Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Những giải pháp cơ bản để triển khai dạy học theo Phòng học bộ môn cấp THCS huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (760.05 KB, 101 trang )

LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
Ban lãnh đạo, cán bộ các khoa, phòng ban của Học viện Quản Lý Giáo
Dục; các thầy, cô giáo đã quản lý và trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn tác giả
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Hội đồng khoa học, Hội đồng đào tạo thạc sĩ chuyên ngành Quản lý
giáo dục Học viện Quản lý giáo dục.
Các Thầy, Cô giáo trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
học tập và làm luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Trần Đức Vượng
người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình, chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn.
Lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo Vĩnh Phúc, Phòng Giáo dục và Đào
tạo Vĩnh Tường, các Trường THCS trong huyện Vĩnh Tường đã tạo điều kiện
về mọi mọi mặt giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn
Mặc dù có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu
song luận văn không tránh khỏi sai sót, kính mong được sự chỉ dẫn, góp ý của các
Thầy giáo, Cô giáo, các bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn.
Hà nội, ngày 28 tháng 5 năm 2012
Tác giả
Vũ Hải Việt
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BCH TW Ban chấp hành trung ương
BGH Ban giám hiệu
BGD ĐT Bộ Giáo dục Đào tạo
CBQL Cán bộ quản lý
CSVC Cơ sở vật chất
ĐK Điều kiện
GV Giáo viên
HS Học sinh


NVSP Nghiệp vụ sư phạm
PPDH Phương pháp dạy học
PPGD Phương pháp giáo dục
PTDH Phương tiện dạy học
PTKT Phương tiện kỹ thuật
QLGD Quản lý giáo dục
SP Số phiếu
TĐCM Trình độ chuyên môn
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
TB Thiết bị
TW Trung ương
UBND Ủy ban nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
M UỞĐẦ 1
1. Lý do ch n t iọ đề à 1
2. M c ích nghiên c uụ đ ứ 3
3. i t ng v ph m vi nghiên c uĐố ượ à ạ ứ 3
4. Nhi m v nghiên c uệ ụ ứ 3
5. Ph ng pháp nghiên c uươ ứ 3
6. Gi thuy t khoa h cả ế ọ 4
7. C u trúc lu n v nấ ậ ă 4
Ch ng 1ươ
C S LÝ LU N VÀ TH C TI N C A VI C TRI N KHAI Ơ Ở Ậ Ự Ễ Ủ Ệ Ể
D Y H C THEO PHÒNG H C B MÔNẠ Ọ Ọ Ộ 5
1.1. C s lý lu nơ ở ậ 5
1.1.1. S l c l ch s v n nghiên c u: ơ ượ ị ử ấ đề ứ 5
1.1.2. Các khái ni m c b n c a t iệ ơ ả ủ đề à 7
1.2. C s th c ti nơ ở ự ễ 23

1.2.1. D án Trung h c c s II tri n khai thí i m.ự ọ ơ ở ể đ ể 24
1.2.2. Gi i thi u n i dung Quy t nh 37/2008/Q -BGD T ng y 16 ớ ệ ộ ế đị Đ Đ à
tháng 7 n m 2008 c a B Giáo d c v o t o v vi c "Ban h nh ă ủ ộ ụ à Đà ạ ề ệ à
quy nh v phòng h c b môn”đị ề ọ ộ 27
1.2.3. Th c tr ng tri n khai d y h c theo Phòng h c b môn huy n ự ạ ể ạ ọ ọ ộ ở ệ
V nh T ng, t nh V nh Phúcĩ ườ ỉ ĩ 37
Ch ng 2ươ
NH NG GIAI PHAP C BAN Ê TRIÊN KHAI DAY HOC̃ ́Ư ̉ Ơ ̉ Đ ̉ ̉ ̣ ̣
THEO PHONG HOC BÔ MÔN CÂP THCS HUYÊN VINH T NG̀ ́ ̃ ̣̀ ̣ ̣ ƯƠ
TINH VINH PHUC̃ ́̉ 54
2.1. xu t các gi i phápĐề ấ ả 57
2.2. Phân tích các gi i phápả 57
2.2.1. Gi i pháp 1. Nâng cao nh n th c cho lãnh o Phòng giáo d c ả ậ ứ đạ ụ
v o t o, Ban giám hi u, T tr ng b môn, giáo viên v Phòng à đà ạ ệ ổ ưở ộ ề
h c b môn v tính t t y u c a vi c d y h c theo phòng h c b mônọ ộ à ấ ế ủ ệ ạ ọ ọ ộ
57
2.2.2. Gi i pháp 2. H tr ch tr ng ng l i, h tr v chuyên ả ỗ ợ ủ ươ đườ ố ỗ ợ ề
gia, v kinh phí v xin biên ch viên ch c ph trách thí nghi mề à ế ứ ụ ệ 64
2.2.3. Gi i pháp 3. Tri n khai xây d ng Phòng h c b môn m t cách ả ể ự ọ ộ ộ
phù h p.ợ 67
2.2.4. Gi i pháp 4. T ng c ng công tác ki m tra, ánh giá c a Phòng ả ă ườ ể đ ủ
Giáo d c v o t o, Ban giám hi u các nh tr ng thông qua các kụ à Đà ạ ệ à ườ ế
ho ch công v n ánh giá, xây d ng tiêu chu n ánh giá x p lo i i ạ ă đ ự ẩ đ ế ạ đố
v i phòng h c b môn.ớ ọ ộ 71
2.2.5. Gi i pháp 5. T ch c các h i ngh nhân r ng i n hình, th m ả ổ ứ ộ ị ộ đ ể ă
quan th c ti n ự ễ 74
2.2.6. Gi i pháp 6. Có ch chính sách khuy n khích nh ng tr ng ả ế độ ế ữ ườ
có giáo viên tri n khai t t phòng h c b môn.ể ố ọ ộ 78
Ch ng 3ươ
TH NGHIÊM S PHAMỬ ̣ Ư ̣ 86

K T LU N VÀ KHUY N NGHẾ Ậ Ế Ị 88
I. K t lu n: ế ậ 88
II. Khuy n ngh :ế ị 91
TÀI LI U THAM KH OỆ Ả 93
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
B ng 1.1: Th ng kê s phòng, di n tích c a phòng h c b ả ố ố ệ ủ ọ ộ
môn 44
B ng 1.2 : Kinh phí xây d ng phòng h c b môn.ả ự ọ ộ 48
B ng 1.3. Th ng kê i ng Viên ch c l m công tác qu n lýả ố độ ũ ứ à ả
thi t b ế ị
d y h c v phòng h c b môn.ạ ọ à ọ ộ 49
B ng 1.4: Tri n khai d y h c theo phòng h c b mônả ể ạ ọ ọ ộ 52
B ng 2.2. M u ng ký ti t d y, b i d y, l p d y t i phòngả ẫ đă ế ạ à ạ ớ ạ ạ
h c b mônọ ộ 63
B ng 2.3. M u ng ký m n thi t b d y h c ả ẫ đă ượ ế ị ạ ọ
v o s theo dõi s d ng thi t b .à ổ ử ụ ế ị 63
B ng 2.4. M t s mô hình v c u trúc phòng h c b môn.ả ộ ố ề ấ ọ ộ 69
S : M i quan h gi a các gi i pháp nh m tri n khai có ơ đồ ố ệ ữ ả ằ ể
hi u quệ ả
d y h c theo phòng h c b mônạ ọ ọ ộ 82
B ng 3.1. S li u t ng h p các ý ki n tr c v sau khi tri n ả ố ệ ổ ợ ế ướ à ể
khai
các bi n pháp:ệ 86
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XXI mở ra nhiều cơ hội cũng như nhiều thách thức mới cho
Giáo dục nước nhà để tiến tới hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Đào tạo ra những con người vừa hồng vừa chuyên có khả năng
đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ VIII xác định: “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của Giáo

dục là nhằm xây dựng những con người có ý thức cộng đồng và phát huy tính
tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư
duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi…”(11). Để đạt được mục tiêu đề ra
Hội nghị còn chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học.
Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và hiện đại vào quá trình dạy
học…”(11). Thực tiễn đã chứng minh: Đổi mới phương pháp dạy học thực
chất là đặt học sinh vào vị trí chủ thể của hoạt động nhận thức. Muốn đổi mới
phương pháp dạy học thì nhất định phải có thiết bị dạy học. Vấn đề của Giáo
dục hiện nay là đổi mới phương pháp dạy học trong đó thiết bị dạy học đóng
vai trò quan trọng. Nói như một số tác giả sách giáo khoa các môn khoa học
tự nhiên: “Nếu dạy học mà không có thiết bị dạy học thì đổi mới phương
pháp dạy học lần này sẽ thất bại”. (13)
Thiết bị dạy học là một trong sáu thành tố không thể thiếu trong quá
trình dạy học góp phần tích cực nâng cao chất lượng Giáo dục và Đào tạo.
Dạy học theo Phòng học bộ môn là một hình thức dạy học khá quen thuộc đối
với nhiều nước có nền Giáo dục tiên tiến trên thế giới. Mô hình này có từ
những năm 50 - 60 của thế kỷ XX ở các nước Đông Âu. Các quốc gia trong
khu vực và trên thế giới như: Anh, Mỹ, Trung Quốc, Singapore, Thái Lan đều
triển khai mô hình này ở các mức độ khác nhau song với Việt Nam thì mới
1
được triển khai. Dự án THCS pha I đã triển khai thí điểm dạy học theo phòng
học bộ môn và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành quyết định số
37/2008/BGD-ĐT về dạy học theo phòng học bộ môn (4). Việc nghiên cứu và
quản lý thiết bị dạy học theo phòng học bộ môn sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng
thiết bị dạy học góp phần nâng cao chất lượng Giáo dục. Thấm nhuần tinh
thần đó Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cấp kinh phí và chỉ đạo các cơ sở Giáo
dục dành một số ngân sách khá lớn: hàng trăm ngàn tỷ đồng để trang bị thiết
bị dạy học và triển khai dạy học theo phòng học bộ môn theo quyết định
37/2008/BGD-ĐT.

Triển khai dạy học theo hướng phòng học bộ môn thì việc dạy và học
theo phòng học bộ môn phải là tất yếu trong quá trình đổi mới Giáo dục. Năm
học 2006-2007 Dự án phát triển Giáo dục THCS II triển khai mô hình phòng
học bộ môn ra toàn bộ 63 tỉnh thành đáp ứng nhu cầu vừa học lý thuyết gắn
với thực hành góp phần nâng cao chất lượng Giáo dục.
Vĩnh Tường là huyện thuần nông nằm phía Tây Nam của tỉnh Vĩnh
Phúc. Tuy kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, nhưng học sinh luôn phát huy tinh
thần hiếu học. Nhiều năm liền Giáo dục Vĩnh Tường liên tục đứng đầu trong
toàn tỉnh. Việc dạy và học theo mô hình phòng học bộ môn đã được triển khai
đại trà tới các trường trong toàn huyện. Do điều kiện cơ sở vật chất còn hạn
chế nên việc dạy và học theo mô hình phòng học bộ môn chưa đạt hiệu quả
cao, giáo viên và học sinh còn lúng túng khi áp dụng lý thuyết vào thực hành
trong thực tiễn giảng dạy. Chọn đề tài: “Những giải pháp cơ bản để triển
khai dạy học theo Phòng học bộ môn cấp THCS huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh
Phúc” chúng tôi mong muốn góp phần vào việc nghiên cứu nâng cao chất
lượng dạy và học của giáo viên, học sinh. Đây là một đề tài khá mới mẻ, là
một khoảng trống cần được lấp đầy góp phần đưa chất lượng Giáo dục và Đào
tạo huyện Vĩnh Tường duy trì và phát triển.
2
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất những giải pháp cơ bản để triển khai dạy học theo phòng học
bộ môn cấp THCS ở huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc góp phần nâng cao
chất lượng Giáo dục.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Lí luận và thực tiễn về Phòng học bộ môn
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Một số trường THCS trong huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc
3.2.2. Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo tình hình dạy và học phòng
học bộ môn của một số huyện, tỉnh khác để làm nổi bật đặc trưng của phòng

học bộ môn giúp cho việc tìm hiểu, đánh giá của luận văn thêm căn cứ khoa
học
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn dạy học theo phòng học
bộ môn.
4.2. Đề xuất những giải pháp cơ bản để triển khai dạy học theo phòng
học bộ môn cấp THCS ở huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.
4.3. Thử nghiệm sư phạm.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Tìm hiểu các khái niệm, thuật ngữ có liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu các văn bản, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và Nhà nước về
Giáo dục và Đào tạo, của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo
Vĩnh Phúc, Phòng Giáo dục và Đào tạo Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát (hoạt động dạy và học của giáo viên, học sinh).
- Phương pháp điều tra, khảo sát
3
- Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm Giáo dục.
5.3. Phương pháp chuyên gia.
5.4. Phương pháp phân tích, xử lý số liệu…
6. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được những giải pháp cơ bản, phù hợp với thực tế địa
phương thì sẽ triển khai dạy học theo phòng học bộ môn tại các trường THCS
huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc có hiệu quả, góp phần nâng cao chất
lượng Giáo dục.
7. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương, kết luận kiến nghị, tài liệu tham
khảo và phụ lục.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc triển khai dạy học theo

phòng học bộ môn.
Chương 2. Những giải pháp cơ bản để triển khai dạy học theo Phòng
học bộ môn cấp THCS huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc
Chương 3: Thử nghiệm sư phạm.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TRIỂN KHAI
DẠY HỌC THEO PHÒNG HỌC BỘ MÔN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu:
Từ những năm cuối thế kỉ XX, nhiều nước phát triển đã công bố chiến
lược phát triển kinh tế- xã hội những năm đầu thế kỷ mới, mà hạt nhân của
các chiến lược đó là tiến hành cải cách giáo dục (Hàn Quốc năm 1988; Pháp
năm 1989; Anh và Mỹ từ năm 1992). Đường lối phát triển giáo dục nói chung
và cải cách giáo dục tập trung vào mấy hướng chính: Đổi mới mục tiêu giáo
dục và hiện đại hóa nội dung dạy học và phương pháp dạy học, trong đó đổi
mới phương pháp dạy học và công nghệ dạy học được coi là then chốt. Đó
chính là xu hướng phát triển của giáo dục trên bình diện toàn thế giới (13).
Đảng và Nhà nước ta đã nhận rõ tình hình đó, đã đưa ra các Nghị quyết
quan trọng về đổi mới giáo dục. Trong đó Nghị quyết 4 BCH TW Khóa VII
(1992) và Nghị quyết 2 BCH TW Khóa VIII (1996) đánh dấu một bước quan
trọng trong sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam.
Cải cách giáo dục Việt Nam đã được khởi động từ sau Đại hội Đảng
VII (1992), sau nhiều lần điều chỉnh mục tiêu, đến năm 2002, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã chính thức triển khai Bộ chương trình giáo dục phổ thông mới,
đồng thời đã xác định rõ: Đổi mới phương pháp dạy học vừa là mục tiêu then
chốt, vừa là giải pháp đột phá. Tuy nhiên, cho đến nay trong thực tế dạy học
các trường phổ thông, lối dạy phổ biến vẫn là truyền thụ một chiều, người học
thụ động trong tiếp nhận, học chưa đi đôi với thực hành, kiến thức ít được vận
dụng trong thực tiễn, những năng lực quan trọng của con người không được

chú ý đúng mức trong nhà trường, những phẩm chất tư duy linh hoạt, độc lập,
sáng tạo ít được quan tâm hình thành cho người học.
5
Kết luận của hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 Khoá IX (2002) đã
nhấn mạnh: “Tập trung chỉ đạo đổi mới nội dung chương trình, phương pháp
giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, tiếp nhận trình độ tiên tiến của
khu vực và quốc tế, tăng cường thực hiện gắn bó với cuộc sống xã hội ”. Luật
Giáo dục 2005, tại điều 28 cũng đã ghi “Phương pháp dạy học phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với
đặc điểm của môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc
theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Như vậy, đổi mới
phương pháp dạy học là một trong các trọng điểm mà công cuộc cải cách giáo
dục hiện nay đặt ra. Đó cũng chính là yêu cầu khách quan của sự nghiệp phát
triển giáo dục- đào tạo của đất nước. Một sự thay đổi căn bản như thế cần có
một chiến lược và một phương thức chỉ đạo đúng đắn, có hiệu quả.
Nhà sư phạm vĩ đại J.A.Comenxki (1592-1670) đã đưa ra những yêu
cầu cải tổ nền Giáo dục theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo
của người học.Theo ông, dạy học thế nào để người học thích thú học tập và có
những cố gắng bản thân để nắm lấy tri thức. Ông nói: “Tôi thường bồi dưỡng
cho học sinh của tôi tinh thần độc lập trong quan sát, trong đàm thoại và trong
việc ứng dụng tri thức vào thực tiễn”. Ông còn viết: “Giáo dục có mục đích
đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách…
Hãy tìm ra phương pháp cho giáo viên dạy ít hơn, học sinh học được nhiều
hơn” (28).
Sự vận động không ngừng của đời sống xã hội tất yếu dẫn đến sự đổi
mới trong nội dung giáo dục và phương pháp giáo dục Khi nói về phương
pháp dạy học, cần nhấn mạnh đó là vấn đề được các nhà khoa học giáo dục
trên toàn thế giới quan tâm. Đó là các công trình nghiên cứu sâu sắc liên quan
đến phương pháp dạy học gắn với các tên tuổi của Piagiet, Lêônchiep,

6
Đannhilốp, Êxipôp, Lecne, Babansky Gần đây, một số nhà lý luận dạy học
phương Tây như: Grôp- Frây …đi sâu vào các kĩ thuật dạy học cụ thể.
Các quan điểm về đổi mới phương pháp dạy học hoàn toàn phù hợp với
tinh thần nghị quyết TW 2 khoá VIII về Giáo dục và Đào tạo. Nghị quyết yêu
cầu (11): “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, khắc phục lối truyền thụ
một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học”. Nội dung này
đã được thể hiện thành quy định pháp luật tại chương I điều 4, luật Giáo dục.
Quốc hội X, kì họp thứ tư, ngày 28/10 đến ngày 02/12/1998 thông qua ghi rõ (23):
Nội dung Giáo dục phải đảm bảo tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện
đại và có hệ thống.
Phương pháp dạy học phải phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động
sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn. Tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
1.1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.2.1. Quản lý, biện pháp quản lý
a. Quản lý
Quản lý là một hoạt động xuất hiện từ lâu trong xã hội loài người và
hoạt động này ngày càng phát triển trong xã hội. Trong quá trình lao động đấu
tranh với thiên nhiên, để sinh tồn và phát triển con người cần phải hợp sức
nhau lại để tự vệ và lao động kiếm sống. Những hoạt động tổ chức, phối hợp,
điều khiển hoạt động của mọi người nhằm thực hiện những mục tiêu chung
là những dấu ấn đầu tiên của hoạt động quản lý.
Quản lý là một dạng lao động xã hội gắn liền và phát triển cùng với lịch
sử phát triển của loài người. Quản lý là một dạng lao động đặc biệt, nó có tính
khoa học và nghệ thuật cao, nhưng đồng thời nó là sản phẩm có tính lịch sử,
tính đặc thù của xã hội. Khi đề cập đến cơ sở khoa học của quản lý, Các Mác
viết: ''Bất cứ lao động nào có tính xã hội, cộng đồng được thực hiện ở quy mô
7

nhất định đều cần ở chừng mực nhất định sự quản lý, giống như người chơi vĩ
cầm một mình thì tự điều khiển còn một dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng''.
Như vậy, có thể hiểu lao động xã hội và quản lý không tách rời nhau và quản
lý là lao động điều khiển lao động chung. Khi lao động xã hội đạt đến một
quy mô phát triển nhất định thì sự phân công lao động tất yếu sẽ dẫn đến việc
tách quản lý thành một hoạt động đặc biệt. Từ đó trong xã hội hình thành một
bộ phận trực tiếp sản xuất, một bộ phận khác chuyên hoạt động quản lý, hình
thành nghề quản lý (12).
Có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về nội dung,
thuật ngữ '' quản lý'', có thể nêu một số định nghĩa như sau: Theo lý luận của
Chủ nghĩa Mác-Lê nin về quản lý ''Quản lý xã hội một cách khoa học là sự tác
động có ý thức của chủ thể quản lý đối với toàn bộ hay những hệ thống khác
nhau của hệ thống xã hội trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn những
quy luật khách quan vốn có của nó nhằm đảm bảo cho nó hoạt động và phát
triển tối ưu theo mục đích đặt ra''. ''Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính
xác cái gì cần làm và làm cái đó như thế nào bằng phương pháp tốt nhất, rẻ
nhất''. (Wiliam Taylor).
Theo giáo trình quản lý của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
thì ''Quản lý là sự tác động của cơ quan quản lý vào đối tượng quản lý, tạo ra
sự chuyển biến của toàn bộ hệ thống hướng vào mục tiêu nhất định''. Quản lý
là một hệ thống xã hội mang tính khoa học và nghệ thuật tác động vào từng
thành tố của hệ bằng phương pháp thích hợp nhằm đạt mục tiêu đã đề ra
(Nguyễn Văn Lê - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Quản lý là
dạng lao động đặc biệt của người lãnh đạo, mang tính tổng hợp các loại lao
động trí óc, liên kết các bộ máy thành chỉnh thể thống nhất, điều hoà phối hợp
các khâu, các cấp quản lý hoạt động nhịp nhàng để tạo hiệu quả quản lý (Mai
Hữu Khuê - Học viện Hành chính Quốc gia).
8
Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: Quản lý là
sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến

khách thể quản lý (người bị quản lý) trong tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận
hành và đạt được mục đích của tổ chức. Các tác giả còn phân định rõ hơn về
hoạt động quản lý: là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng
các hoạt động (chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra.
Các nhà lý luận quản lý trên thế giới như: Frederich Wiliam Taylor
(1986-1915), Mỹ; Hemi Fayol (1841-1925), Pháp; Max Weler (1864-1920),
Đức, đều đã khẳng định: Quản lý là khoa học và đồng thời là nghệ thuật thúc
đẩy sự phát triển xã hội.
b. Biện pháp quản lý
Biện pháp quản lý một hoạt động xã hội là việc phân tích các mặt đúng
hoặc sai, tốt hoặc chưa tốt trong quản lý hoạt động đó để chỉ ra cách thức duy
trì và phát huy cái đúng, cái tốt, loại bỏ cái sai, cái chưa tốt; đồng thời bổ sung
cách làm mới tốt hơn để hoạt động đó có chất lượng và hiệu quả.
Muốn đề xuất biện pháp quản lý một hoạt động xã hội phải dựa trên cơ
sở lý luận và thực tiễn quản lý hoạt động đó để phân tích, đánh giá, lựa chọn
cách làm đúng đắn và hiệu quả nhất, hạn chế cái sai ở mức thấp nhất … làm
cho hoạt động đó có chất lượng và hiệu quả hơn. Mỗi cách thức giữ lại một
cách làm đúng và tốt, hoặc loại bỏ một cách làm sai và chưa tốt, hoặc bổ
sung, hoàn thiện một cách làm mới tốt hơn và đúng hơn là một biện pháp
quản lý có hiệu quả.
Biện pháp quản lý là yếu tố động thường được thay đổi theo đối tượng
và tình huống. Căn cứ vào tác động của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý,
biện pháp quản lý được chia thành 4 nhóm cơ bản là:
- Biện pháp thuyết phục
- Biện pháp hành chính - tổ chức
9
- Biện pháp kinh tế
- Biện pháp tâm lý - giáo dục
Vì vậy, trong thực tiễn hoạt động quản lý, chủ thể quản lý cần biết phối
hợp các biện pháp quản lý một cách linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả, có như

vậy mới đạt được mục tiêu đề ra của hoạt động quản lý.
1.1.2.2. Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
Giáo dục là một hiện tượng xã hội có lịch sử lâu đời và tồn tại song
hành cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Giáo dục là sản phẩm của
xã hội, đồng thời là một trong những nhân tố đánh dấu nấc thang trình độ văn
minh của các thời đại trong lịch sử.
Trong sách ''Giáo dục học'' của A.Ilinna, nhà giáo dục học Xô Viết cho
rằng: Giáo dục là một quá trình truyền thụ kinh nghiệm lịch sử - xã hội cho
các thế hệ mới, nhằm chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống xã hội và bước
vào lao động sản xuất .
Ở Việt Nam, Hà Thế Ngữ cũng đưa ra khái niệm về giáo dục tương tự.
Ông viết: Giáo dục là quá trình đào tạo con người có mục đích, nhằm chuẩn
bị cho con người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất bằng
cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội
của loài người (28) .
Như vậy, theo nghĩa chung nhất Giáo dục là quá trình truyền đạt và
lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và những kinh nghiệm nhằm chuẩn bị
cho con người bước vào lao động và sinh hoạt xã hội; là một nhu cầu tất yếu
của xã hội loài người, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người
trong xã hội.
Trong thời đại ngày nay các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam,
đều ghi nhận và thừa nhận vị trí, vai trò to lớn của Giáo dục đối với sự phát
triển của xã hội loài người, đối với việc hình thành phát triển nhân cách và
phẩm giá con người. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt
10
Nam khẳng định: Giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
kinh tế-xã hội; giáo dục là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư
cho phát triển bền vững. Do đó quản lý giáo dục đã trở thành chương trình
nghị sự, trở thành mối quan tâm thường xuyên của Đảng và Nhà nước ta.
Quản lý Giáo dục là một bộ phận của quản lý xã hội, cùng với sự đi lên của tổ

chức xã hội, khoa học quản lý ngày càng phát triển mạnh mẽ và có ý nghĩa
quyết định trong mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
Trong cuốn sách Quản lý nhà nước về giáo dục lý luận và thực tiễn do
Đặng Bá Lãm chủ biên: Quản lý nhà nước về giáo dục là quản lý theo ngành
do một cơ quan trung ương đại diện cho Nhà nước là Bộ Giáo dục và Đào
tạo thực hiện. Đó là việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế
và chính sách phát triển giáo dục và đào tạo của đất nước, phù hợp với sự
phát triển kinh tế - xã hội nước nhà và của thời đại cũng như tổ chức thực
hiện thành công các vấn đề đó, nhằm không ngừng nâng cao trình độ dân trí
của dân và tạo cho đất nước một đội ngũ nhân lực có trình độ cao, bảo đảm
thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Do đó có thể thống nhất quan niệm: Quản lý Giáo dục là hoạt động
điều hành, phối hợp các lực lượng giáo dục nhằm đẩy mạnh công tác giáo
dục, đào tạo thể hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội.
Quản lý giáo dục bao gồm:
Chủ thể quản lý: Bộ máy giáo dục các cấp.
Khách thể quản lý: Hệ thống giáo dục quốc dân, các trường học.
Quan hệ quản lý là những mối quan hệ giữa người dạy - người học;
quan hệ giữa người quản lý với người dạy, người học; quan hệ giữa người dạy
với người dạy; quan hệ giữa giáo giới với cộng đồng v.v Các mối quan hệ đó
có ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, chất lượng hoạt động của nhà trường,
của toàn bộ hệ thống giáo dục.
11
Xét về mặt khoa học thì quản lý giáo dục là sự điều khiển toàn bộ
những hoạt động của cộng đồng, điều khiển quá trình dạy và học nhằm tạo ra
những con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức
khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, phục vụ cho sự phát triển của xã hội.
Quản lý nhà trường quá trình tổ chức và điều khiển sự quản lý nhà
trường, nghiên cứu quá trình tổ chức, điều khiển sự nghiệp giáo dục nhà

trường thuộc các cấp học khác nhau từ đơn vị trường học đến hệ thống giáo
dục cả nước. Nghiên cứu bản chất, cấu trúc, các quy trình vận hành quá trình
đó, xác định nội dung, nguyên tắc và triển vọng phát triển của quá trình này
chính là nền tảng để xây dựng nên lý luận về quản lý nhà trường. Từ đó, hoàn
thiện cái cũ, xây dựng cái mới trong các hình thức tổ chức, phương pháp, biện
pháp hoạt động quản lý. Cốt lõi của lý luận quản lý nhà trường là những vấn
đề quản lý của nội bộ nhà trường, đặc biệt là những vấn đề tổ chức và lãnh
đạo quá trình sư phạm trong nhà trường.
1.1.2.3. Dạy học
Trong quá trình phát triển của giáo dục và nhà trường, dạy học tồn tại
như một hiện tượng xã hội, một quá trình hoạt động phối hợp giữa người dạy
và người học. Nhờ đó mà mỗi cá nhân có thể làm phong phú hơn kinh nghiệm
của mình bằng kho tàng trí tuệ của nhân loại thông qua quá trình dạy học.
Dạy học là một khái niệm chỉ hoạt động chung của người dạy và người
học. Đó là quá trình hoạt động phối hợp giữa người học và người dạy nhằm
giúp cho người học lĩnh hội một cách có hệ thống những tri thức khoa học, kỹ
năng, kỹ xảo của hoạt động nhận thức và thực tiễn, phát triển các năng lực
hoạt động sáng tạo. Trên cơ sở đó hình thành thế giới quan và các phẩm chất
nhân cách của người học theo mục đích giáo dục.
Dạy học ngày nay đang dần trở thành một ngành khoa học giáo dục độc
lập, để nghiên cứu về bản chất và tính quy luật của quá trình dạy học, thiết kế
12
nội dung, học vấn, các nguyên tắc, các phương pháp, các hình thức tổ chức,
phương tiện dạy học, đánh giá kết quả học tập của người học.
1.1.2.4. Hoạt động dạy học
Hoạt động dạy học là khái niệm chỉ hoạt động chung của người dạy và
người học, hai hoạt động này song song cùng tồn tại và phát triển trong một
quá trình thống nhất. Quá trình này là bộ phận hữu cơ của quá trình tổng thể,
trong đó:
Nhà sư phạm giữ vai trò chủ đạo: định hướng, tổ chức thực hiện việc

truyền thụ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đến người học một cách hợp lý.
Người học với tư cách là chủ thể sáng tạo, hình thành nhân cách của
bản thân: người học ý thức, tổ chức quá trình tiếp thu một cách độc lập, sáng
tạo các hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, nhằm hình thành năng lực và thái
độ đúng, tạo ra động lực của việc học.
Theo quan điểm tiếp cận hệ thống thì vai trò chủ đạo của giáo viên luôn
có ý nghĩa đặc biệt đối với việc đảm bảo chất lượng người học. Vai trò chủ
động, tích cực, năng động của người học trong quá trình học tập có tính chất
quyết định đối với sự phát triển trí tuệ, lĩnh hội kiến thức và hoàn thiện nhân
cách của bản thân với ý nghĩa là chủ thể sáng tạo không thể thay thế. Vì thế
hoạt động dạy học là hai mặt của một quá trình bổ sung cho nhau, cái này chế
ước và là tác động quan trọng của cái kia, kích thích động lực bên trong của
mỗi chủ thể phát triển.
1.1.2.5. Quản lý hoạt động dạy học
Là tổ chức một cách có khoa học cho lao động dạy học, bao gồm các
hoạt động của một tập thể (giáo viên, học sinh), cũng như công việc chuyên
môn từng người. Biện pháp quản lý hoạt động dạy học là cách thức thực hiện
trên các nội dung giảng dạy và học tập cụ thể theo kế hoạch dạy học và các
chương trình môn học quy định đề ra. Đó là cách sử dụng những phương tiện,
nguồn lực vật chất và tinh thần để tạo ra các tác động hướng đích, nhằm đạt
13
mục tiêu dạy học chất lượng và đạt hiệu quả cao, bao gồm trong đó cả việc
thực hiện đổi mới phương pháp dạy học.
Quản lý (Tổ chức, chỉ đạo) hoạt động dạy học bao gồm các nội dung cơ bản:
- Xác định mục tiêu các hoạt động dạy học
- Xây dựng kế hoạch dạy học
- Tổ chức, lựa chọn, tập hợp, bồi dưỡng lực lượng giáo viên
- Động viên, thúc đẩy, tạo động lực, tạo điều kiện làm việc cho các
thành viên (giáo viên, học sinh, CBQL, nhân viên)
- Giám sát, điều hành, uốn nắn, định hướng hoạt động giảng dạy và học tập.

- Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm, rút ra bài học (Về thành công và
hạn chế) để triển khai tiếp hoặc chấm dứt
- Trong điều kiện đổi mới giáo dục - dạy học hiện nay, nội dung quản
lý hoạt động giảng dạy và học tập bao gồm cả việc tổ chức thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học. Đây chính là một nội dung vừa có tính lâu dài, vừa có
tính thường xuyên của mỗi nhà trường, đồng thời cũng là một nội dung quan
trọng số một của hiệu trưởng các trường phổ thông hiện nay. Bên cạnh đó, thì
việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, tạo động cơ thúc đẩy, nâng cao
động lực lao động có vị trí quan trọng của quá trình quản lý các hoạt động
dạy học.
Thiết bị dạy học là 1 trong 6 thành tố quan trọng của quá trình dạy học,
đó là:
Mục tiêu dạy học
Nội dung dạy học
Phương pháp dạy học
Thiết bị dạy học
Kiểm tra và đánh giá kết quả học tập
Môi trường dạy và học
14
Đổi mới phương pháp dạy học lần này thực chất là đặt học sinh vào vị
trí chủ thể của hoạt động nhận thức. Sách giáo khoa hiện nay còn viết theo
tinh thần đó. Muốn đổi mới phương pháp dạy học thì nhất thiết phải có thiết
bị dạy học. Vấn đề quan trọng của Giáo dục hiện nay là đổi mới phương pháp
dạy học trong đó Thiết bị dạy học đóng vai trò rất quan trọng. Nhiều tác giả
sách giáo khoa các môn khoa học tự nhiên đã nhấn mạnh: Nếu dạy học mà
không có thiết bị dạy học thì đổi mới phương pháp dạy học lần này sẽ bị thất
bại.
Thấm nhuần tinh thần đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cấp kinh phí và
chỉ đạo các cơ sở Giáo dục dành một số ngân sách khá lớn: Hàng trăm ngàn tỉ
đồng để mua sắm thiết bị dạy học và đang triển khai dạy học theo Phòng học

bộ môn theo quyết định số 37/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Tuy vậy do nhận thức của một số lãnh đạo và một số giáo viên nên vấn
đề bảo quản và sử dụng thiết bị dạy học hiện nay đang còn bị lãng phí và điều
đó ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học nói riêng, chất lượng giáo dục toàn
diện nói chung.
Là những cán bộ quản lí giáo dục, hơn ai hết chúng ta phải là người
hiểu biết một cách sâu sắc về thiết bị dạy học, cách quản lí và sử dụng thiết bị
dạy học và dạy học theo phương thức phòng học bộ môn. Chỉ có như vậy
chúng ta mới chỉ đạo được giáo viên trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng
thiết bị dạy học để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
1.1.2.6. Khái niệm phòng học bộ môn
Đã có nhiều cách định nghĩa về phòng học bộ môn .
Do điều kiện phát triển về kinh tế, xã hội của mỗi nước khác nhau nên
quan niệm về phòng học bộ môn còn có một vài điểm khác nhau:
Ở Nga: phòng học bộ môn là phòng học được trang bị những tài liệu
trực quan, những thiết bị học tập, bàn ghế và các dụng cụ khác phục vụ học
tập mà ở đó chúng được sử dụng một cách tích cực trong bài học, trong giờ
15
ngoại khóa và công tác giáo dục học sinh được tiến hành một cách có hệ
thống với mức độ khoa học cao về các vấn đề hoàn thiện quá trình giáo dục
trong nhà trường; (13)
Ở Singapo: phòng học bộ môn là phòng học cho từng môn với những
môn có nhiều thiết bị dạy học hoặc cho một vài môn với những môn có ít
phòng học bộ môn hoặc những môn có nội dung gần nhau và cách dạy và
cách học còn tương tự như nhau…; (13)
Ở Hoa Kỳ: PHBM là phòng học chuyên dùng cho từng môn học;
Ở Việt Nam: theo quan điểm của Trần Doãn Quới: Phòng học bộ môn
= Phòng học + phòng thí nghiệm hay phòng trang thiết bị theo từng môn học;
Tại thời điểm hiện nay ở Việt Nam thì:
Phòng học bộ môn là phòng học được trang bị hệ thống thiết bị dạy học

bộ môn và hệ thống các phương tiện kỹ thuật được lắp đặt phù hợp với bộ
môn để giáo viên và học sinh sử dụng thuận lợi, đảm bảo chất lượng giáo dục;
Phòng thí nghiệm thực hành bộ môn được trang bị và sử dụng như
phòng học bộ môn .
Phòng học bộ môn là phòng học cho từng bộ môn hoặc liên môn, tại
phòng đó được trang bị hệ thống phương tiện nghe nhìn, hệ thống thiết bị dạy
học, hệ thống bàn ghế phù hợp đặc trưng bộ môn.
Như vậy chúng ta có thể hiểu:
Phòng học bộ môn là phòng học riêng cho từng bộ môn hoặc liên môn,
tại phòng đó được trang bị hệ thống phương tiện nghe nhìn và hệ thống thiết
bị dạy học, hệ thống bàn ghế phù hợp đặc trưng bộ môn. Cụ thể là:
Với những môn khoa học thực nghiệm thì hệ thống nghe nhìn được lắp
đặt cố định, hệ thống thiết bị dạy học được chuẩn bị, hệ thống bàn ghế phù
hợp với từng môn học (Lí, Hóa, Sinh, Công nghệ)
Với các môn khoa học xã hội, phòng có hệ thống nghe nhìn dùng chung.
16
Với các môn đặc thù: (Tin học, Ngoại ngữ, Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể
dục) thì hệ thống phòng học, bàn ghế, thiết bị còn theo đặc thù riêng.
a. Quá Trình hình thành và phát triển phòng học bộ môn
- Trên thế giới
Từ những năm đầu thế kỷ XX, các phòng học các môn khoa học tự
nhiên và phòng thí nghiệm đã được xây dựng ở trường phổ thông của nhiều
nước trên thế giới. Tuy nhiên từ những năm 60 của thế kỷ trước, các phòng
học loại này mới được chú ý trang bị hệ thống đồ gỗ (bàn, ghế, tủ, bảng,
giá…) nhằm tổ chức hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh, bảo
quản và sử dụng thiết bị dạy học, các phòng học đó phải đảm bảo được các
yêu cầu vệ sinh và an toàn học đường, người ta gọi là phòng học bộ môn, có
nước lại gọi là Phòng bộ môn. Còn từ đó khái niệm về phòng học bộ môn
luôn được hoàn thiện.
Trong cuốn “Bách khoa toàn thư giáo dục nghề” của Liên Xô (Xuất bản

1998) cho rằng: “Phòng trong trường nghề dùng để tiến hành các bài học
trong và ngoài giờ về một môn học (hoặc vài môn học) nhất định. Theo kế
hoạch và chương trình học, phòng bộ môn được trang bị tài liệu học tập, đồ
gỗ và thiết bị”. ở đây cho ta thấy phòng học đã được phân chia theo môn học
(hoặc vài môn học). Theo X.G. Sapôvalenkô (Viện sỹ hàn lâm khoa học giáo
dục Liên Xô) quan niệm: "Phòng học bộ môn là những phòng học được trang
bị những tài liệu trực quan, những thiết bị học tập, bàn ghế và các dụng cụ
khác phục vụ học tập mà ở đó chúng được sử dụng một cách tích cực trong
bài học, trong giờ ngoại khóa và giáo trình tự chọn và công tác giáo dục học
sinh được tiến hành một cách có hệ thống với mức độ khoa học cao về các
vấn đề hoàn thiện quá trình giáo dục trong nhà trường”.
- Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, phòng học bộ môn cho các môn Lý – Hoá - Sinh và phòng
học trong trường nghề đã xuất hiện ở một số trường của Thực dân Pháp. Tuy
17
nhiên việc nghiên cứu về phòng học bộ môn mới chỉ từ năm 1975 trở lại đây
nhưng còn không được đầy đủ. Trong bài “Mấy ý kiến bước đầu về việc xây
dựng trường sở theo hệ thống phòng bộ môn” (Nguyễn Gia Cốc – TC NCGD
số 11/75) nêu rõ bản chất của sự thay đổi tổ chức phòng học là “thay thế
nguyên tắc phân chia phòng học theo lớp bằng nguyên tắc phân chia phòng
học theo bộ môn”.
b. Đặc trưng cơ bản của Phòng học bộ môn
Để thấy rõ đặc trưng cơ bản của phòng học bộ môn , chúng ta hãy so
sánh phòng học bộ môn với phòng học thường và phòng thí nghiệm.
Phòng học thường (phòng học truyền thống)
Thiết kế phòng học nhỏ, hẹp và đơn giản
Chỉ có bảng, bàn ghế giáo viên và học sinh, không có hệ thống phương
tiện nghe nhìn.
Phòng học cố định và học sinh không di chuyển, giáo viên bộ môn di
chuyển theo thời khóa biểu.

Giáo viên tự mang thiết bị dạy học đến lớp học nếu nội dung bài giảng
có thiết bị.
Phù hợp với kiểu dạy chay: Thầy đọc, trò chép, trò thụ động, bài học
không có hoặc có thí nghiệm không đáng kể.
Phù hợp với những bài học thuần túy lí thuyết hoặc một số giờ khoa
học xã hội (chương trình cũ) mà nội dung bài học không cần sử dụng thiết bị
dạy học hay các phương tiện nghe nhìn.
Hiệu quả giờ dạy thấp.
Giáo viên bộ môn không vất vả nếu nội dung bài học không có thiết bị
dạy học hoặc không sử dụng thiết bị dạy học.
Dễ xếp thời khóa biểu.
Kiểu dạy chay tạị phòng học thường đã có từ rất lâu ở nước ta.
- Phòng thí nghiệm
18
Là nơi giáo viên và học sinh tiến hành thí nghiệm, đặc biệt phù hợp với
các môn Lý, Hóa, Sinh, Công nghệ.
Phòng phải đảm bảo các tiêu chuẩn cơ sở vật chất cần thiết như phòng
ốc, ánh sáng, độ thông thoáng, độ an toàn, hệ thống điện nước, hệ thống bàn
ghế mặt bằng
Hệ thống thiết bị dạy học được chuẩn bị sẵn
Phòng học cố định, giáo viên và học sinh chỉ đến phòng thí nghiệm làm
thí nghiệm với những bài có thí nghiệm. Điều này thường tiến hành sau mỗi
chương, mỗi phần trong chương trình từng môn học.
Phù hợp với những môn có bài thí nghiệm thực hành đồng loạt.
Giáo viên và phụ tá thí nghiệm phải chuẩn bị trước với những bài có thí
nghiệm.
Hiệu quả giờ dạy cao hơn kiểu dạy chay, nhất là các môn khoa học tự nhiên.
Dễ xếp thời khóa biểu
Mô hình phòng thí nghiệm thường thấy ở các trường hiện nay.
- Phòng học bộ môn.

Đặc điểm chung của phòng học bộ môn là giáo viên bộ môn và thiết bị dạy
học không di chuyển, còn học sinh thì di chuyển chỗ học theo thời khóa biểu.
Với những môn khoa học thực nghiệm (Lí, Hóa, Sinh, Công nghệ) có
nhiều thiết bị dạy học và phải tiến hành nhiều thí nghiệm thực hành.thì:
Phòng học bộ môn bao gồm 2 phòng: Phòng học và làm thí nghiệm + phòng
chứa thiết bị dạy học đồng thời là nơi chuẩn bị thí nghiệm.(Theo sơ đồ sau)
19
Phòng học và làm
thí nghiệm
Phòng chứa TB và
chuẩn bị Thí nghiệm

Mô hình phòng học bộ môn
Phòng học và làm thí nghiệm phải đảm bảo các điều kiện tiêu chuẩn tối
thiểu về cơ sở vật chất như phòng thí nghiệm. Hệ thống phương tiện nghe
nhìn được lắp đặt cố định, hệ thống thiết bị dạy học bộ môn được chuẩn bị
trước, hệ thống bàn ghế phù hợp đặc trưng bộ môn.
Phòng chứa và chuẩn bị thí nghiệm phải có hệ thống giá và tủ chứa
thiết bị dạy học, có bàn chuẩn bị thí nghiệm, có xe đẩy chuyển các thiết bị ra
phòng học.
Có phụ tá thí nghiệm.
Hiệu quả giờ dạy rất cao.
Khó xếp thời khoá biểu với những trường nhiều lớp nhưng ít phòng học.
Với những môn khoa học xã hội có thể bố trí một vài môn cho một
phòng học bộ môn. Trang bị thiết bị dạy học còn tùy theo yêu cầu của từng
môn học, tuy nhiên cần có hệ thống nghe nhìn đa năng dùng chung.
Với những môn đặc thù (Tin học, Ngoại ngữ, Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể
dục) thì hệ thống bàn ghế và các phương tiện nghe nhìn, thiết bị dạy học có
tính đặc thù riêng phù hợp từng môn học.
1.1.2.7. Ưu điểm và khó khăn khi dạy học theo Phòng học bộ môn

So với kiểu dạy học truyền thống thì phòng học bộ môn có những ưu điểm
chính như sau:
a. Ưu điểm
- Thiết bị dạy học được bảo quản tốt nhất. Phòng học bộ môn của các
môn có nhiều thiết bị dạy học thì ngay bên cạnh là phòng chứa thiết bị dạy
học và là nơi chuẩn bị thí nghiệm. ở đó thiết bị dạy học được sắp đặt một cách
khoa học (Gọn gàng, ngăn nắp, dể tìm, dễ cất ). Các tủ và giá đựng thiết bị là
những tủ và giá chuyên dùng theo tiêu chuẩn quy định. Phòng ốc còn được
xây dựng theo kích thước và tiêu chuẩn chung. Có các loại tủ chỉ để hóa chất,
20

×