Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Biện pháp quản lí dạy học buổi thứ hai của lớp 2 buổi trên ngày ở các trường tiểu học thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.7 KB, 99 trang )

CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CBQL Cán bộ quản lý
CMHS Cha mẹ học sinh
CSVC Cơ sở vật chất
DH Dạy học
GD Giáo dục
GD - ĐT Giáo dục và đào tạo
GDTH Giáo dục tiểu học
GV Giáo viên
GVCN Giáo viên chủ nhiệm
HS Học sinh
HSTH Học sinh tiểu học
KH Kế hoạch
KHDH Kế hoạch dạy học
PCGD Phương phát giáo dục
PPDH Phương phát dạy học
QL Quản lý
QLDH Quản lý dạy học
QLGD Quản lý giáo dục
TH Tiểu học
THCS Trung học cơ sở
XH Xã hội
XHHGD Xã hội hoá giáo dục
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam khoá VIII về định hướng chiến lược phát triển GD-ĐT
trong thời kì Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đã xác định: “ phải nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện bậc Tiểu học… ” [3, tr. 31]
Giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống Giáo dục quốc
dân, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, thể chất, trí tuệ,


thẩm mĩ cho trẻ em, nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn
diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nếu trẻ em không
phát triển tốt ở bậc Tiểu học thì chắc chắn các em cũng khó tiến bộ được ở
các bậc học tiếp theo.
Dạy học 2 buổi/ngày đang là đích mà GDTH Việt Nam hướng tới,
mô hình này phù hợp với thời kì Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước,
phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lý của trẻ em và xu hướng dạy học
chung của thế giới. Tổ chức DH 2 buổi/ngày giúp HS được tăng thời lượng
về thời gian nhưng nội dung kiến thức không tăng, chỉ đi sâu, chú trọng
đến phương pháp dạy và giảm cường độ học, các em được tăng cường hoạt
động văn hoá, môi trường, vui chơi….để học sinh được phát triển toàn
diện. Tổ chức cho HS học 2 buổi/ngày (có hoặc không có bán trú) là một
chủ trương lớn mang tính chiến lược trong sự phát triển GDTH nhằm mục
đích GD trẻ phát triển toàn diện, hài hoà cả về đức, trí, thể, mĩ, đáp ứng
nhu cầu nâng cao chất lượng DH, phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Thực tế ở các trường có tổ chức dạy 2 buổi/ngày cho thấy trẻ có điều kiện
phát triển trí tuệ hơn.
2
Năm học 2010-2011, Bộ GD - ĐT khẳng định cần đẩy mạnh tổ chức
dạy học 2 buổi/ngày trong cả nước, đặc biệt ở những vùng khó khăn, vùng
đồng bào miền núi. Đến nay, DH lớp 2 buổi/ngày ở TH đã trở thành chủ
trương của Đảng và Nhà nước, đồng thời đáp ứng được đông đảo nhu cầu
của CMHS. Để đảm bảo không xảy ra tình trạng HS học quá sức, quá tải
khi học lớp 2 buổi/ ngày, Bộ GD - ĐT yêu cầu tất cả HT các trường cần
chủ động xây dựng KHDH 2 buổi/ngày trên cơ sở đảm bảo yêu cầu về nội
dung và thời lượng. Theo đó, các trường sẽ DH theo kế hoạch GD, thực
hiện chương trình và sách cho mỗi lớp theo quy định; thực hành kiến thức
đã học và tổ chức HS tham gia hoạt động thực tiễn tại địa phương nhằm hỗ
trợ cho việc học tập; giúp đỡ HS yếu vươn lên hoàn thành yêu cầu học tập
hoặc bồi dưỡng HS năng khiếu; dạy học các môn học tự chọn; tổ chức các

hoạt động ngoài giờ lên lớp tạo mọi điều kiện để HS hoàn thành bài tập
ngay tại lớp.
Hiện nay ở tất cả các trường TH trong thành phố Uông Bí đều tổ
chức DH 2 buổi/ngày. Chương trình DH buổi thứ hai của lớp 2 buổi/ngày
dựa theo khung chương trình của Bộ GD - ĐT quy định. Các trường chủ
động xây dựng chương trình dạy học cụ thể phù hợp với yêu cầu thực tế
của từng trường. Tuy nhiên làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học
ở buổi thứ hai của lớp 2 buổi/ngày là vấn đề được các nhà QLGD, GV trực
tiếp giảng dạy và các bậc phụ huynh HS hết sức quan tâm.
Nhận thức rõ sự cần thiết của việc nghiên cứu để đề xuất các biện
pháp nâng cao chất lượng DH buổi thứ hai của lớp 2 buổi/ngày, bằng tâm
huyết và kinh nghiệm của mình trong công tác QLGD nhà trường, chúng
tôi mạnh dạn chọn vấn đề: “Biện pháp quản lí dạy học buổi thứ hai của
3
lớp 2 buổi/ngày ở các trường tiểu học thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng
Ninh” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát thực trạng việc thực hiện dạy học 2 buổi/ngày trong
trường TH tại thị xã Uông Bí, đề xuất biện pháp quản lý dạy học buổi thứ hai,
lớp 2 buổi/ngày của HT góp phần nâng cao chất lượng GD toàn diện cho HS.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động giáo dục HS ở trường TH.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp QL dạy học buổi thứ hai của các lớp
TH 2 buổi/ngày.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu chọn và sử dụng các biện pháp quản lý phù hợp với đặc điểm của
các trường TH thành phố Uông Bí thì sẽ góp phần nâng cao kết quả dạy học
buổi thứ hai của lớp 2 buổi/ngày và hiệu quả giáo dục cho HSTH ở thành phố
này.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận, cơ sở pháp lý về giáo dục tiểu học và những nội
dung liên quan đến quản lý dạy học lớp 2 buổi/ngày.
5.2. Điều tra, khảo sát thực trạng việc QL dạy học buổi thứ hai, lớp 2
buổi/ngày của hiệu trưởng các trường TH ở thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng
Ninh.
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý dạy học buổi thứ hai, lớp 2 buổi/ngày
của hiệu trưởng các trường TH ở thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các nhóm phương pháp sau đây:
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
4
Đề tài sẽ tập trung làm sáng tỏ cơ sở pháp lý, cơ sở lý luận của việc
quản lý dạy học buổi thứ 2 ngày 2 buổi ở các trường TH thành phố Uông Bí,
tỉnh Quảng Ninh bằng cách đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu sau đây:
- Văn kiện, Nghị quyết của Đảng về GD - ĐT;
- Tài liệu về quản lý giáo dục, tổ chức quản lý giáo dục ở trường Tiểu học;
- Nghiên cứu Luật và các văn bản dưới Luật về giáo dục tiểu học, các
văn bản của Bộ GD - ĐT, Sở GD - ĐT tỉnh Quảng Ninh, phòng GD - ĐT
thành phố Uông Bí về chỉ đạo dạy học 2 buổi/ngày.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: quan sát các hoạt động dạy học cũng như các biện
pháp quản lý dạy học và giáo dục ở các trường tiểu học thành phố Uông Bí.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: sử dụng phiếu hỏi để điều tra
làm rõ thực trạng quản lý việc dạy học nói chung và quản lý việc dạy học
ngày 2 buổi nói riêng.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp này dùng để xử lý các số liệu điều tra, để kiểm định độ
tin cậy của các biện pháp kiểm định làm cơ sở định lượng cho vấn đề nghiên
cứu.
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

7.1. Nội dung nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng và các
biện pháp quản lý dạy học buổi thứ hai, lớp 2 buổi/ngày của HT các trường
TH ở thành phố Uông Bí.
7.2. Địa bàn nghiên cứu: các trường TH thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.

5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ DẠY HỌC
BUỔI THỨ HAI CỦA LỚP 2 BUỔI/ NGÀY Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC
1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nhiều nước trên thế giới đã tiến hành DH lớp 2 buổi/ngày ở tất cả bậc
học từ rất lâu. Ở Việt Nam, để đáp ứng nhu cầu xã hội, thực hiện mục tiêu GD
của Đảng, việc tổ chức dạy lớp 2 buổi/ngày ở trường TH đã được triển khai từ
những năm 1990, bắt đầu từ những trường TH ở các thành phố, thị xã của các
tỉnh thành phố có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển.
Thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Tuyên Quang,
Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương… là những đơn vị đi đầu trong việc xây
dựng các trường dạy 2 buổi/ngày. Cho đến nay, theo thống kê số liệu trong cả
nước có khoảng 35% số HS được học lớp 2 buổi/ngày, Bộ GD - ĐT đưa chỉ
tiêu đến năm 2015 cả nước đạt 70 % số HS học 2 buổi/ngày.
Trong quá trình tổ chức thực hiện, một số CBQL trường học đã quan
tâm nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này ở các góc độ khác nhau. Năm 1998, tác
giả Lưu Thị Tường Vân đã nghiên cứu đề tài “Cơ sở lí luận và thực tiễn của
loại hình học hai buổi/ngày ở bậc tiểu học”, công trình của tác giả Tường Vân
đã nghiên cứu khá hệ thống các vấn đề lý luận của loại hình học lớp 2 buổi/
ngày và một số vấn đề thực tiễn về học 2 buổi /ngày ở trường tiểu học trên địa
bàn thành phố Hà Nội.
Năm 2002, tác giả Ngô Thị Thanh Nhung nghiên cứu đề tài “Một số
giải pháp tổ chức và quản lý trường Tiểu học dạy 2 buổi/ngày thành phố Đà
Nẵng”. Trên một số báo và tạp chí cũng đăng tải một số bài viết bàn về điều

kiện cơ sở vật chất, xây dựng thời khóa biểu trong tổ chức dạy học 2 buổi/
ngày ở trường TH nói chung.
6
Việc tổ chức dạy học lớp 2 buổi/ ngày ở trường TH đến nay đã trở
thành chủ trương chung của ngành GD, là một yêu cầu trong tổ chức QL
trường TH hiện nay. Tuy nhiên việc tổ chức DH lớp 2 buổi/ ngày phải gắn
với điều kiện thực tế của từng địa phương. Mặt khác, theo PGS - TS Đặng
Quốc Bảo: “Nâng giờ học mới là điều kiện cần, chưa phải là điều kiện đủ.
Cái cần hơn là phải có một nội dung đào tạo hợp lý và phương pháp tổ chức
đào tạo khoa học. Nâng số giờ đào tạo mà lại gia tăng các nội dung có tính
hàn lâm và điều kiện cơ sở vật chất, tài chính có hạn thì lợi bất cập hại”. Do
đó cần có những nghiên cứu cụ thể về QLDH buổi thứ hai ở trường TH để
xác định nội dung và phương pháp tổ chức DH hợp lý nhằm thực hiện được
các mục tiêu đích thực của việc dạy 2 buổi/ ngày.
Cho đến nay còn ít công trình khoa học nghiên cứu các biện pháp
QLDH buổi thứ hai của lớp 2 buổi/ngày ở trường TH. Đề tài mà tác giả chọn
được triển khai để tìm kiếm các biện pháp QL dạy học buổi thứ hai, lớp 2
buổi/ ngày của HT ở các trường TH của thành phố Uông Bí tỉnh Quảng Ninh
nhằm hướng đến việc sử dụng hợp lý quĩ thời gian 2 buổi/ ngày để tổ chức
dạy học GD toàn diện, đáp ứng yêu cầu đổi mới GD phù hợp với điều kiện
địa phương.
1.2. Cơ sở lí luận của việc quản lí dạy học buổi thứ hai của lớp 2
buổi/ngày
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1.1 Quản lý giáo dục
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Quản lý là trông, coi, giữ gìn theo những
yêu cầu nhất định” hoặc “Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động
theo những yêu cầu nhất định”. [29, tr.772]
Trong thực tiễn đã có nhiều cách hiểu và biểu đạt về khái niệm QL, tuỳ
theo mục đích tiếp cận khác nhau của mỗi tác giả.

7
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (nói chung
là khách thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến.”
[14,tr.24]
Bàn về sự cần thiết của quản lý, Các Mác viết: “Tất cả lao động trực
tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều
cũng cần đến sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện
những chức năng chung, phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất
khác với sự vận động của những cơ quan độc lập của nó. Một người độc tấu
vĩ cầm riêng lẻ tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có
nhạc trưởng.” [2, tr.34]
Ngày nay, khái niệm về QL được định nghĩa một cách cụ thể hơn như
là một quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các chức
năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra. Trong quá trình này người
QL là nhân vật có trách nhiệm phân bố nhân lực, các nguồn lực khác, chỉ dẫn
sự vận hành của một bộ phận hay toàn bộ tổ chức để tổ chức này hoạt động có
hiệu quả và đạt mục đích.
Quản lý không chỉ là một khoa học mà còn là nghệ thuật, nghệ thuật
điều hành. Chính vì vậy người QL phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu, biết vận
dụng các biện pháp phù hợp.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là tổ chức các hoạt
động dạy học. Có tổ chức được các hoạt động dạy học, thực hiện được các
tính chất của nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa mới quản lý
được giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối
đó thành hiện thực, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, của đất nước.” [8, tr.9]
QLGD là sự tác động có ý thức của chủ thể QL đến khách thể QL nhằm
đưa hoạt động sư phạm của hệ thống GD đạt tới kết quả mong muốn một cách
8
hiệu quả nhất. QLGD theo nghĩa tổng quát là điều hành, phối hợp các lực lượng

XH nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển XH.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý
nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng,
thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà
tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới
mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.” [ 23,tr.35]
Như vậy có thể thấy QL hoạt động DH là trung tâm của hoạt động
QLGD. QL trường TH muốn đạt được chất lượng và hiệu quả phải chú trọng
QL hoạt động DH. Mọi hoạt động khác trong nhà trường đều nhằm phục vụ
tốt nhất cho hoạt động DH được diễn ra theo đúng kế hoạch, đúng chương
trình, phương pháp dạy học cấp học và đạt được mục tiêu GD.
1.2.1.2 Quản lý nhà trường
Thực chất QLGD là hệ thống những tác động có tính khoa học theo
một quá trình và nguyên tắc nhất định vào các hoạt động của nhà trường để
hoạt động này vận hành theo đúng mục tiêu. Trường học là một bộ phận cấu
thành của hệ thống GD. Quản lý trường học có thể hiểu như một bộ phận của
QLGD nói chung. Như vậy, QL nhà trường chính là QLGD nhưng trong một
phạm vi xác định của một đơn vị nền tảng, đó là nhà trường. Vì thế, QL nhà
trường nói chung, trường TH nói riêng là vận dụng các nguyên lý chung của
QLGD để đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường theo mục tiêu đào tạo của
cấp học. Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “ Quản lý trường học là lao động
của các cơ quan quản lý, nhằm tập hợp và tổ chức lao động của giáo viên,
học sinh và các lực lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các
nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà
trường”. [30, tr.205]
9
Quản lý trường học là thực hiện đường lối GD của Đảng trong phạm vi
trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý GD để
tiến tới đạt mục tiêu GD-ĐT đề ra.

Quản lý trường học là QL các hoạt động GD nhằm giúp HS phát triển
toàn diện, hoàn thiện nhân cách của thế hệ trẻ một cách hợp lý, khoa học và
hiệu quả. Thành công hay thất bại của nhiệm vụ đổi mới nâng cao hiệu quả
GD trong nhà trường phụ thuộc rất lớn vào điều kiện nhà trường, đòi hỏi
người QL cần có biện pháp chỉ đạo phù hợp để QL có hiệu quả các hoạt động
trong nhà trường.
1.2.1.3 Quản lí chất lượng dạy học
Chất lượng: theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam: “Chất lượng là cái tạo
nên phẩm chất, giá trị của một người, một sự vật, một sự việc. Đó là tổng thể
các thuộc tính cơ bản khẳng định sự tồn tại của một sự vật, phân biệt nó với
sự vật khác.” [ 28, tr.7]
Chất lượng giáo dục: Chất lượng GD gắn liền với sự hoàn thiện của tri
thức - kĩ năng - thái độ của sản phẩm GD - ĐT và sự đáp ứng yêu cầu đa dạng
của nền kinh tế XH của nó trước mắt cũng như trong quá trình phát triển.
Chất lượng GD gắn với hiệu quả trong và hiệu quả ngoài của GD - ĐT
Theo tác giả Nguyễn Kế Hào: “Chất lượng giáo dục Tiểu học có thể
hiểu chính là những gì mà học sinh được hưởng thụ, là sự tiến bộ của học
sinh theo hướng mục tiêu giáo dục.” [11, tr. 4]
Chất lượng dạy học: chính là chất lượng của người học, hay kiến thức
kĩ năng nghề nghiệp mà người học lĩnh hội được.
Hiệu quả dạy học: Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam: “Hiệu quả là
kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại.” [28, tr. 462]
Xét theo chức năng, nhiệm vụ chung của GD thì hiệu quả GD là khả
năng đáp ứng tích cực những yêu cầu về dân trí, nhân lực, nhân tài trong thế kỉ
21, thế kỉ của tri thức.
10
Theo quan điểm hệ thống, hiệu quả GD bao gồm hiệu quả trong và hiệu
quả ngoài. Hiệu quả trong là hiệu quả được đánh giá trong phạm vi ngành
GD. Hiệu quả ngoài được đánh giá cả phía ngoài ngành GD, nhà trường và cá
nhân của những HS đã tốt nghiệp. Đối với những HS đã hoàn thành chương

trình TH được trang bị kiến thức và kĩ năng cơ bản để tiếp tục học THCS
hoặc đi vào cuộc sống, học nghề, có đầy đủ những kĩ năng cần thiết mà XH
yêu cầu. Đối với nhà trường đó là sự ảnh hưởng tích cực, sự đóng góp đối với
từng cá nhân, cộng đồng và XH.
Như vậy có thể khẳng định việc đánh giá chất lượng và hiệu quả DH
phải quán triệt được mục tiêu, nội dung, phương pháp cũng như cách thức tổ
chức quá trình DH. Hiệu quả DH được khẳng định bởi các thương hiệu nhà
trường tạo ra.
Quản lý dạy học: là tác động hợp quy luật của chủ thể QLDH đến khách
thể DH bằng các giải pháp phát huy tích cực phương tiện QL như chế định
quản lý GD - ĐT, bộ máy tổ chức và nhân lực DH, nguồn tài lực, vật lực DH,
thông tin về môi trường DH nhằm đạt được mục tiêu QLDH.
QLDH trong nhà trường là QL toàn bộ việc giảng dạy, GD của thầy và
việc học tập của trò theo nội dung GD toàn diện nhằm thực hiện mục tiêu và
đường lối GD của Đảng.
Như vậy, QLDH là quản lý quá trình truyền thụ tri thức của đội ngũ
giáo viên và quá trình lĩnh hội kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo của HS và QL các
phương tiện, điều kiện cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho DH nhằm đạt
mục tiêu GD có hiệu quả.
Quản lý chất lượng dạy học: Quản lý chất lượng dạy học không chỉ là
QL đơn thuần hoạt động DH mà còn phải QL các thành tố của hoạt động sư
phạm, đặc biệt chú ý đến các thành tố của quá trình dạy học: Mục tiêu, nội
dung dạy học, xây dựng các điều kiện cần thiết cho hoạt động dạy của thầy và
11
hoạt động học của trò, đội ngũ GV, cơ sở vật chất, tài chính, môi trường (sư
phạm và xã hội) và các mối quan hệ bên trong và ngoài nhà trường. Quản lý
hoạt động toàn diện trong nhà trường nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học.
Quản lý chất lượng dạy học có thể hiểu là thực hiện các tác động quản lý
nhằm tạo ra các điều kiện đảm bảo để hoạt động dạy học được diễn ra thuận
lợi, có chất lượng và hiệu quả.

1.2.1.4 Biện pháp quản lí dạy học
Biện pháp là cách thức thực hiện hoạt động nhằm đạt được mục tiêu
của hoạt động. Trong quan hệ với mục tiêu của hoạt động, biện pháp là cách
thức, con đường để giải quyết một vấn đề cụ thể nhằm đạt mục tiêu xác định.
Biện pháp QLDH là cách thức mà hiệu trưởng cụ thể hóa để thực hiện
các chức năng QLGD trong nhà trường nhằm đạt được mục tiêu dạy học đã
đề ra.
1.2.2 Dạy học lớp 2 buổi/ngày và việc giáo dục học sinh
1.2.2.1 Vị trí của trường tiểu học trong việc giáo dục học sinh
Điều 26, khoản 1, Luật Giáo dục 2005 đã khẳng định: “Giáo dục Tiểu
học được thực hiện trong 5 năm học, từ lớp 1 đến lớp 5. Tuổi học sinh vào
lớp 1 là 6 tuổi.”
Điều 2, chương 1, Điều lệ trường Tiểu học đã quy định: “Trường Tiểu
học là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục quốc dân, có tư cách
pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng.”
Tiểu học là cấp học đầu tiên của bậc học phổ thông trong hệ thống giáo
dục quốc dân, là cấp học dành cho 100% trẻ em có trình độ từ 6 đến 11 tuổi
(phổ cập giáo dục tiểu học 14 tuối). Cấp TH tạo ra cơ sở ban đầu bền vững
cho trẻ em tiếp tục học lên cấp trên, hình thành những cơ sở ban đầu của nhân
cách. Đặc điểm này đòi hỏi sự chuẩn xác với tính khoa học cao, tính nhân văn
ở một nền giáo dục nhà trường, ở mỗi giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục.
12
Vì vậy có thể khẳng định rằng: Muốn có một hệ thống giáo dục quốc dân lành
mạnh, chất lượng cần có một cấp học TH vững chắc.
Điều 27, khoản 1 của Luật Giáo dục 2005 đã nêu rõ về mục tiêu giáo
dục tiểu học là: “Nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự
phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ
năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở.”
Trong giai đoạn hiện nay, GDTH cần đạt một số mục tiêu cụ thể : Nâng
cao chất lượng PCGD và PCGD tiểu học đúng độ tuổi, nâng cao chất lượng

giáo dục toàn diện ở bậc TH bằng các giải pháp:
- Tổ chức, quản lý tốt và nâng cao chất lượng HS học 2 buổi/ngày.
- Thực hiện dạy học theo chương trình sách giáo khoa mới, dạy đủ các
môn học bắt buộc và tự chọn, dạy học bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng môn
học có gắn với đặc thù vùng miền, tăng cường giáo dục thể chất và kĩ năng
sống nhằm phát triển toàn diện cho HS đáp ứng nhu cầu phát triển XH.
- Xây dựng và đánh giá trường TH theo chuẩn quốc gia tiến đến ở mức
độ 2, xây dựng các điều kiện đảm bảo cho việc giáo dục HS về các mặt: đức,
trí, thể, mỹ, môi trường và các kỹ năng cơ bản.
Với mục tiêu trên, nội dung GDTH thể hiện ở điều 28, Luật Giáo dục
2005: “Phải đảm bảo cho HS có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã
hội và con người; có kĩ năng cơ bản về nghe, đọc, nói, viết và tính toán; có
thói quen rèn luyện thân thể và giữ gìn vệ sinh ; có hiểu biết ban đầu về hát,
múa, mĩ thuật”.
Để đạt được mục tiêu GDTH, Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII đã
nhấn mạnh về vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và chỉ ra những định
hướng “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện thành một nếp tư duy sáng tạo của người học.
Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và các phương pháp hiện đại
13
vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện về thời gian tự học, tự nghiên cứu
cho học sinh.” [26, tr.12]
Dạy cho học sinh tích cực tự học, rèn kĩ năng sống, bảo vệ môi trường
là yêu cầu chức năng, nhiệm vụ mới của giáo viên trong thời kì hiện nay, đó
chính là quan điểm phát huy nội lực của HS, kết hợp sự giúp đỡ bên ngoài,
đặc biệt là sự hướng dẫn định hướng của thầy cô giáo. Trong quản lý và giảng
dạy, giáo viên cần chú ý xây dựng kỉ cương, nề nếp DH, thực hiện chức năng
hành chính đưa các hoạt động vào kỉ cương bằng hệ thống nội quy, quy định
chặt chẽ. Xây dựng ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm cá nhân, sự cộng tác
và giúp đỡ học hỏi lẫn nhau trong quá trình DH, tạo ra trạng thái tinh thần

lành mạnh, bầu không khí sư phạm thân ái, đoàn kết làm nền tảng cho việc
thực hiện mục tiêu GD, nâng cao chất lượng DH. Đồng thời có những hình
thức động viên, khen thưởng kịp thời và định mức với những cống hiến và
thành tích của cán bộ giáo viên, học sinh, tạo điều kiện để cho cán bộ, giáo
viên lao động cải thiện đời sống cả về vật chất và tinh thần.
1.2.2.2 Vai trò của dạy học 2 buổi/ngày đối với giáo dục HSTH
Dạy học lớp 2 buổi/ngày được hiểu là hình thức tổ chức cho HS được
giáo dục và học tập trong nhà trường cả buổi sáng và buổi chiều, tạo điều kiện
giáo dục toàn diện, bảo đảm sự hài hoà cân đối giữa học tập có chất lượng
ngay trên lớp với các hoạt động vui chơi lành mạnh. Dạy học buổi thứ hai của
lớp 2 buổi/ngày không phải là dạy thêm mà giãn thời gian học tập ở buổi thứ
nhất để bớt căng thẳng cho HS và bổ sung các môn học nhằm phát triển về trí
tuệ, thể chất, năng khiếu cho HS.
Khi tổ chức học lớp 2 buổi/ngày, có bộ phận HS ăn, nghỉ trưa tại
trường (HS bán trú) và một bộ phận HS không ở lại trường vào buổi trưa
(không bán trú). Trong tổ chức dạy học lớp 2 buổi/ ngày sẽ bao gồm cả việc
tổ chức quản lý HS bán trú.
14
Việc tổ chức học lớp 2 buổi/ngày kể cả bán trú hay không bán trú, đều
mang lại lợi ích xã hội, thoả mãn nhu cầu của một bộ phận CMHS muốn gửi
con ở trường cả ngày để yên tâm công tác. Đồng thời dạy học 2 buổi/ngày cần
tạo môi trường sư phạm tích cực. Đó là: tăng không gian giao tiếp giữa HS
với HS, giữa GV với GV, phù hợp với mô hình trường học thân thiện, HS tích
cực. Tham gia học lớp 2 buổi/ngày, ngoài việc học các môn văn hoá, các em
có điều kiện tham gia các hoạt động tập thể, ngoại khoá, vui chơi, rèn luyện
về âm nhạc, thể dục, mĩ thuật…Các em được học các môn tự chọn như tin
học, ngoại ngữ, hiểu biết thêm kiến thức thực tế, rèn kĩ năng sống.
Ngoài ra, việc tổ chức dạy học lớp 2 buổi khắc phục tình trạng quá tải ở
TH: Nội dung tổng thể chương trình TH được giữ nguyên, trong khi thời
lượng được giãn ra sẽ không gây sức ép cho HS.

Trong giai đoạn phát triển của đất nước ta hiện nay, TH có vai trò quan
trọng và là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đa số phụ
huynh học sinh đều có nhu cầu gửi con học 2 buổi/ ngày để nhằm nâng cao
chất lượng GD, phát triển toàn diện cho HS trong môi trường học tập thân
thiện và có chất lượng cao. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà QLGD phải biết vận
dụng các biện pháp QLDH phù hợp, linh hoạt sáng tạo sẽ phát huy được nội
lực và ngoại lực đạt hiệu quả mục tiêu GD.
1.2.2.3 Mối quan hệ giữa QLDH buổi thứ nhất với QLDH buổi thứ hai của
lớp 2 buổi ngày ở các trường Tiểu học.
Những điểm tương đồng:
Tổ chức DH lớp 1 buổi/ngày hay lớp 2 buổi/ngày, các nhà QL, HT các
nhà trường đều thực hiện các biện pháp QLDH để nhằm đạt được mục tiêu
nâng cao chất lượng DH và GD học sinh hiệu quả. Chính vì vậy, QLDH ở lớp
1 buổi/ngày và lớp 2 buổi/ngày có mối quan hệ chặt chẽ, gắn kết với nhau.
Muốn nâng cao chất lượng, phát triển toàn diện cũng như phát huy năng khiếu
15
của HS ở buổi thứ hai của lớp 2 buổi/ngày thì ở buổi thứ nhất HS phải nắm
được kiến thức ở mức độ cơ bản và bền vững. Các biện pháp QL ở buổi thứ
nhất luôn vận dụng QL ở buổi thứ hai. Một số biện pháp QLDH buổi thứ hai
hỗ trợ cho buổi thứ nhất để cùng đạt mục tiêu GD.
Những điểm khác biệt:
Dạy học lớp 1 buổi/ngày Dạy học lớp 2 buổi/ngày
- DH bắt buộc đạt PCGDTH
đúng độ tuổi, huy động 100%
HS đến trường.
- HS không phải nộp tiền.
- Được tổ chức theo sự thoả thuận, đồng ý
với nhu cầu của CMHS và điều kiện CSVC
nhà trường.
- Nếu trường chưa đủ biên chế 1,5 GV/ lớp,

HS phải nộp tiền buổi thứ hai theo QĐ của
Uỷ ban nhân dân các cấp.
- Chương trình, nội dung, kế
hoạch dạy học theo quy định
chung trong toàn quốc của Bộ
GD-ĐT.
- Chương trình, nội dung, kế hoạch dạy học
theo khung của Bộ GD- ĐT, nhà trường vận
dụng xây dựng chương trình dạy học riêng
phù hợp với điều kiện của nhà trường.
- Tài liệu dạy học như SKG,
sách giáo viên, thiết kế bài
dạy, bài dạy tham khảo trên
mạng rất cụ thể và phong
phú.
- GV tự tìm và thiết kế bài dạy, tài liệu dạy
học môn Toán, TV thì tràn lan khó chọn lọc.
Tài liệu các môn khác và tài liệu tham khảo
lại rất ít, GV soạn giảng gặp khó khăn.
1.2.3 Vai trò, nhiệm vụ của Hiệu trưởng trường TH trong việc quản lí
giáo dục HS nói chung, quản lí dạy học 2 buổi/ngày nói riêng.
Điều 3, chương 1, Điều lệ trường TH ban hành theo quyết định số
51/2007/QĐ - BGDĐT ngày 31 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ GD -
ĐT đã quy định nhiệm vụ và quyền hạn của trường TH như sau:
1. Tổ chức giảng dạy, học tập và hoạt động giáo dục đạt chất lượng
16
theo mục tiêu, chương trình GDTH do Bộ trưởng Bộ GD - ĐT ban hành.
2. Huy động trẻ em đi học đúng độ tuổi, vận động trẻ em tàn tật,
khuyết tật, trẻ em đã bỏ học đến trường, thực hiện kế hoạch phổ cập GD và
chống mù chữ trong cộng đồng. Nhận bảo trợ và quản lý các hoạt động GD

của các cơ sở GD khác thực hiện chương trình GDTH theo sự phân công của
cấp có thẩm quyền. Tổ chức kiểm tra và công nhận hoàn thành chương trình
TH của học sinh trong nhà trường và trẻ em trong địa bàn quản lý của trường.
3. Quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh.
4. Quản lý, sử dụng đất đai, cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài chính
theo quy định của pháp luật.
5. Phối hợp với gia đình, các tổ chức và cá nhân trong cộng đồng thực
hiện hoạt động giáo dục.
6. Tổ chức cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học sinh tham
gia các hoạt động xã hội trong cộng đồng.
Ngày nay, với sự phát triển của thế kỉ 21, thế kỉ của nền tri thức, người
QL giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Sự phát triển XH đặt ra cho hiệu trưởng nhà
trường những trọng trách lớn lao trong việc điều hành các quá trình DH và quá
trình GD sao cho đạt hiệu quả, đào tạo nhân tài đáp ứng xu thế phát triển.
Vai trò của HT nhà trường là bảo đảm chỉ đạo toàn diện việc vận hành
guồng máy QL, phối hợp nhịp nhàng hoạt động của các bộ phận, huy động
toàn lực lượng tham gia GD. HT cần phải biết cách quản lý sáng tạo, đó là
nghệ thuật điều hành.
Điều 17, chương II, Điều lệ trường Tiểu học đã chỉ rõ: “ Hiệu trưởng
trường tiểu học là người chịu trách nhiệm tổ chức, quản lý các hoạt động và
chất lượng giáo dục của nhà trường. Hiệu trưởng do Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cấp huyện bổ nhiệm đối với trường tiểu học công lập, công nhận đối với
trường tiểu học tư thục theo đề nghị của Trưởng phòng GD-ĐT”.
17
Nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng :
a) Xây dựng quy hoạch phát triển nhà trường; lập kế hoạch và tổ chức
thực hiện kế hoạch dạy học, giáo dục từng năm học; báo cáo, đánh giá kết
quả thực hiện trước Hội đồng trường và các cấp có thẩm quyền;
b) Thành lập các tổ chuyên môn, tổ văn phòng và các hội đồng tư vấn
trong nhà trường; bổ nhiệm tổ trưởng, tổ phó. Đề xuất các thành viên của Hội

đồng trường trình cấp có thẩm quyền quyết định;
c) Phân công, quản lý, đánh giá, xếp loại; tham gia quá trình tuyển
dụng, thuyên chuyển; khen thưởng, thi hành kỷ luật đối với GV, nhân viên
theo quy định;
d) Quản lý hành chính; quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài
chính, tài sản của nhà trường;
đ) Quản lý học sinh và tổ chức các hoạt động GD của nhà trường; tiếp
nhận, giới thiệu HS chuyển trường; quyết định khen thưởng, kỷ luật, phê duyệt
kết quả đánh giá, xếp loại, danh sách học sinh lên lớp, ở lại lớp; tổ chức kiểm
tra, xác nhận việc hoàn thành chương trình TH cho HS trong nhà trường và
các đối tượng khác trên địa bàn trường phụ trách;
e) Dự các lớp bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ quản lý;
tham gia giảng dạy bình quân 2 tiết trong một tuần; được hưởng chế độ phụ
cấp và các chính sách ưu đãi theo quy định;
g) Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở và tạo điều kiện cho các tổ chức
chính trị - xã hội trong nhà trường hoạt động nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục;
h) Thực hiện XHHGD, phát huy vai trò của nhà trường đối với cộng
đồng.
Như vậy HT trường tiểu học phải vừa là nhà giáo, vừa là nhà lãnh đạo,
quản lý các hoạt động của nhà trường. Trong vai trò đó, với những qui định
18
cụ thể trong điều lệ nhà trưởng HT phải không ngừng học tập, tích lũy kinh
nghiệm, tìm tòi và sáng tạo, lựa chọn và mạnh dạn trong việc áp dụng các
biện pháp quản lý phù hợp với qui định của Nhà nước và điều kiện nhà
trường. Đặc biệt HT phải có khả năng tập hợp, lôi cuốn, dẫn dắt đội ngũ;
phân bổ nguồn lực để thực hiện có hiệu quả hoạt động dạy học giáo dục
trong nhà trường mới hoàn thành nhiệm vụ được giao. Do đó tìm kiếm biện
pháp quản lý dạy học 2 buổi/ ngày là trách nhiệm của HT tiểu học.
1.3. Một số căn cứ pháp lý của việc quản lý dạy học 2 buổi/ ngày ở trường

tiểu học
Để thực hiện tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày ở trường TH, Bộ GD&ĐT
đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo và hướng dẫn:
- Ngày 07 tháng 11 năm 2000, Bộ GD - ĐT đã ban hành công văn số
10176/BGDĐT - GDTH về việc hướng dẫn kế hoạch dạy học 2 buổi/ngày,
trong đó nêu rõ: Việc dạy học 2 buổi/ngày chỉ tổ chức ở những nơi có nhu cầu
và có sự tự nguyện của phụ huynh HS, được sự đồng ý của các cấp có thẩm
quyền. Kinh phí bồi dưỡng GV dạy hợp đồng, GV dạy quá 5 buổi/tuần, nhân
viên phục vụ,… do gia đình HS đóng góp trên nguyên tắc tự nguyện và đúng
quy định của các cấp có thẩm quyền. Trong văn bản hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ năm học hàng năm, Bộ GD - ĐT đều hướng dẫn tổ chức dạy học 2
buổi/ngày các địa phương triển khai thực hiện có hiệu quả. Bộ GD - ĐT yêu
cầu ở buổi học thứ nhất các trường dạy theo kế hoạch GD quy định cho mỗi
lớp đã được quy định trong kế hoạch GD. Ở buổi học thứ hai căn cứ vào đặc
điểm cụ thể của từng địa phương, Sở GD - ĐT chỉ đạo các trường TH lập kế
hoạch thực hiện với điều kiện thời lượng bố trí tối đa 15 tiết/tuần. Đặc biệt, về
nguyên tắc, giáo viên không được thêm nội dung kiến thức mới mà chủ yếu là
khai thác kiến thức đã có trong sách giáo khoa, củng cố và rèn luyện các kiến
thức, kỹ năng đã học hoặc chủ yếu giúp đỡ học sinh nắm được các kiến thức
19
đã học ở các tiết học trong tuần của buổi thứ nhất; dành thời gian để học sinh
giải quyết hết bài tập trong sách giáo khoa
- Thông tư liên tịch số 50/2008/TTLT- BGDĐT- BNV ngày 09/9/2008:
“Hướng dẫn thực hiện chế độ trả lương dạy thêm đối với trường công lập”
- Trong các văn bản hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học cấp tiểu
học, Bộ GD - ĐT luôn chỉ đạo đẩy mạnh tổ chức dạy 2 buổi/ngày trong cả
nước, đặc biệt là những vùng khó khăn và vùng đồng bào miền núi.
- Điều 14 chương II, Điều lệ trường Tiểu học đã chỉ rõ: “Mỗi lớp học
có một GVCN phụ trách giảng dạy một hoặc nhiều môn học. Đối với trường
tiểu học dạy 1 buổi trong ngày được bố trí biên chế bình quân không quá

1,20 giáo viên trên một lớp; đối với trường tiểu học dạy học 2 buổi/ ngày
được bố trí biên chế bình quân không quá 1,50 giáo viên trên một lớp.
Trường tiểu học dạy học 2 buổi/ ngày phải có giáo viên chuyên trách đối với
các môn Mĩ thuật, Âm nhạc, Thể dục và môn học tự chọn”.
- QĐ số 2091/QĐ - BGDĐT ngày 25/5/2010: Quyết định về việc ban
hành khung kế hoạch thời gian năm học 2010-2011 của giáo dục mầm non,
giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên trong đó cũng qui định cụ thể
về dạy 2 buổi/ ngày ở trường tiểu học.
- Công văn số 7312/BGDĐT- GDTH về việc Hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ năm học 2009-2010 đối với GDTH có ghi rõ:
- HT chủ động xây dựng KHDH 2 buổi/ ngày trên cơ sở đảm bảo các
yêu cầu:
(1) Về nội dung: dạy học theo kế hoạch giáo dục, thực hiện chương
trình và sách quy định cho mỗi lớp nêu ở điểm 1.1 mục II và điểm 1, điểm 2
mục III của công văn này; thực hành kiến thức đã học và tổ chức học sinh
tham gia các hoạt động thực tế tại địa phương nhằm hỗ trợ cho việc học tập;
giúp đỡ học sinh yếu vươn lên hoàn thành yêu cầu học tập, hoặc bồi dưỡng
20
học sinh năng khiếu; dạy học các môn học tự chọn; tổ chức các hoạt động ngoài
giờ lên lớp; tạo mọi điều kiện để học sinh hoàn thành bài tập ngay tại lớp.
Đối với những trường ở vùng khó khăn, việc tổ chức dạy học 2 buổi/
ngày không thêm nội dung dạy học, chủ yếu nhằm tạo điều kiện cho học sinh
đạt được chuẩn kiến thức, kĩ năng.
(2) Về thời lượng: đảm bảo không tổ chức dạy học quá 7 tiết/ ngày.
(3) Về vệ sinh, an toàn thực phẩm đối với các trường, lớp tổ chức bán
trú: cần tăng cường kiểm tra vệ sinh, an toàn thực phẩm trong phạm vi trường
học để đảm bảo sức khoẻ HS.
Tham mưu với chính quyền địa phương tìm nguồn kinh phí từ ngân
sách và đẩy mạnh công tác xã hội hoá, để hỗ trợ các hoạt động giáo dục:
- Bồi dưỡng học sinh yếu trong năm học và trong hè;

- Tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số;
- Tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày; tổ chức bán trú;
- Tổ chức các hoạt động giao lưu học sinh giỏi, Olympic cho HSTH và
các hoạt động giáo dục khác.
- Xây dựng và tổ chức các sân chơi vận động ngoài trời, trong đó có các
loại đồ chơi, thiết bị vận động phù hợp với HSTH.
Song song với các văn bản trên, Bộ GD - ĐT còn có nhiều văn bản chỉ
đạo thực hiện kế hoạch nội dung, chương trình dạy học 2 buổi/ngày để làm
hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho các địa phương tổ chức và quản lý tốt
việc dạy học 2 buổi/ngày.
Trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của Bộ GD - ĐT, Sở GD - ĐT tỉnh
Quảng Ninh, phòng GD - ĐT Uông Bí đã xây dựng kế hoạch, chỉ đạo các địa
phương có điều kiện tổ chức các lớp học 2 buổi/ngày; tham mưu với UBND
các cấp để tạo điều kiện đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và có những văn bản
pháp lí về thu, chi công tác tổ chức dạy học 2buổi/ngày. Cụ thể Sở GD - ĐT
21
tỉnh Quảng Ninh đã ban hành các văn bản: Hướng dẫn nhiệm vụ năm học
2008-2009 cấp Tiểu học số 1599/SGD&ĐT-GDTH ngày 08/9/2009; Hướng
dẫn nhiệm vụ năm học 2009 -2010 cấp Tiểu học số 1833/SGD&ĐT - GDTH
ngày 18/9/2009; Hướng dẫn nhiệm vụ năm học 2010-2011 cấp tiểu học số
2378/SGD&ĐT-GDTH ngày 27/8/2010.
1.4 Đặc điểm lứa tuổi học sinh tiểu học với việc học 2 buổi/ngày
Trong quá trình phát triển tâm lý con người về phương diện cá thể, học
sinh TH thuộc thời kì đầu tiên trong giai đoạn tuổi đi học, thường được gọi là
tuổi nhi đồng (từ 6 đến 11-12 tuổi). Đây là lứa tuổi đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng trong cuộc đời HS với sự xuất hiện lần đầu tiên hoạt động học tập
theo phương pháp của nhà trường. Hoạt động học tập trở thành hoạt động chủ
đạo của lứa tuổi TH.
Những đặc điểm nhân cách của HSTH là tính hồn nhiên, tính chỉnh thể,
tính chất đang phát triển và có khả năng tiềm tàng trong quá trình phát triển.

Những yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển của HSTH đó là nhà
trường, gia đình và hoạt động giao tiếp trong điều kiện lịch sử - XH nhất định.
Qua nhiều tài liệu của các nhà nghiên cứu tâm lí học và giáo dục học và
qua thực tiễn cho thấy: Trẻ em ở lứa tuổi TH không chỉ có nhu cầu học 9 môn
học bắt buộc mà các em còn rất ham tìm hiểu về môi trường xung quanh, về
các hiện tượng tự nhiên, sức khoẻ cũng như nhu cầu học các môn thể thao…
Nhiều HS còn thích học ngoại ngữ, tin học, nhiều em có điều kiện phát triển
năng khiếu âm nhạc, hội hoạ… Chính vì vậy, chỉ có học lớp 2 buổi/ngày ở
trường TH mới đủ thời gian tổ chức cho HS được học tập phát triển năng
khiếu, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, đòi hỏi các HT nhà trường phải có
biện pháp quản lý tốt lớp 2 buổi/ngày ở TH để nâng cao chất lượng dạy học.
Tóm lại, việc học tập 2 buổi/ngày không chỉ phù hợp với đặc điểm lứa tuổi
mà còn đáp ứng nhu cầu phát triển toàn diện của các em học sinh tiểu học.
Kết luận chương 1
22
Nâng cao chất lượng GD là mục tiêu và cũng là yêu cầu đối với tất cả
các cấp học và trình độ đào tạo. Để nâng cao chất lượng GD cấp TH, đáp ứng
nhu cầu của cộng đồng, việc triển khai dạy học lớp 2 buổi/ngày ở trường tiểu
học là một xu thế tất yếu. Mô hình dạy học 2 buổi/ngày ở trường TH của Việt
Nam xuất hiện từ những năm 1990 đến nay được khẳng định là một trong
những mô hình phù hợp để thực hiện việc dạy học giảm tải ở TH, đã phần nào
nâng cao chất lượng GD toàn diện.
Trong chương 1, tác giả đã tìm hiểu một số khái niệm, thuật ngữ cơ bản
như QL, QLGD, QLDH, QL trường học, dạy học 2 buổi/ ngày gắn với biện
pháp QLDH buổi thứ hai, lớp 2 buổi/ngày của HT ở các trường TH. Đồng
thời tác giả cũng xác định và làm rõ vị trí, vai trò của trường TH trong hệ
thống giáo dục quốc dân trên cơ sở các qui định của Luật GD; tìm hiểu các
văn bản chỉ đạo việc dạy học buổi thứ hai của lớp 2 buổi/ngày ở trường TH
hiện hành. Đó là những căn cứ lý luận và pháp lý để đề xuất các biện pháp
quản lý dạy học buổi thứ hai, lớp 2 buổi/ ngày của HT ở các trường TH thành

phố Uông Bí mà tác giả sẽ trình bày trong chương 3 của luận văn.
Kết quả nghiên cứu lí luận cho thấy việc dạy học buổi thứ hai lớp 2
buổi/ngày là xu hướng cần thiết hiện nay để hướng tới việc giáo dục mọi mặt
cho học sinh tiểu học. Hơn nữa học sinh tiểu học không chỉ có hứng thú, khả
năng mà cả nhu cầu học tập buổi thứ hai để phát triển toàn diện.
23
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ DẠY HỌC BUỔI THỨ HAI LỚP
2 BUỔI/ NGÀY CỦA HIỆU TRƯỞNG CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC
THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH
2.1 Khái quát về đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội và giáo dục đào tạo
của thành phố Uông Bí
2.1.1 Khái quát về đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội
Uông Bí là một thị xã được nâng cấp lên thành phố vào ngày 25 tháng
2 năm 2011, nằm ở phía tây của tỉnh Quảng Ninh, cách Hà Nội khoảng 120
km; nằm dưới chân dãy núi Yên Tử và giáp sông Đá Bạc. Hiện tại, Uông Bí
có 25.313,55 ha diện tích tự nhiên, 97.975 nhân khẩu và 11 đơn vị hành
chính, gồm 9 phường: Vàng Danh, Bắc Sơn, Thanh Sơn, Quang Trung, Trưng
Vương, Nam Khê, Yên Thanh, Phương Đông, Phương Nam và 2 xã: Thượng
Yên Công, Điền Công. Uông Bí có hơn 10 vạn người, với hơn 90% là người
Kinh. Uông Bí nổi tiếng với nền công nghiệp khai thác than, là cái nôi của
công nghiệp sản xuất điện năng. Nhà máy nhiệt điện Uông Bí khởi công năm
1961 từng là cánh chim đầu đàn của ngành điện miền Bắc XHCN.
Uông Bí là trung tâm y tế của tỉnh Quảng Ninh cũng như khu vực đồng
bằng sông Hồng, là nơi tập trung nhiều trường cao đẳng và dạy nghề của tỉnh.
Trên nền tảng của một thị xã các ngành than, điện với gần 50 năm xây dựng,
phát triển, từ sau ngày thị xã được công nhận là đô thị loại 3 (tháng 2-2008).
Hiện tại, thành phố đang triển khai gần 20 dự án đô thị dân cư với trên 900ha
theo hướng hiện đại, bền vững.
Thành phố Uông Bí có khu thắng cảnh nổi tiếng Yên Tử, đây là nơi ra

đời dòng Thiền Trúc Lâm Việt Nam, có nhiều chùa và di tích văn hoá quý.
Bên cạnh đó dự án khu du lịch sinh thái (Resort) hồ Yên Trung "Sen vàng" sẽ
24
là khu đô thị du lịch sinh thái tâm linh và nghỉ dưỡng cao cấp tiêu chuẩn quốc
tế mang phong cách kiến trúc thuần Việt. Dự án được thiết kế theo đúng ý
tưởng phù hợp với chủ đề văn hoá Phật giáo đời Trần, đồng thời đáp ứng sự
phát triển sinh thái bền vững sẽ đưa Uông Bí trở thành một trong những thành
phố du lịch đẹp trong tương lai, đưa Yên Tử xứng đáng là kinh đô của Phật
giáo Việt Nam
2.1.2. Khái quát về tình hình Giáo dục và Đào tạo thành phố Uông Bí
Trong những năm vừa qua, sự nghiệp giáo dục trên địa bàn thành phố
luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo và đầu tư về mọi mặt, có chất lượng
giáo dục vào loại khá của tỉnh Quảng Ninh. Quy mô mạng lưới trường lớp
phát triển rộng và đều khắp; toàn thành phố có 03 trường THPT, 01 trung tâm
GDTX – HNDN, 10 trường THCS, 18 trường có HSTH và 15 trường Mẫu
giáo – Mầm non. Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý đủ về cơ cấu, đạt chuẩn
và trên chuẩn về trình độ đào tạo, nghiệp vụ chuyên môn – quản lý đã đáp
ứng được nhu cầu học tập của con em trong thị xã và việc nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện. Uông Bí đạt chuẩn Phổ cập giáo dục tiểu học – xoá
mù chữ vào năm 1999, đạt chuẩn Phổ cập giáo dục THCS vào năm 2006, đạt
chuẩn Phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi năm 2001. Hiện nay Uông Bí
đang tích cực thực hiện đề án phổ cập giáo dục THPT.
Tuy nhiên, công tác giáo dục cũng còn có những hạn chế nhất định: sự
quan tâm chỉ đạo ở một số cấp uỷ, chính quyền địa phương còn thiếu thường
xuyên và sâu sát; một số bộ phận cán bộ quản lý – giáo viên còn hạn chế cả về
trình độ và trách nhiệm nghề nghiệp; cơ sở vật chất chưa đáp ứng tốt nhất cho sự
phát triển giáo dục; chất lượng giáo dục đại trà chưa đều và còn một tỷ lệ đáng
kể học sinh xếp loại yếu (khoảng 2%).
Định hướng phát triển của thành phố Uông Bí hiện nay là:
- Phát triển GD - ĐT trở thành trung tâm đào tạo nguồn nhân lực và bồi

dưỡng nhân tài cho phát triển Thành phố và của Tỉnh. Tập trung phát triển sự
25

×