài “Biện pháp nâng cao năng lực cho đội ngũ chuyên viên
cơ quan Bộ Giáo dục nước CHDCND Lào giai đoạn 2011-2015”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất biện pháp nâng cao năng lực cho đội ngũ chuyên viên cơ quan
Bộ Giáo dục nước CHDCND Lào nhằm góp phần nâng cao chất lượng về
chuyên môn, nghiệp vụ ở Bộ Giáo dục Lào trong giai đoạn tới.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1 Khách thể nghiên cứu: Công tác tổ chức thực hiện chuyên môn, nghiệp
vụ của đội ngũ chuyên viên ở cơ quan Bộ Giáo dục nước CHDCND Lào.
3.2 Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp nâng cao năng lực của đội ngũ chuyên viên của cơ quan
Bộ và nội dung chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ chuyên viên về
mặt chuyên môn, nghiệp vụ ở cơ quan Bộ Giáo dục nước CHDCND Lào.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất các biện pháp nâng cao năng lực cho đội ngũ chuyên viên
về lý thuyết và thực hành công việc đã được giao, bám sát chức năng nhiệm
vụ giáo dục thì sẽ nâng cao năng lực cho đội ngũ chuyên viên, từ đó góp phần
cải thiện chất lượng, hiệu quả của công việc cụ thể của các cơ quan Bộ Giáo
dục nước CHDCND Lào.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Xác định cơ sở lý luận, cho việc đề xuất biện pháp nâng cao năng lực
cho đội ngũ chuyên viên các cơ quan Bộ Giáo dục Lào.
5.2 Khảo sát thực trạng, xác định những thuận lợi, khó khăn, những mặt tích
cực, hạn chế, những kinh nghiệm rút ra từ thực tế về việc nâng cao năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ chuyên viên cơ quan Bộ Giáo dục Lào.
5.3 Đề xuất biện pháp giúp các cơ quan Bộ, nâng cao năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ cho đội ngũ chuyên viên cho các cơ quan Bộ Giáo dục Lào.
4
5.4 Khảo nghiệm, nhằm đánh giá tính cần thiết và khả thi của các biện pháp
đề xuất.
6. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi khảo sát tư liệu của luận văn chủ yếu được giới hạn trong
giai đoạn 2005-2010 đề ra một số giải pháp phát triển ĐNCV của BGD Lào
trong giai đoạn 2011- 2015.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa các khái niệm và các vấn đề

lý luận liên quan đến đề tài.
7.2 Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát
Phương pháp điều tra
Phương pháp tổng kết thực tiễn
7.3 Nhóm các phương pháp bổ trợ
Phương pháp chuyên gia
Phương pháp sử dụng thống kê, logic và lịch sử.
8. Cấu trúc của luận văn
Bao gồm phần mở đầu, 3 chương, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo
và phụ lục.
5
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC
1.1 Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Các nước trên thế giới
Để thi hành công vụ, bất cứ một quốc gia nào trên thế giới cũng đều
xây dựng cho nước mình một đội ngũ cán bộ công chức và không ngừng
chăm lo bồi dưỡng để nâng cao năng lực của đội ngũ trong cơ quan, tổ chức
nhằm thực hiện công việc một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất đó là biểu hiện
rõ ràng đến năng lực của đội ngũ cán bộ. Tùy theo những đặc điểm kinh tế –
xã hội, hình thức tổ chức bộ máy nhà nước và truyền thống dân tộc mà mỗi
nước trên thế giới quan niệm và xác định phạm vi đội ngũ cán bộ công chức
cũng khác nhau.
Ở Việt Nam, từ sau cách mạng tháng tám năm 1945, đã có văn bản
pháp luật đầu tiên về nhân sự là xác lệnh số 76 /SL ngày 20 tháng 5 năm 1950
do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành “Một quy chế công chức định rõ nghĩa
vụ, quyền lợi của công chức cùng các thể lệ về việc tổ chức, quản trị và sử

dụng các ngạch công chức trong toàn quốc”. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến
tranh liên tiếp, quy chế này chưa được thực hiện đầy đủ trên thực tế.
Trong cơ chế hành chính bao cấp trước đây, tất cả những người được
tuyển dụng biên chế làm việc trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, làm việc ở các công nông, làm trường, xí nghiệp…
đều được gọi chung là cán bộ, công nhân viên nhà nước. Đội ngũ này được
hình thành từ rất nhiều nguồn như bầu cử, được phân công sau khi tốt nghiệp
ở các trường đào tạo, tuyển dụng, đề bạt… Đội ngũ này luôn biến động do
điều động, thuyên chuyển từ nơi này sang nơi khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh
6
vực khác, mang tính đối phó, chấp vá không có kế hoạch. Việc tuyển dụng, bố
trí, đề bạt cán bộ công chức không tuân theo những tiêu chí rõ ràng. Nhiều
cán bộ công chức đang làm việc trong các cơ quan nhà nước không có cơ sở
kiến thức hoặc chưa được đào tạo chính thức về các vị trí và trách nhiệm mà
mình đảm nhận. Đồng thời chưa hình thành được đội ngũ chuyên gia có trình
độ chuyên môn sâu ở từng ngành, từng lĩnh vực quản lý vĩ mô là những yếu
tố gây ra, sự trì trệ, kém hiệu quả trong việc quản lý và thực hiện của các cơ
quan nhà nước đối với các hoạt động kinh tế – xã hội.
Bước vào thời kỳ đổi mới, trong công tác cán bộ, Đảng và Nhà nước
Việt Nam đã nhận thức rõ:”Những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo kinh
tế, xã hội nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và
công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân”
Những bước đàu tiên để cải tiến hệ thống quản lý nhân sự bắt đầu được thực
hiện.
Ngày 25 tháng 5 năm 1991, Hội động Bộ trưởng đã ban hành Nghị
định số 169/ HĐBT về công chức Nhà nước làm cơ sở ban đầu cho việc tuyển
chọn đúng, sử dụng có hiệu quả các công chức làm việc trong các cơ quan
hành chính, sự nghiệp của nhà nước. Đại hội Đảng lần thứ VII tiếp tục nhận
mạnh yêu cầu “Đổi mới căn bản công tác cán bộ phù hợp với cơ chế mới.
Phán định rõ cán bộ dân cử hoạt động theo nhiệm kỳ và các loại công chức,

viên chức chuyên nghiệp”. “Xây dựng quy chế, công chức, viên chức trong
từng lĩnh vực quản lý nhà nước, hoạt động sự nghiệp, sản xuất kinh doanh
nhằm hình thành đội ngũ thạo nghề nghiệp, nắm vững pháp luật”
Thực hiện theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII, Pháp lệnh cán bộ
công chức được xây dựng. Tới giữa năm 1993, dự thảo đầu tiên của pháp lệnh
của cán bộ công chức được đưa ra, Song do đặc thù của hệ thống chính trị
Việt Nam, tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị – xã hội cùng thực hiện
công vụ, thực tế lịch sử hình thành đội ngũ cán bộ, công chức trong cơ chế
7
hành chính bao cấp và cần thiết có thời gian thực tế kiểm nghiệm quá trình
đổi mới cơ chế quản lý ở Việt Nam.Trải qua hơn 5 năm soạn thảo hơn 40 bản
thảo khác nhâu. Pháp lệnh cán bộ công chức mới được ban hành ngày 9 tháng
3 năm 1998; đến ngày 17 tháng 11 năm 1998 Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 95/1998/ NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, đến
ngày 28 tháng 4 năm 2000 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua pháp
lệnh cán bộ công chức ban sữa đổi và bổ sung lần thứ nhất và có hiệu lực
công bố từ ngày 12 tháng 5 năm 2000; từ đó Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
tiếp tục thông qua ban sửa đổi và bổ sung pháp lệnh cán bộ công chức lần thứ
hai ngày 29 tháng 4 năm 2003 và có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2003.
Tóm lại, pháp lệnh của cán bộ công chức được ban hành được thể hiện
đầy đủ các chủ trương, chính sách cán bộ trong thời kỳ đổi mới, là một văn
bản pháp quy quan trọng trong việc xây dựng một đội ngũ cán bộ công chức
nhà nước có phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực đáp ứng yêu cầu của công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.1.2 Ở nước CHDCND Lào
Ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, theo từ điển tiếng Lào xuất bản
năm 1986, cán bộ cũng đồng nghĩa với công chức, Nhà chức trách [31,
tr.356]. Còn quan niệm về công chức thì được thể hiện rõ trong đối tượng của
Nghị định 171 (1993), [14, tr.1]. Này là Nghị định số 82 (2003) của Thủ
tướng Chính phủ về quy chế công chức nước CHDCND Lào . “Theo đó, là

cả những người làm việc trong biên chế của các tổ chức Nhà nước, Đảng,
quần chúng đều được gọi là công chức” [ 15,tr 01].
Từ những điều nói trên cho phép chúng ta khẳng định rằng: cán bộ là
một phạm trù dùng để chỉ tất cả những người công tác ở các cơ quan tổ chức
của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, lực lượng vũ trang, nằm trong biên chế, cả
những người giữ chức vụ lẫn những người làm công tác chuyên môn, nghiệp
vụ không giữ chức vụ.
8
Vì vậy, đội ngũ chuyên viên cơ quan Bộ Giáo dục Lào bao gồm những ai?
Như chúng ta đã biết rằng trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị
của các nước xã hội chủ nghĩa, kể cả nước trong hệ thống chính trị Dân chủ
Nhân dân ở Lào hiện nay được phân thành đội ngũ cán bộ nhiều cấp và nhiều
bộ phận khác nhau. Nếu như ở mỗi cấp mỗi bộ phận trong các hệ thống tổ
chức trong cơ quan đều có bộ phận này chiếm đa số nhất họ là những người
không có chức vụ trong các tập thể ấy được gọi là đội ngũ chuyên viên.
Việc xác định đội ngũ chuyên viên: phải gắn với một hệ thống tổ chức
nhất định mà còn phải căn cứ vào chức danh và nằm trong vị trí, đội ngũ cán
bộ loại nào? Vị dụ: đội ngũ cán bộ, công chức lãnh đạo, đội ngũ cán bộ, công
chức quản lý và đội ngũ chuyên viên và loại đội ngũ công chức phục vụ cụ
thể của từng người. Về nguyên tắc cán bộ, công chức chuyên môn “Không có
thầm quyền ra các mệnh lệnh hành chính, các quyết định quản lý” Trong một
số trường hợp cụ thể, họ có thể ra những quyết định chuyên môn có giá trị
pháp lý.
Khi nói đến đội ngũ chuyên viên cơ quan Bộ người ta không còn coi họ
là những người thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đơn thuần mà họ là những
người triển khai và đưa các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước xuống các cơ sở và địa phương. Đồng thời, ho cũng
là người đưa những ý kiện cũng như tâm tư nguyện vọng từ cơ sở lên đề nghị
cấp trên để tìm cách giải quyết mọi việc giúp ban lãnh đạo và các vụ trưởng
trong cơ quan, đơn vị mình.

Thực ra giữa quá trình thực hiện và triển khai còn trợ thủ giúp vụ
trưởng quản lý (chủ thể) điều hành mọi công việc trong cơ quan, tiếp nhận
thông tin, tổ chức quan hệ giao dịch với cấp trên, cấp dưới với các cơ quan,
đơn vị khác ho là những người thực hiện công việc cụ thể, là những người bị
quản lý (khách thể) nhằm “thức tỉnh hành vi” và “định hướng” theo sự lãnh
đạo và chỉ huy của các cấp quản lý phù hợp với yêu cầu đặt ra, tức là chức
9
năng, nhiệm vụ được giao, họ sẽ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu để đạt được
các mục tiêu chung của tổ chức.
Nhưng trong hoạt động thực tế, quá trình thực hiện và triển khai dưới
sự lãnh đạo và quản lý thường xuyên vào nhau, không thể tách rời, trong đó
quá trinh thực hiện và triển khai về việc thi hành nhiệm vụ phải chịu trác
nhiệm, có tính hợp pháp của mỗi hành động và sự độc lập của cá nhân về
công việc của họ được đảm nhiệm. Điều đó vừa đòi hỏi cán bộ, công chức
phải nắm vững pháp luật, vừa đề cao vai trò, trách nhiệm của người lãnh đạo
và quản lý của cơ quan mình.
Đối tượng cụ thể trong đội ngũ chuyên viên cơ quan Bộ Giáo dục Lào
là những người không có chức danh trong các cơ quan, đơn vị trực thuộc các
phòng của các vụ nằm trong danh sách theo quyết định của Bộ Trưởng Bổ
Giáo dục về tổ chức và hoạt động của các vụ, văn phòng, Viện và Trung Tâm,
các phòng hoặc tương đương của các cơ quan đơn vị trực thuộc Bộ, trong
sách giáo khoa số VIII của Vụ Tổ chức và Cán bộ, Bộ Giáo dục Lào năm
2010 đã ban hành những quyết định đã xác định rõ về công vụ cơ cấu và bộ
máy tổ chức nó bao gồm Vụ trưởng, phó vụ trưởng hoặc tương đương công
vụ; trưởng phòng, phó phòng hoặc tương đương và xác định rõ những công vụ
của đội ngũ chuyên viên của các cơ quan, đơn vị của Bộ Giáo dục Lào.
1.2 Một số khái niệm và thuật ngữ cơ bản
1.2.1 Năng lực
Để hiểu về năng lực thực hiện chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ
chuyên viên, ta phải xác định quan niệm về năng lực.

Năng lực là một khái niệm cơ bản của tâm lý học. Nó có ý nghĩa to lớn
về mặt lý luận và thực tiễn. Năng lực của đội ngũ cán bộ là nguồn lực vô giá
trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay của nước CHDCND
Lào. đối với lĩnh vực giáo dục coi là chìa khóa của sự phát triển như giáo dục
thì năng lực của đội ngũ chuyên viên các cơ quan Bộ đặc biệt quan trọng.
10
Hiện nay có nhiều cách hiểu về “ Năng lực” có thể có một số cách hiểu
sau:
“Năng lực là một tập hợp hoặc tổng hợp những thuộc tính cá nhân của
con người đáp ứng những yêu cầu của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động
đạt được kết quả cao” [ 1, tr.11].
“Năng lực là những đặc điểm tâm lý của nhân cách là điều kiện chủ
quan để thực hiện có kết quả một dạng hoạt động nhất định. Năng lực có quan
hệ với kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo. Năng lực thể hiện ở tốc độ, chiều sâu, tính
bền vững và phạm vi ảnh hưởng của kết quả hoạt động, ở tính sáng tạo, tính
độc đáo của phương pháp hoạt động” [28, tr.11].
“Năng lực là những thuộc tính tâm lý của cá nhân giúp con người lĩnh
hội một lĩnh vực kiến thức hoặc hoạt động nào đấy được dễ dàng và nếu họ
tiến hành hoạt động trong lĩnh vực đó thì sẽ có kết quả cao” [4, tr.11].
Qua các quan niệm đã nêu trên ta thấy nổi lên mấy điểm sau về năng lực:
Thứ nhất: Năng lực liên quan đến yếu tố di truyền, bộc lộ và phát triển
thông qua hoạt động. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong giáo dục khi định
hướng phát triển nhân cách cũng như việc tạo ra môi trường hoạt động thuận
lợi làm nảy nở, phát triển năng lực ở cá nhân.
Thứ hai: Kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo là những thành phần cơ bản giúp
tạo nên năng lực. Đây chính là cơ sở khoa học cho phép xây dựng những
chương trình nâng cao năng lực nói chung và đội ngũ chuyên viên trong cơ
quan Bộ Giáo dục Lào nói riêng.
Thứ ba: Năng lực của con người là những thuộc tính tâm lý. Nó đảm
bảo cho họ đạt được kết quả cao đối với từng dạng hoạt động nhất định. Điều

này có liên quan đến công tác cán bộ, việc quản lý cán bộ và trong biên chế
cán bộ phải sử dụng đúng người, đúng việc mới cho việc thực hiện có hiệu
quả cao. Đồng thời, phải thường xuyên chăm lo việc bồi dưỡng nâng cao
năng lực để đội ngũ chuyên viên ngày càng đáp ứng tốt hơn.
11
Những điều phân tích trên đây làm sáng tỏ đến việc nâng cao năng lực
cho ĐNCV có quan hệ mật thiết đến việc bồi dưỡng hệ thống kiến thức, kỹ
năng thực hiện và tạo điều kiện thuận lợi cho ĐNCV toàn tâm toàn ý cho hoạt
động của mình.
1.2.1.1 Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ
Đi đối với việc làm rõ về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cần xác định
được năng lực của từng đối tượng đã có những nhu cầu đào tạo bồi dưỡng để
nâng cao năng lực ấy cho đội ngũ cán bộ mọi mặt như nhu cầu đào tạo bồi
dưỡng về văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, hành chính Nhà
nước, ngoại ngữ và tin học. Muốn xác định những nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng
nhằm nâng cao năng lực các lĩnh vực đã nêu trên nó đòi hỏi những căn cứ sau đây:
a). Căn cứ vào yêu cầu trình độ quy định trong tiêu chuẩn chất lượng
theo từng ngạch. Do lịch sử đề lại, hiện nay trong sắp xếp cán bộ, công chức,
vào các chức danh, ngạch bậc công chức hoặc bổ nhiệm các chức vụ quản lý
lãnh đạo không ít cán bộ, công chức nợ các yêu cầu tiêu chuẩn về trình độ. Do
đó việc trả nợ các tiêu chuẩn về trình độ đó trở thành một nhu cầu đào tạo bồi
dưỡng nâng cao năng lực cấp bách cho đội ngũ cán bộ nước ta nói chung và
đội ngũ chuyên viên nói riêng.
Để chuẩn bị nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ chuyên viên cơ quan
Bộ Giáo dục Lào cần nắm được: Trong các tiêu chuẩn về trình độ từ văn hóa,
chuyên môn, nghiệp vụ đến tin học, ngoại ngữ… có bao nhiêu người thiếu
phải trả nở ấy cần được phân tích cụ thể về tuổi đời, về số lượng nợ các tiêu
chuẩn, xác dịnh khả năng có thể trả được nợ hay không? Từ đó, đưa vào quy
hoạch, kế hoạch đào tạo. Trong thực tế có không ít cán bộ, công chức không
có khả năng trả nợ một số tiêu chuẩn, nhất là tiêu chuẩn về ngoại ngữ.

b). Căn cứ vào yêu cầu phát triển của nhiệm vụ chuyên môn của ngành,
cơ quan, đơn vị để xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực
cho đội ngũ cán bộ. Để xác định được cần có những dự báo về sự phát triển
12
của đội ngũ, cán bộ, công chức do sự phát triển của nhiệm vụ nảy sinh những
yêu cầu về trình độ.
c). Ngoài ra còn căn cứ vào nguyện vọng được đào tạo, bồi dưỡng của
cán bộ, công chức. Dĩ nhiên, đó là những nguyện vọng hợp lý, học tập để
nâng cao trình độ phục vụ tốt cho công tác chuyên môn, tạo khả năng hoạt
động hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn.
Phải nắm được thực trạng công tác quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cho cán bộ, công chức để nâng cao năng lực của ngành, cơ quan, đơn
vị trên các khía cạnh cụ thể của Bộ Giáo dục Lào thì nghiên cứu những vấn đề
sâu đây:
- Ngành, cơ quan, đơn vị đã có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng để nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ của mình chưa?
- Nếu đã có thì hình thức như thế nào?
- Cán bộ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng có đúng không?
- Hình thức, nội dung đào tạo, bồi dưỡng có phù hợp không?
- Việc thực hiện chính sách đối với người đi học như thế nào, v,v…
Tiếp theo, để xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ, công chức cần xác định năng lực của các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng
(các học viện, các trường , các trung tâm…trong và ngoài nước).
Năng lực của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cần được xác
định một cách toàn diện từ chương trình, giáo trình, giáo viên, cơ sở vật chất,
trang thiết bị dạy học và khả năng tổ chức các loại hình đào tạo…
Năng lực của các cơ sở đào tạo đã thể hiện trong thực tế thông qua kết
quả đào tạo, bồi dưỡng cả về số lượng, chất lượng hàng năm và khả năng đáp
ứng trong những năm tới.

Căn cứ vào khả năng kinh phí dành cho đào tạo, bồi dưỡng cho ĐNCV.
Những căn cứ trên đây là cơ sở để nâng cao năng lực cho đội ngũ cán
bộ mang tính khoa học và thực thi. Các căn cứ nêu trên đây quan hệ chặt chẽ
với nhau, tạo ra sự hoàn chỉnh về việc nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ.
13
1.2.1.2 Đội ngũ
Từ điển Webster viết: “Đội ngũ là một nhóm người công nhân hoặc
người làm công cụ thể, có cùng mục đích, làm việc theo kế hoạch gắn bó với
nhau về quyền lợi”.
Theo từ điển tiếng Việt - Nhà xuất bản Đà Nẵng - năm 1997 “Đội ngũ
là tập hợp gồm một số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp, hợp
thành lực lượng hoạt động trong một hệ thống ( tổ chức ) nhất định”
Vì vậy, qua các khái niệm nêu trên ta có thể hiểu rằng: “Đội ngũ là một
tập hợp gồm nhóm người gắn bó với nhau, cùng chung một chức năng, nhiệm
vụ hoặc nghề nghiệp, hợp thành lực lượng hoạt động trong một tổ chức theo
sự phân công hay theo một kế hoạch cụ thể”.
Vị dụ: Đội ngũ cán bộ của cơ quan Bộ Giáo dục bao gồm: Bộ trưởng và
Thứ trưởng; Vụ trưởng, phó vụ trưởng hoặc tương đương công vụ; Trưởng
phòng và phó phòng; đội ngũ cán bộ chuyên viên và đội ngũ cán bộ phục vụ
các hoạt động được biên chế vào trong các công vụ cụ thể của các cơ quan
đơn vị của Bộ.
Đội ngũ của cơ quan Bộ Giáo dục Lào cũng là đội ngũ công chức hành
chính, đặc biệt là công chức cao cấp, những người gắn bó với chính trị, với
chính phủ, nhà nước và nền hành chính nhà nước. Họ không phải là người
trung lập. Họ tham dự vào quá trình xác lập đường lối, chính sách và có thể
xem họ là chiếc cầu nối giữa quyền lực chính trị với nền hành chính quốc gia
về giáo dục.
1.2.1.3 Đội ngũ chuyên viên
Để hiểu rõ đội ngũ chuyên viên cơ quan Bộ Giáo dục Lào, hiện nay
trước hết cần phải tìm hiểu bản thân khái niệm đội ngũ cán bộ, vì đây là cơ sở

xuất phát đầu tiên. Đội ngũ cán bộ hoặc cán bộ được dùng rộng rãi trong hoạt
động tổ chức của các cơ quan nhà nước, của các Đảng cộng sản cũng như
14
trong các mỗi quan hệ xã hội hàng ngày ở các nước xã hội chủ nghĩa, kể cả ở
nước CHDCND Lào hiện nay.
Theo từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1999, cán bộ có hai nghĩa:
“Là người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong các cơ quan
Nhà nước”.
“Là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức,
phân biệt với người bình thường không có chức vụ” [31, tr.15 ].
Trong hàm nghĩa thứ nhất, cán bộ được xem như là người làm hành
chính công trong các cơ quan Nhà nước, bao gồm cả những người có chức vụ
hành chính cao nhất đến những người không có chức vụ hành chính nào, tất
cả đều nằm trong bộ máy, có nghĩa vụ, trách nhiệm trong bộ máy Nhà nước
và được hướng lương từ ngân sách Nhà nước theo ngạch lương nhất định do
Nhà nước quy định. Trong trường hợp này cán bộ gần như được đồng nhất
với công chức, tương xứng với cách hiểu truyền thống ở nhiều quốc gia.
Theo nghĩa thứ hai, cán bộ được coi như là người có chức vụ và trách
nhiệm cao hơn người khác trong bộ máy tổ chức. Nếu phân biệt đội ngũ
chuyên viên với người có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, họ là
người bình thường không có chức vụ hành chính. Điều này phản ánh nghĩa
gốc của từ cán bộ công chức chuyên môn hoặc đội ngũ chuyên viên, bởi vì
chính những người không có chức vụ hành chính không phải là cán bộ không
có chức doanh hoặc không phải cán bộ quản lý. Theo pháp lệnh của cán bộ,
công chức Nhà nước đã định nghĩa sau đây:
a). Cán bộ, công chức chuyên môn là những người hoạt động trên
những lĩnh vực chuyên môn nhất định. Tùy theo trình độ cao thấp mà cán bộ,
công chức chuyên môn có thể là những người nghiên cứu, thừa hành những
nhiệm vụ.
15

b). Về nguyên tắc, đội ngũ chuyên viên không có thẩm quyền ra các
mệnh lệnh hành chính, các quyết định quản lý. Trong một số trường hợp cụ
thể, họ có thể ra những quyết định chuyên môn có giá trị pháp lý.
1.3 Chức năng, nhiệm vụ của văn phòng Bộ giáo dục Lào
1.3.1 Chức năng của văn phòng cơ quan Bộ Giáo dục Lào
Thuật ngữ “Văn phòng” được hiểu theo nhiều nghĩa trong khái niệm
bao gồm sau đây:
Thứ nhất, văn phòng là bộ phận tổng hơp giúp Bộ trưởng, ban lãnh
đạo thực hiện chức năng, nhiệm vụ và điều hành công việc của cơ quan, tổ
chức trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ hành chính về giáo dục trong cơ quan,
đơn vị.
Thứ hai, văn phòng được hiểu là chủ sở làm việc nơi giao tiếp của cơ
quan, đơn vị, của một cá nhân có chức danh nhất định.
Thư ba, văn phòng còn là khái niệm dùng để chỉ một loại hoạt động
trong cơ quan, tổ chức.
Khái niệm văn phòng được đề cập ở đây được hiểu theo nghĩa thứ nhất,
tức là hiểu theo những chức năng và nhiệm vụ của nó bất cứ cơ quan, đơn vị
nào được thể hiện hai chức năng cơ bản như sau:
Một là, chức năng tham mưu, tổng hợp, giúp Bộ trưởng, ban lãnh đạo
quản lý, điều hành, tổng hợp công viêc của các cơ quan, tổ chức.
Hai là, chức năng hậu cần, quản trị: phải bảo đảm các điều kiện về vật
chất, kỹ thuật, tác nghiệp hành chính.
Hai chức năng này tuy khác nhau về nội dung và tính chất của công
việc cụ thể nhưng vì chúng cùng bảo đảm hoạt động chung trong các cơ quan,
tổ chức nên không được xem nhẹ chức năng nào có sự quan hệ mật thiết lẫn
nhau.
1.3.2 Nhiệm vụ văn phòng cơ quan Bộ Giáo dục Lào
16
Muốn thực hiện hai chức năng cơ bản đã nêu trên, văn phòng có các
nhiệm vụ cụ thể nhằm thực hiện các tiêu chí hoạt động trong các cơ quan Bộ

sau đây:
+ Xây dựng chương trình, kế hoạch công tác hàng năm, hàng quý, hàng
tháng và lịch làm việc hàng tuần của cơ quan, đơn vị. Đội ngũ chuyên viên
các cơ quan phải giúp vụ trưởng, ban lãnh đạo tổ chức, chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ đã được giao, thường xuyên theo dõi và đôn đốc thực hiện chương
trình, kế hoạch và lịch làm việc của các cơ quan tổ chức.
+ Thu thập những thông tin, tổng hợp và xử lý thông tin, giúp vụ
trưởng, ban lãnh đạo chuẩn bị các đề án, phương án, ra quyết định quản lý,
theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các quyết định quản lý đã ban hành.
+ Quản lý các văn bản, lập hồ sơ và thực hiện công tác lưu trữ.
+ Xây dựng tổ chức, bộ máy và công tác đội ngũ cán bộ từng các cơ
quan, đơn vị của Bộ.
+ Thực hiện các hoạt động tác nghiệp hành chính, nghiệp vụ hành chính.
+ Tổ chức giao tiếp đối nội, đối ngoại của cơ quan; thực hiện mỗi liên
hệ với các cơ quan cấp trên, cấp dưới, với các cơ quan, tổ chức khác, với công
dân. Thực hiện nhiệm vụ này, các văn phòng là bộ mặt của cơ quan, đơn vi
của Bộ Giáo dục.
+ Bảo đảm những nhu cầu hậu cần, các nguồn kinh phí chỉ tiêu, duy trì
mọi hoạt động của cơ quan, đơn vị.
1.4 Vị trí, vai trò của đội ngũ chuyên viên trong văn phòng BGD Lào
a).Vị trí của đội ngũ chuyên viên
Việc chia cán bộ, công chức ra những loại khác nhau có ý nghĩa rất
quan trọng trong quy hoạch, sắp xếp đào tạo và bồi dưỡng cán bộ công chức
nhằm nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ để đáp ứng yêu cầu của bộ máy nhà
nước, tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị – xã hội phù hợp với yêu cầu
17
quản lý, người ta có nhiều cách phân loại cán bộ, công chức gồm ba cách
phân loại chính sau đây:
+ Phân loại cán bộ, công chức theo vị trí: Dựa vào tính chất của các
vụ,văn phòng, … theo vị trí và thẩm quyền.

+ Phân loại theo các tổ chức trong hệ thống trính trị; Cán bộ, công chức
làm việc ở các tổ chức khác nhau như công chức làm việc ở các cơ quan hành
chính, chính trị – xã hội… Công chức còn được phân chia theo ngành nghề
chuyên môn. Do đó để có cơ sở khoa học cho việc quản lý, sắp xếp, sử dụng,
đề bạt, khen thưởng… cần phân chia cán bộ, công chức theo những ngành, tổ
chức riêng biệt. Trong hệ thống công chức ở cơ quan Bộ Giáo dục Lào có
nhiều loại cán bộ, công chức chuyên môn và từng loại còn chia ra những
ngạch cao thấp khác nhau.
+ Phân loại theo trình độ: Căn cứ để phân loại theo trình độ là quá trình
đào tạo về chuyên môn, đạo đức, phẩm chất và có tính đến thâm niên công tác.
Theo pháp lệnh cán bộ, công chức nước CHDCND Lào đã ban hành
phân chia chính theo V cấp từ cấp I đến cấp V và có 15 bậc có giá trị chỉ số
khác nhau theo sự phát triển của kinh tế của từng giai đoạn.
b).Vai trò của ĐNCV
Vai trò của đội ngũ cán bộ xuất phát từ yêu cầu là công bộc của nhân
dân khi thi hành công vụ cán bộ, công chức Nhà nước, cho nên những quy
định về nghĩa vụ hoặc vai trò phải rất chặt chẽ để đảm bảo cho người công
chức thực hiện nghiêm chỉnh sứ mạng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao
phó.
Trong pháp lệnh của cán bộ, công chức của nước CHDCND Lào quy
định về vai trò nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong phần 4 (Điều 10 đến
Điều 21) cũng có nét tương đương giống như pháp lệnh cán bộ, công chức
của Việt Nam đã quy định (Điều 6, 7 và Điều 8) về nghĩa vụ cán bộ, công
chức:
18
a).Trung thành với Nhà nước XHCN Việt Nam, bảo vệ an toàn, danh
dự và lợi ích quốc gia.
b). Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước; thi hành nhiệm vụ, công vụ theo đúng quy định
của pháp luật.

c). Tận tuy phục vụ nhân dân, tôn trọng nhân dân.
d). Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tham gia sinh hoạt với cộng đồng
dân cư nơi cư trú, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân.
e). Có nếp sống lành mạnh, trung thực, cần, kiệm, liêm chính, trí công
vô tư; không được quan lieu, hách địch, cửa quyền, tham nhũng.
f). Có ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm trong công tác; thực hiện
nghiêm chỉnh nội quy của cơ quan, tổ chức, giữ gìn và bảo vệ của công, bảo
vệ bí mật Nhà nước theo quy định của pháp luật.
g). Thường xuyên học tập nâng cao trình độ, chủ động, sáng tạo, phối
hợp trong công tác nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
h). Chấp hành sự điều động, phân công công tác của cơ quan, tổ chức
có chính quyền.
1.4.1 Những căn cứ xác định vị trí, vai trò của đội ngũ chuyên viên
- Căn cứ vào quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
nước CHDCND Lào về công tác cán bộ nói chung và công tác nâng cao năng
lực cho đội ngũ chuyên viên ở cơ quan Bộ Giáo dục Lào nói riêng
Căn cứ pháp luật của Bộ Giáo dục Lào, pháp lệnh của cán bộ, công
chức của nước CHDCND Lào.
Căn cứ vào chủ trương chiến lược phát triển của ngành, địa phương
hoặc cơ quan, đơn vị đó là một yếu tố ảnh hưởng lớn về biện pháp nâng cao
năng lực cho đội ngũ cán bộ nhất là xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ công chức. Nó quy định sự phát triển của cán bộ công chức
về quy mô số lượng, chất lượng, cơ cấu, trình độ trong tương lai. Nó đặt ra
19
những yêu cầu cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Bạn thân
cán bộ làm công tác này đòi hỏi sự nhận thức những yêu cầu đó và thể hiện
nó trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ
cán bộ ở cơ quan mình.
Căn cứ vào thực trạng cán bộ thuộc ngành, địa phương hoặc cơ quan,
đơn vị quản lý để xác định các vấn đề sau

+ Về số lượng: Số lượng cán bộ, công chức này được phân tích theo cơ
cấu dân tộc, giới tính, độ tuổi, thâm niên công tác, ngạch bậc và chức vụ công tác.
+ Về chất lượng: Thực trạng về trình độ đội ngũ cán bộ, công chức là
tiêu chí quan trọng cần nắm để xây dựng biện pháp nâng cao năng lực cho đội
ngũ cán bộ.
Trước hết, cần nắm được trình độ đã được đào tạo thể hiện qua bằng
cấp, chứng chỉ, chứng nhận về các lĩnh vực văn hóa; chuyên môn nghiệp vụ;
lý luận chính trị, quản lý hành chính Nhà nước, ngoại ngữ, tin học cần đi sâu
từng đối tượng để làm quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng
cao năng lực cho đội ngũ cán bộ thích hợp với yêu cầu đặt ra.
+ Về cơ cấu: Bên cạnh những ưu điểm trong phát triển về mặt số
lượng, chất lượng, sự hình thành và phát triển về mặt cơ cấu của ĐNCV chính
là sự đảm bảo trong thực tế về sự phát triển, thay thể mang tính liên tục giữa
các thế hệ là sự bảo đảm ngày càng tốt hơn cho sự phát triển bình đẳng, cùng
phấn đấu vươn lên của các bộ tộc lớn nhỏ, giữa đội ngũ nam giới và nữ giới.
Từ đó tăng cường khối đoàn kết thúc đẩy cho sự phát triển trong lĩnh vực giáo
dục nói chung và ĐNCV trong các cơ quan BGD Lào nói riêng cũng như sự
phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới.
1.4.2 Hoạt động quản lý của đội ngũ chuyên viên
Quản lý ĐNCV là hoạt động chủ động, thường xuyên, có mục đích của
cơ quan quản lý cán bộ cũng như quản lý đội ngũ chuyên viên, cấp có thẩm
quyền quyết định, tác động có định hướng vào đội ngũ cán bộ và từng cán bộ,
20
nhằm bồi dưỡng, rèn luyện, phát huy khả năng, nâng cao năng lực của đội ngũ
cán bộ và từng cán bộ để đáp ứng yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ được giao
của cơ quan, đơn vị.
a). Quản lý đội ngũ cán bộ là hoạt động có mục đích, tác động có định
hướng, thường xuyên và chủ động của chủ thể quản lý đối với khách thể quản lý.
- Chủ thể quản lý cán bộ là những tổ chức và những cá nhân có trách
nhiệm trong công tác quản lý cán bộ, Chủ thể có quyền hạn cao nhất về mặt tổ

chức, trong quản lý cán bộ là Đảng, mà thường xuyên và trực tiếp.
- Khách thể của công tác quản lý cán bộ là đội ngũ cán bộ hoạt động
trong hệ thống chính trị bao gồm cán bộ các cơ quan Đảng, Nhà nước và các
đoàn thể chính trị - xã hội. Các doanh nghiệp từ Trung ương đến cơ sở.
Mặc dù cũng là chủ thể quản lý ở một cấp nào đó, nhưng vẫn có sự
khác biệt cơ bản giữa tổ chức và cá nhân ở chỗ: Tổ chức là người có quyền
quyết định những nội dung quản lý, cá nhân đóng vai trò đề xuất, kiến nghị và
tổ chức thực hiện.
b). Hoạt động quản lý cán bộ phải đạt mục đích: bồi dưỡng, rèn luyện,
phát huy khả năng của đội ngũ cán bộ và bản thân từng cán bộ, làm cho đội
ngũ cán bộ không ngừng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao nhiệm vụ
cách mạng.
1.4.3 Đặc điểm của đội ngũ chuyên viên
Khi xem xét về đặc điểm của đội ngũ cán bộ này trong cơ quan Bộ
Giáo dụcLào để nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ chúng ta cần lưu ý
một số mặt sau đây:
+ Về nguồn gốc
Bộ phận thứ nhất, vẫn là những cán bộ, chiến sĩ trẻ nổi lên từ hoạt động
thực tiễn được tổ chức tuyển chọn và đưa đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong và
ngoài nước. Trong đó có một số được đi học các ngành chuyên môn, theo lĩnh
vực mà họ đã hoạt động công tác. Còn một số khác, thường là Đảng viên trẻ,
có tương lai phát triển thành cán bộ kế cận về chuyên môn, nghiệp vụ, cán bộ
21
lãnh đạo, cán bộ quản lý trong lĩnh vực giáo dục, được đi học trong lĩnh vực
chính trị, chuyên ngành khác nhau.
Sau khi tốt nghiệp từ các lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ được bố trí
làm việc và trải qua quá trình hoạt động công tác, những người cán bộ này
dần trưởng thành chuyên viên, chuyên viên chính và từng bước giữ các chức
vụ quan trọng trong các vụ, văn phòng, các trung tâm trong cơ quan,đơn vi
của Bộ Giáo dục Lào, có một số người được chuyển công tác xuống cơ sở

giáo dục và những ngành khác.
Bộ phận thứ hai, là học sinh, sinh viên con em của cán bô, nhân dân các
dân tộc Lào được tổ chức học tập trung, học tập trong nước đa số nhất là tốt
nghiệp từ sư phạm Đông Độc ngày xưa hoăc Trường Đại học Quốc gia Lào
hiện nay, các trường chuyên nghiệp trung cấp và cao đẳng trong nước, họ là
những người trẻ mới tốt nghiệp từ các lĩnh vực chuyên môn được bố trí làm
việc các cơ quan Bộ và những người đã được luân chuyển từ cơ sở giáo dục
chuyển sang cơ quan Bộ Giáo dục Lào.
Bộ phận thứ ba, vốn là học sinh sinh viên con em của cán bộ cách
mạng và nhân dân các bộ tộc Lào được tổ chức học tập tài các trường phổ
thông ở miền Bắc Việt Nam dành riêng cho con em các bộ tộc Lào. Sau đó
được đào tạo ở các lĩnh vực chuyên môn khác nhau tại các trường đại học,
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ngày ở Việt Nam, hoặc gửi đi học ở các
nước chủ nghĩa khác.
Sau khi đất nước đã hoàn toàn giải phóng những người này đã quay về
nước, bộ phận này bao gồm một số học sinh, sinh viên yêu nước từ các vùng
tạm chiếm của chính quyền cũ đã tìm đến vùng giải phóng và đi theo cách
mạng ngày từ những ngày khó khăn, ác liệt nhất của cuộc đấu tranh chống
Mỹ cứu nước.họ được bố trí làm việc ở các trường trung học chuyên nghiệp,
cao đẳng, trường sư phạm sau đó chuyển sang làm việc ở các cơ quan Bộ
Giáo dục Lào với sự nỗ lực vươn lên của bản thân và sự chăm lo của tổ chức
22
họ đã từng bước được đào tạo, bồi dưỡng và trải qua thực tiễn trong thời gian
dài đã trưởng thành những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục của
Lào trong giai đoạn mới.
Bộ phận thứ tư, là bao gồm những người từng hoạt động trong các lĩnh
vực chuyên môn trong xã hội cũ, nhất là trong lĩnh vực giáo dục, hoặc là sinh
viên tốt nghiệp từ các nước tư bản chủ nghĩa. Họ là những người được đào tạo
một cách có hệ thống, được xã hội mới trọng dụng và trong hoạt động công
tác dưới chế độ mới họ đã rất tận tụy với công tác, có nỗ lực vươn lên trong

sự nghiệp từ trước giải phóng đến nay đã từng bước được giao phó trong các
cơ quan, đơn vị giáo dục của Bộ Giáo dục Lào.
Ngoài ra, trong đội ngũ chuyên viên hiện nay còn có một bộ phần đặc
biệt, hầu như được trưởng thành từ hoạt động thực tiễn. Họ chính là những
người cán bộ làm việc trong lĩnh vực giáo dục lâu năm ở trường sư phạm Na
khao tỉnh Hóa Phăn , đã từng lăn lộn trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, nhưng lại không có điều kiện học tập qua
trường lớp một cách có hệ thống, nói chung kiến thức lý luận và chuyên môn
nghiệp vụ còn hạn chế. Cho đến nay tuy không còn là một bộ phận có số đông
trong đội ngũ cán bộ này phần lớn tuổi đã cao, nhưng một số người còn có uy
tín trong lĩnh vực hoạt động được tiếp tục trọng dụng.
Từ nguồn gốc sinh thành là nông dân, nông thôn và với điều kiện, hoàn
cảnh trưởng thành của các đối tượng cụ thể khác nhau, ít nhiều ảnh hưởng đến
việc hình thành nhân cách và sự phát triển về năng lực, kỹ năng, kỹ xảo của
mỗi người. Từ đó cũng ảnh hưởng đến năng lực hoạt động thực tiễn của đội
ngũ đó.
+ Về cơ cấu thành phần
Trước hết đội ngũ cán bộ ở Lào hiện nay nói chung và đội ngũ chuyên
viên ở cơ quan Bộ Giáo dục Lào nói riêng là một đội ngũ bao gồm nhiều
thành phần dân tộc; nam nữ; các nhóm tuổi; cán bộ quản lý, các ngạch bậc,
23

×