Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Quản lý hoạt động dạy học theo Chuẩn kiến thức, kỹ năng ở các trường THPT tỉnh Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.09 KB, 116 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa
(CNH – HĐH) với mục tiêu đến năm 2020 sẽ cơ bản trở thành một nước công
nghiệp. Trong đó nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định thắng lợi của công
cuộc CNH – HĐH và hội nhập quốc tế là con người. Vì vậy phải chăm lo đến
nguồn lực người, chuẩn bị lớp người lao động có những phẩm chất và năng
lực đáp ứng yêu cầu xã hội, việc này cần được bắt đầu từ giáo dục phổ thông.
Trong những năm qua, giáo dục & đào tạo (GD&ĐT) đã có những thay
đổi, phát triển theo hướng nâng cao chất lượng để hội nhập quốc tế sâu sắc.
Bộ GD&ĐT đã tiến hành nhiều cuộc đổi mới ở các bậc học, trong đó có đổi
mới giáo dục phổ thông.
Ngày 5 tháng 5 năm 2006, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành quyết
định số 16/2006/QĐ-BGDĐT về Chương trình Giáo dục phổ thông. Chương
trình giáo dục phổ thông là kết quả của sự điều chỉnh, hoàn thiện, tổ chức lại
các chương trình đã được ban hành, làm căn cứ cho việc quản lý, chỉ đạo, tổ
chức dạy học và kiểm tra, đánh giá ở tất cả các cấp học, trường học trên phạm
vi cả nước.
Tuy nhiên có một thực tế là khả năng tiếp thu bài học của HS phổ
thông ở các vùng miền trên cả nước, ở trong một địa phương và ngay trong
một nhà trường là không đồng đều. Chính vì vậy cần phải có một yêu cầu
thống nhất trên cả nước về mức độ kiến thức, kỹ năng tối thiểu HS cần đạt
được, trên nền tảng đó, tùy theo đối tượng HS mà GV đề ra những yêu cầu
cao hơn.
Xuất phát từ những vấn đề nói trên, Chuẩn kiến thức, kỹ năng đã được
đưa vào thành phần của Chương trình Giáo dục phổ thông ban hành năm
1
2006 theo quyết định 16/2006/QĐ-BGDĐT nhằm đảm bảo việc chỉ đạo dạy
học, kiểm tra, đánh giá theo Chuẩn kiến thức, kỹ năng, tạo nên sự thống nhất
trong cả nước; góp phần khắc phục tình trạng quá tải trong giảng dạy, học tập;
giảm thiểu dạy thêm, học thêm, từng bước ổn định và nâng cao chất lượng


giáo dục.
Trong những năm đầu thực hiện, không chỉ có HS mà cả GV, CBQL
cũng còn gặp khó khăn về việc dạy học, chỉ đạo dạy học theo Chuẩn KT -
KN. Chính vì vậy, dạy học và chỉ đạo hoạt động dạy học theo Chuẩn KT -
KN là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong nhà trường THPT. Chuẩn KT -
KN sẽ giúp HS tiếp thu kiến thức thuận lợi, phù hợp với khả năng nhận thức
của mình; giúp GV thực hiện nhiệm vụ truyền đạt kiến thức tốt hơn, đồng thời
giúp người CBQL nói chung, các hiệu trưởng nói riêng đánh giá chính xác
hơn kết quả giảng dạy của GV, và là cơ sở quan trọng để tiến hành đánh giá
kết quả học tập của HS.
Nhìn chung ở các trường phổ thông hiện nay, bước đầu đã vận dụng
được Chuẩn KT - KN trong giảng dạy, học tập, kiểm tra, đánh giá; song về
tổng thể vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của đổi mới giáo dục phổ thông,
nhiều GV vẫn còn nhầm lẫn giữa SGK và Chuẩn KT - KN, dẫn đến tình trạng
thiết kế bài học lộn xộn, không đồng nhất, dạy học “quá tải” gây chán học,
mệt mỏi, mất hứng thú ở HS. Chương trình giáo dục phổ thông, trong đó có
Chuẩn KT - KN là căn cứ quan trọng để thực hiện chuẩn hóa nội dung dạy
học. Biết, hiểu và triển khai các hoạt động chỉ đạo quản lý giáo dục, quản lý
dạy học theo Chương trình giáo dục phổ thông, theo Chuẩn KT - KN là nhiệm
vụ hàng đầu của hiệu trưởng nhà trường.
Chuẩn KT - KN đã được thực hiện trong dạy học ở một số trường
THPT tỉnh Hưng Yên từ năm học 2007 – 2008, và thực hiện đồng bộ ở tất cả
các trường THPT trong toàn tỉnh từ năm học 2010 – 2011. Tuy nhiên, cho đến
2
nay theo tài liệu mà chúng tôi có được thì ở tỉnh Hưng Yên chưa có tác giả
nào nghiên cứu sâu về vấn đề này. Vì vậy, trong khuôn khổ luận văn này
chúng tôi muốn đi sâu hơn về cơ sở lí luận của công tác quản lý hoạt động
dạy học, để tìm hiểu thực trạng quản lý hoạt động dạy học theo Chuẩn KT -
KN ở tỉnh Hưng Yên, từ đó đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động
dạy học theo Chuẩn KT - KN nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới của giáo dục

hiện nay.
Với lí do trên chúng tôi chọn đề tài “Quản lý hoạt động dạy học theo
Chuẩn kiến thức, kỹ năng ở các trường THPT tỉnh Hưng Yên”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu hai vấn đề chính:
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác quản lý hoạt động dạy học
của hiệu trưởng trường THPT.
- Các biện pháp quản lý hoạt động dạy học theo Chuẩn KT – KN
nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục THPT và
nâng cao chất lượng dạy học.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu biện pháp quản lý hoạt động dạy học theo Chuẩn KT - KN
ở các trường THPT tỉnh Hưng Yên.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu công tác quản lý hoạt động dạy học ở trường THPT của
tỉnh Hưng Yên.
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, dạy học theo Chuẩn KT - KN đã được triển khai đồng loạt
trên phạm vi cả nước, ở tất cả các trường THPT, nhưng công tác quản lý hoạt
động dạy học của hiệu trưởng trường THPT theo Chuẩn KT - KN còn thiếu
3
đồng bộ và bất cập. Nếu nghiên cứu tìm ra các biện pháp quản lý hoạt động
dạy học theo Chuẩn KT - KN một cách đồng bộ và hiệu quả sẽ thực hiện
được những mục đích, yêu cầu dạy học theo Chuẩn, từ đó nâng cao chất
lượng giáo dục ở các trường THPT trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản lý hoạt động dạy học
theo Chuẩn KT - KN ở các trường THPT tỉnh Hưng Yên.
5.2. Nghiên cứu thực trạng hoạt động dạy học, quản lý hoạt động dạy

học theo Chuẩn KT - KN ở các trường THPT tỉnh Hưng Yên.
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học theo Chuẩn
KT - KN ở các trường THPT tỉnh Hưng Yên.
6. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vào thực trạng hoạt động chỉ đạo quản
lý dạy học theo Chuẩn KT - KN và các biện pháp quản lý hoạt động dạy học
của GV theo Chuẩn KT - KN ở 03 trường THPT tỉnh Hưng Yên, đó là các
trường THPT Hưng Yên, Tiên Lữ, Nam Phù Cừ.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
- Tìm hiểu các khái niệm, thuật ngữ có liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu các văn bản, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và Nhà nước
về GD&ĐT, của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT Hưng Yên.
- Các tài liệu lý luận khoa học khác có liên quan đến đề tài.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát (hoạt động dạy và học của GV, HS).
- Phương pháp điều tra, khảo sát: xây dựng phiếu điều tra, phỏng vấn
trực tiếp các đối tượng BGH, tổ trưởng chuyên môn và GV các bộ môn. Quá
trình điều tra được tiến hành theo các bước sau:
4
Bước 1: xây dựng phiếu điều tra.
Bước 2: tiến hành điều tra.
Bước 3: thu thập phiếu điều tra và xử lí số liệu.
- Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
- Phương pháp chuyên gia: xin ý kiến của các chuyên gia có kinh
nghiệm về lĩnh vực này gồm CBQL của Vụ THPT, Viện Chiến lược giáo dục,
Học viện Quản lý giáo dục, Sở GD&ĐT Hưng Yên, các trường THPT tỉnh
Hưng Yên.
7.3. Nhóm các phương pháp xử lí số liệu
Dùng phương pháp thống kê toán học để phân tích, tổng hợp các số liệu

mà đề tài đã nghiên cứu.
8. Cấu trúc luận văn
Luận văn bao gồm các phần: Mở đầu, Kết luận & khuyến nghị, Tài liệu
tham khảo, Phụ lục. Phần Nội dung được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học theo Chuẩn
kiến thức, kỹ năng
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động dạy học theo Chuẩn kiến
thức, kỹ năng ở các trường THPT tỉnh Hưng Yên
Chương 3: Các biện pháp quản lý hoạt động dạy học theo Chuẩn kiến
thức, kỹ năng ở các trường THPT tỉnh Hưng Yên
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
THEO CHUẨN KIẾN THỨC KỸ NĂNG Ở TRƯỜNG THPT
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, giáo dục luôn là một lĩnh
vực mà ở bất kỳ thời đại nào, quốc gia nào cũng coi trọng, thu hút được sự
quan tâm, nghiên cứu của các nhà khoa học. Tuy nhiên, nghiên cứu các vấn
đề trong giáo dục không phải là điều dễ dàng, vì những vấn đề đó luôn có sự
gắn bó chặt chẽ với những lĩnh vực khác trong xã hội. Chính vì vậy, nghiên
cứu các biện pháp quản lý hoạt động dạy học nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục là một vấn đề khó khăn và phức tạp.
Đối với giáo dục, muốn nâng cao chất lượng giáo dục nói chung thì
trước hết phải nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường. Để nâng cao
chất lượng giảng dạy, vai trò của các biện pháp quản lý là hết sức quan trọng.
Các nhà nghiên cứu giáo dục trong và ngoài nước đã nghiên cứu thực tiễn
quản lý nhà trường để tìm ra các biện pháp quản lý hiệu quả nhất.
Ở Việt Nam, giáo dục và quản lý giáo dục đã được coi trọng từ rất sớm.
Ngay từ thời nhà Lý, Văn miếu Quốc tử giám đã được xây dựng trở thành nơi

đào tạo nhân tài cho đất nước và trong suốt thời kỳ phong kiến, nhiều người
thầy nổi tiếng đã được bổ nhiệm làm Tế tửu, chịu trách nhiệm giảng dạy và
quản lý trường đại học đầu tiên này.
Sau khi đất nước giành được độc lập, một trong những mục tiêu quan
trọng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra là “diệt giặc dốt”, Bác đã
thấy rõ được tầm quan trọng của giáo dục đối với công cuộc xây dựng và bảo
6
vệ nền độc lập của nước nhà. Từ đó đến nay, Đảng ta coi giáo dục là quốc
sách hàng đầu. Chính vì vậy mà kể từ sau Đổi mới (1986), Đảng ta tiếp tục
khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục trong chiến lược phát triển KT –
XH của đất nước. Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta
thể hiện quan điểm: “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi
mới nội dung, phương pháp dạy và học” [31,35] . Muốn làm được điều này
trước hết phải nâng cao chất lượng quản lý của lãnh đạo nhà trường, nhất là
của Hiệu trưởng đối với hoạt động dạy học trong nhà trường.
Đã có nhiều nhà sư phạm nước ta nghiên cứu về vấn đề này. Các tác
giả đưa ra các vấn đề về vai trò của nhà quản lý trong công tác quản lý trường
học; bản chất và mối quan hệ giữa các hoạt động dạy và mối quan hệ giữa các
hoạt động dạy và hoạt động học; vai trò của người dạy và người học; biện
pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý của lãnh đạo nhà trường (Nguyễn
Văn Lê, Nguyễn Thanh Phong, Đặng Vũ Hoạt, Hà Thế Ngữ, Trần Kiều, Trần
Kiểm, Nguyễn Phúc Châu, Nguyễn Quốc Chí …). Nhìn chung, các công trình
nghiên cứu đó dù nghiên cứu về lý luận dạy học, quản lý hoạt động dạy học,
khái quát hay cụ thể nhưng đều tập trung thống nhất ở chỗ làm thế nào để
nâng cao chất lượng dạy học.
Trong tiến trình đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, tháng 5
năm 2006, Bộ GD&ĐT đã ban hành Chương trình Giáo dục phổ thông.
Chương trình Giáo dục phổ thông là kết quả của sự điều chỉnh, hoàn thiện, tổ
chức lại các chương trình đã được ban hành, làm căn cứ cho việc quản lý, chỉ
đạo, tổ chức dạy học và kiểm tra, đánh giá ở tất cả các cấp học, trường học

trên phạm vi cả nước. Trong chương trình giáo dục phổ thông, lần đầu tiên
Chuẩn KT - KN được thể hiện, cụ thể hóa ở chương trình từng môn học, theo
từng lớp học.
7
Đối với mỗi quốc gia trên thế giới, khi tiến hành giảng dạy theo một
chương trình nào đó thì việc đầu tiên cần làm là đưa ra một hệ thống Chuẩn
để căn cứ vào đó thực hiện hoạt động dạy học cũng như kiểm tra, đánh giá
mức độ tiếp thu kiến thức của HS, tạo nên sự thống nhất về mục tiêu giáo dục
trên khắp đất nước. Tuy nhiên, do đặc trưng về kinh tế, xã hội, văn hóa, dân
cư … mà hệ thống Chuẩn ở các quốc gia có sự khác biệt.
Đối với Việt Nam, trong SGV ở đầu mỗi bài cũng đã có nêu lên những
yêu cầu về kiến thức, kỹ năng mà HS cần đạt được sau bài học, nhưng còn ở
mức khái quát, điều đó đã dẫn đến thực trạng dạy học ở các trường trên cả
nước không hoàn toàn thống nhất, gây khó khăn cho việc đánh giá một cách
chính xác, khách quan kết quả dạy của GV và kết quả học của HS.
Bước vào năm học 2010 – 2011, Bộ GD&ĐT đã ban hành tài liệu
Hướng dẫn thực hiện Chuẩn KT - KN và tiến hành tập huấn cho GV giảng
dạy ở bậc THPT, mục đích là tạo nên sự thống nhất chương trình trên phạm vi
cả nước, khắc phục tình trạng quá tải trong giảng dạy, học tập. Chuẩn KT -
KN đã được sử dụng làm căn cứ để chỉ đạo dạy học, kiểm tra, đánh giá, thay
thế cho vai trò của SGK và SGV (chỉ còn là tài liệu tham khảo chính).
Vì mới chính thức được thực hiện đại trà trên cả nước từ năm học 2010
– 2011 nên chưa có nhiều công trình nghiên cứu về các biện pháp quản lý
hoạt động dạy học theo Chuẩn KT - KN. Phần lớn mới chỉ dừng lại ở các bài
báo, các sáng kiến kinh nghiệm như “Dạy học trên cơ sở Chuẩn kiến thức, kĩ
năng của môn học” (PGS.TS Đỗ Đình Hoan - tạp chí KHGD số 29/2008) ;
“Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy học theo Chuẩn kiến thức kĩ năng” (Ngô
Minh Thành và Đinh Thị Kim Liên – Phòng Giáo dục Thành phố Hưng Yên –
tháng 5/2010) …
1.1.2. Sự cần thiết nghiên cứu vấn đề dạy học theo Chuẩn kiến thức, kỹ

năng đối với giáo dục phổ thông
8
Giáo dục phổ thông là nền tảng quan trọng để HS tiếp tục các bậc học
tiếp theo hoặc bước vào cuộc sống. Thành quả của giáo dục phổ thông có tác
dụng cơ bản, lâu dài, có tính chất quyết định đối với cuộc đời mỗi HS. Để tiếp
tục nâng cao chất lượng dạy học, tạo điều kiện thuận lợi cho GV và CBQL,
Bộ GD&ĐT đã ban hành bộ tài liệu “Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức kĩ
năng” các môn học. Đây là giải pháp cơ bản trong hệ thống các giải pháp
nhằm đảm bảo cho hoạt động dạy học ở bậc THPT đạt được các mục tiêu đề
ra, góp phần khắc phục tình trạng “quá tải”, giảm thiểu dạy thêm, học thêm.
Việc đặt ra yêu cầu dạy học theo Chuẩn, bám sát Chuẩn KT – KN xuất
phát từ thực trạng của hoạt động dạy học và từ khả năng tiếp nhận kiến thức
của HS. Đưa Chuẩn KT – KN vào thành phần của chương trình giáo dục phổ
thông tạo điều kiện để GV và HS thuận lợi hơn trong dạy và học, giúp hiệu
trưởng quản lý tốt hơn hoạt động dạy học của nhà trường, tạo ra nền tảng
bước đầu để tiến hành chuẩn hóa các lĩnh vực liên quan đến giáo dục. Bên
cạnh Chuẩn KT – KN các môn học, Bộ GD&ĐT cũng đưa ra Chuẩn hiệu
trưởng, Chuẩn GV …, tạo cơ sở để thực hiện thành công đổi mới giáo dục.
Tuy nhiên, việc dạy học theo Chuẩn KT - KN còn có nhiều bất cập, ảnh
hưởng đến hiệu quả và chất lượng giáo dục trong các nhà trường. Một bộ
phận CBQL ở các nhà trường chưa quan tâm đến “Chuẩn”, thường đánh giá
giờ dạy theo SGK. Nhiều GV chưa thực hiện giảng dạy theo Chuẩn KT - KN,
vẫn đưa vào tiết học cả những kiến thức không phù hợp với khả năng tiếp thu
của HS khiến bài học vừa khó,vừa dài trong khi quỹ thời gian chỉ có hạn. Một
số GV còn lúng túng khi sử dụng các tài liệu hướng dẫn dạy học theo Chuẩn
KT - KN để soạn giảng dẫn đến việc không biết lựa chọn kiến thức phù hợp
với từng đối tượng HS trong lớp khiến giờ học quá tải, kém hiệu quả.
Về phía HS, mức độ nhận thức của các em HS trong cùng một độ tuổi
là không đồng đều. Đây là một khó khăn lớn đối với GV và CBQL trong quá
9

trình dạy học và chỉ đạo thực hiện dạy học theo Chuẩn KT - KN. Làm thế nào
để hoàn thành tốt mục tiêu giáo dục? Làm thế nào để hoạt động dạy học
hướng đến tất cả đối tượng HS, giờ học khắc phục được tình trạng quá tải,
không bị sức ép vì thiếu thời gian, không khí lớp học bớt nặng nề, HS tự tin,
hứng thú học tập? Chúng tôi nhận thấy điều hết sức cần thiết là phải tìm ra
các biện pháp chỉ đạo, quản lí một cách hợp lí, kịp thời nhằm giúp việc dạy
học theo Chuẩn KT - KN đạt được các mục tiêu giáo dục đề ra.
Dạy học theo Chuẩn, bám sát Chuẩn KT - KN được triển khai và thực
hiện trên phạm vi cả nước dựa trên các cơ sở pháp lý như sau:
a. Ngày 5 tháng 5 năm 2006, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã kí quyết định
số 16/2006/QĐ-BGDĐT ban hành Chương trình giáo dục phổ thông trong đó
có Chuẩn KT - KN của từng môn học. Đây là căn cứ cho việc quản lý, chỉ
đạo, tổ chức dạy học và kiểm tra, đánh giá ở tất cả các cấp học, trường học
trên phạm vi cả nước.
b. Công văn số 7394/BGDĐT-GDTrH ngày 25 tháng 8 năm 2009 về
việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung học năm học 2009 – 2010.
Trong công văn số 7394, Bộ GD&ĐT yêu cầu các Sở GD&ĐT chỉ đạo các
trường THPT nghiêm túc thực hiện dạy học theo Chuẩn KT - KN.
c. Công văn số 64/BGDĐT-GDTrH ngày 06 tháng 01 năm 2010 về
việc hướng dẫn thực hiện Chuẩn KT - KN của chương trình giáo dục phổ
thông. Kèm theo công văn số 64 là bộ tài liệu “Hướng dẫn thực hiện chuẩn
kiến thức, kỹ năng” với tất cả các môn học.
d. Chỉ thị số 3398/CT-BGDĐT ngày 12 tháng 8 năm 2011 của Bộ
trưởng Bộ GD&ĐT về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục các cấp năm học
2011 - 2012, trong đó có giáo dục THPT.
10
e. Công văn số 5433, ngày 17 tháng 8 năm 2011 của Bộ GD&ĐT về
việc “Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2011 – 2012”.
1.2. Các khái niệm liên quan đến quản lý hoạt động dạy học theo Chuẩn
kiến thức, kỹ năng

1.2.1. Quản lý
Quản lý là nhân tố không thể thiếu được trong đời sống và sự phát triển
của xã hội. Con người trong quá trình hoạt động của mình, để đạt được mục
tiêu cá nhân phải dự kiến kế hoạch, sắp xếp trình tự tiến hành và tác động đến
đối tượng bằng cách nào đó theo khả năng của mình. Trong quá trình lao
động, đấu tranh với thiên nhiên để sinh tồn và phát triển, con người cần phải
hợp sức nhau lại để tự vệ hoặc lao động kiếm sống. Bên cạnh lao động chung
của mọi người, đã xuất hiện những hoạt động tổ chức, phối hợp, điều khiển
hoạt động của mọi người nhằm thực hiện những mục tiêu chung đã định và từ
đó tư duy về quản lý ra đời như là một tất yếu trong điều chỉnh các mối quan
hệ xã hội.
Các Mác đã thừa nhận: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao
động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều
cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện
những chức năng chung phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể khác với sự
vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự
mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng” [20,1].
Có nhiều khái niệm về quản lý, theo từ điển Tiếng Việt, quản lý (hiểu
theo ý nghĩa là một động từ) nghĩa là: tổ chức và điều khiển các hoạt động
theo những yêu cầu nhất định [36,800].
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý là những tác động chủ thể quản lý
trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các
nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội
11
lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất”
và “Quản lý một hệ thống xã hội là tác động có mục đích đến tập thể người –
thành viên của hệ - nhằm làm cho hệ vận hành thuận lợi và đạt tới mục đích
dự kiến” [24,15].
Tác giả Nguyễn Đức Trí khẳng định: “Quản lý là một quá trình tác
động có định hướng (có chủ định), có tổ chức, có lựa chọn trong số các tác

động có thể có, dựa trên các thông tin về tình trạng và môi trường, nhằm giữ
cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục
tiêu đã định” [46,14].
Ở mỗi góc độ tiếp cận, người ta có thể đưa ra một quan niệm quản lý
khác nhau. Nhìn chung, các khái niệm quản lý bao gồm những dấu hiệu đặc
trưng sau:
- Quản lý là hoạt động lao động, hoạt động này để điều khiển lao động.
- Trong quản lý, luôn có chủ thể quản lý và khách thể quản lý (đối
tượng quản lý) quan hệ với nhau bằng những tác động quản lý. Những tác
động quản lý chính là những quyết định quản lý, là những nội dung mà chủ
thể quản lý yêu cầu đối với khách thể quản lý.
- Quản lý là thuộc tính bất biến nội tại của mọi quá trình lao động xã
hội. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để xã hội tồn tại, vận hành và
phát triển.
- Quản lý phải có cấu trúc và vận động trong một môi trường xác định.
Hoạt động quản lý bao giờ cũng gắn với hoạt động có ý thức của con người
và toàn xã hội dưới tác động của hoàn cảnh nhằm định hướng sự vận động và
phát triển của đối tượng cần quản lý theo một mục đích nhất định.
Như vậy, quản lý bao giờ cũng tồn tại với tư cách là một hệ thống và nó
có liên quan đến nhiều yếu tố: các yếu tố cấu trúc và các yếu tố khác (tổ chức,
môi trường, quyền uy …).
1.2.2. Nhà trường và quản lý nhà trường THPT
1.2.2.1. Nhà trường
12
Trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác –
Lênin và xem xét quá trình lịch sử phát triển nhà trường trong tiến trình lịch
sử phát triển xã hội loài người cho thấy, nhà trường là một dạng thiết chế tổ
chức chuyên biệt và đặc thù của xã hội, được hình thành (thiết lập) do nhu cầu
tất yếu khách quan của xã hội nhằm thực hiện chức năng truyền thụ các kinh
nghiệm xã hội cần thiết cho từng nhóm dân cư nhất định trong cộng đồng và

xã hội.
Nhà trường được tổ chức và hoạt động với chức năng truyền thụ và lĩnh
hội tri thức nhân loại để nhằm mục tiêu tồn tại và phát triển cá nhân, phát
triển cộng đồng và phát triển xã hội.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì nhà trường nói một cách tổng quát là nơi
những người làm công tác quản lý, giảng dạy ở trường học [36,701].
Tác giả Nguyễn Phúc Châu trong chuyên luận quản lý nhà trường đã
viết: “Nhà trường là một thiết chế tổ chức chuyên biệt trong hệ thống tổ chức
xã hội thực hiện chức năng tái tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự duy trì và
phát triển của xã hội” [10,12].
Ở phạm vi khái quát, nhà trường được hiểu là tổ chức giáo dục cơ sở
mang tính nhà nước, xã hội, là nơi trực tiếp làm công tác đào tạo thế hệ trẻ, là
cơ quan giáo dục chuyên biệt, có đội ngũ các nhà giáo được đào tạo, nội dung
chương trình được chọn lọc, phương pháp giáo dục phù hợp với mọi lứa tuổi,
các phương tiện kỹ thuật phục vụ cho giáo dục, mục đích giáo dục của nhà
trường phù hợp với xu thế phát triển của xã hội và thời đại.
1.2.2.2. Quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau:
Theo Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối
của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận
13
hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo
đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và đối với từng học sinh” [16,61].
Quản lý nhà trường phổ thông trước hết là quản lý hoạt động dạy và
học, đưa hoạt động đó từ trạng thái này đến trạng thái khác để dần dần tiến tới
mục tiêu giáo dục.
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý trường học là quản lý tập thể
giáo viên và học sinh, để chính họ lại quản lý (đối với giáo viên) và tự quản
lý (đối với học sinh) quá trình dạy học – giáo dục, nhằm đào tạo ra sản phẩm
là nhân cách người lao động mới” [37,54].

Theo Nguyễn Phúc Châu: “Quản lý nhà trường (một cơ sở giáo dục) là
những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống và
hợp quy luật) của chủ thể quản lý nhà trường (hiệu trưởng) đến khách thể
quản lý nhà trường (giáo viên, nhân viên, người học, …) nhằm đưa các hoạt
động giáo dục và dạy học của nhà trường đạt tới mục tiêu giáo dục” [10,20].
Như vậy, quản lý nhà trường chính là quản lý giáo dục nhưng trong
một phạm vi xác định của một đơn vị giáo dục nền tảng là nhà trường. Do đó,
quản lý nhà trường phải vận dụng tất cả các nguyên lý chung của quản lý giáo
dục để đẩy mạnh hoạt động của nhà trường theo mục tiêu đào tạo.
Quản lý nhà trường phổ thông bao gồm: quản lý các quan hệ giữa nhà
trường và xã hội và quản lý chính nhà trường (quản lý bên trong nhà trường).
Quản lý bên trong nhà trường gồm: quản lý các quá trình giáo dục đào
tạo và quản lý các điều kiện (vật chất, tài chính, nhân lực …).
1.2.2.3. Quản lý trường THPT
Trường THPT là bậc học cuối cùng trong cấp phổ thông (cấp 3) của hệ
thống giáo dục quốc dân nhằm hoàn chỉnh học vấn phổ thông. Trường THPT
được thành lập với mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
14
nhân tài phục vụ nhiệm vụ chính trị, KT - XH và hoàn thiện nhân cách cho
mọi công dân.
Trường THPT hiện nay đang hoạt động dưới hai hình thức: công lập và
ngoài công lập (dân lập và tư thục). Dù hoạt động dưới hình thức cụ thể
nào, trường THPT cũng chịu sự quản lý của Nhà nước và cơ quan quản lý
giáo dục.
Theo tác giả Trần Hồng Quân: “Quản lý nhà trường phổ thông là quản
lý dạy và học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng
thái khác, để dần tiến tới mục tiêu giáo dục” [39,37].
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý trường phổ thông là tập hợp các
tác động tối ưu (công tác tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp) của
chủ thể quản lý đến tập thể cán bộ, giáo viên và học sinh nhằm tận dụng

nguồn nhân lực dự trữ do nhà nước đầu tư, các lực lượng xã hội đóng góp và
do hoạt động xây dựng vốn tự có hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động
của nhà trường và tiêu điểm hội tụ là đào tạo thế hệ trẻ, thực hiện có chất
lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên một trạng thái
mới” [38,43].
Chịu trách nhiệm quản lý trường THPT là hiệu trưởng nhà trường, giúp
việc cho hiệu trưởng là một số phó hiệu trưởng. Trong hoạt động quản lý nhà
trường, hiệu trưởng thực hiện các chức năng quản lý sau:
- Kế hoạch hóa: nêu lên mục tiêu phát triển nhà trường xây dựng kế
hoạch nhằm đạt mục tiêu đó.
- Tổ chức: dựa vào quy định của cấp trên, hiệu trưởng xây dựng cơ cấu
bộ máy, quy định mối quan hệ, sắp xếp GV nhằm phát huy tối đa năng lưc
của họ và ưu thế của bộ máy. Xây dựng các quy định nội bộ, các quan điểm
thực hiện để nhằm tạo được sự đồng bộ, đồng thuận.
15
- Chỉ đạo: hiệu trưởng điều khiển việc thực hiện theo kế hoạch, điều
chỉnh tốc độ, biên độ hướng tới đích, xác định ưu tiên và tập trung nguồn lực
cho thực hiện kế hoạch, lôi cuốn tập thể sư phạm và các lực lượng giáo dục,
phối hợp các nỗ lực của cả hệ thống. Quá trình chỉ đạo là quá trình sử dụng
các biện pháp hành chính, kinh tế và giáo dục, thuyết phục.
- Kiểm tra: hiệu trưởng xem việc thực hiện kế hoạch đến đâu? Tính phù
hợp của các quyết định quản lý, giúp cho việc điều chỉnh trong quản lý, ngăn
chặn sai sót, đồng thời khuyến khích động viên mọi người tích cực làm việc
trên cơ sở đánh giá sự thực hiện và điều chỉnh các tiêu chuẩn đo lường kết
quả thực hiện.
1.2.3. Hoạt động dạy học và quản lý hoạt động dạy học ở trường THPT
1.2.3.1. Dạy học
Dạy học là đề cập đến hai nhân tố: người dạy và người học. Theo từ
điển Tiếng Việt, dạy là truyền lại tri thức hoặc kỹ năng một cách ít nhiều có
hệ thống, có phương pháp, dạy học: dạy để nâng cao trình độ văn hóa và

phẩm chất đạo đức, theo chương trình nhất định [36,244].
Dưới góc độ của giáo dục học: “Dạy học luôn được xem là con đường
hợp lí, thuận lợi nhất, giúp cho HS với tư cách là chủ thể nhận thức, có thể
lĩnh hội được một hệ thống tri thức và kỹ năng hành động chuyển thành phẩm
chất, năng lực trí tuệ của bản thân” [19,172].
1.2.3.2. Hoạt động dạy học
Hoạt động dạy học là hoạt động đặc trưng cho mọi loại hình nhà trường
và xét theo quan điểm tổng thể, dạy học chính là con đường giáo dục tiêu biểu
nhất, hướng người học vào quá trình phát triển và hoàn thiện nhân cách.
Hoạt động dạy học trong trường THPT bao gồm hoạt động dạy của GV
và hoạt động học của HS. Hai hoạt động này luôn gắn bó mật thiết với nhau,
quy định lẫn nhau của hai chủ thể dạy học (GV và HS) nhằm truyền thụ và
16
lĩnh hội tri thức khoa học, những kỹ năng và kỹ xảo hoạt động nhận thức và
thực tiễn, để trên cơ sở đó hình thành thế giới quan, phát triển năng lực sáng
tạo và xây dựng, hoàn thiện các phẩm chất nhân cách cho HS.
* Hoạt động dạy của GV:
Là tổ chức, điều khiển hoạt động chiếm lĩnh tri thức của HS, giúp HS
nắm được kiến thức, hình thành kỹ năng, thái độ. Hoạt động dạy có chức năng
kép là truyền đạt và điều khiển nội dung học theo chương trình quy định. Có
thể hiểu hoạt động dạy là quá trình hoạt động sư phạm của GV, làm nhiệm vụ
truyền thụ tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của HS.
* Hoạt động học của HS:
Là quá trình tự điều khiển chiếm lĩnh khái niệm khoa học, HS tự giác,
tích cực lĩnh hội tri thức. Theo đó, hoạt động học cũng có chức năng kép là
lĩnh hội và tự điều khiển quá trình chiếm lĩnh khái niệm khoa học một cách tự
giác, tích cực nhằm biến tri thức của nhân loại thành học vấn của bản thân. Có
thể hiểu hoạt động học của HS là quá trình lĩnh hội tri thức, hình thành hệ
thống những kỹ năng, kỹ xảo, vận dụng kiến thức vào thực tiễn và hoàn thiện
nhân cách của bản thân. Hai hoạt động dạy và học có mối quan hệ chặt chẽ

với nhau, nó tồn tại song song và phát triển trong cùng một quá trình thống
nhất. Kết quả hoạt động học của HS không thể tách rời kết quả hoạt động dạy
của GV và kết quả hoạt động dạy của GV không thể tách rời kết quả học tập
của HS.
Tóm lại, hoạt động dạy học có ưu thế tuyệt đối trong việc hình thành tri
thức phát triển năng lực tư duy thông qua việc dạy các môn học cơ bản, đồng
thời đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách toàn diện. Vì thế, hoạt động
dạy học được hiểu một cách đầy đủ bao gồm toàn bộ việc giảng dạy, giáo dục
của GV, việc học tập, rèn luyện của HS theo nội dung giáo dục toàn diện
nhằm đào tạo thế hệ trẻ thành những người làm chủ đất nước, có giác ngộ xã hội
chủ nghĩa, có văn hóa, kỹ thuật, có sức khỏe, để đáp ứng xây dựng xã hội mới.
17
1.2.3.3. Quản lý hoạt động dạy học
Theo Nguyễn Phúc Châu: “Quản lý hoạt động dạy học là những tác
động có chủ đích, hợp quy luật của chủ thể quản lý dạy học (Hiệu trưởng)
đến khách thể quản lý dạy học (đội ngũ giáo viên, nhân viên, học sinh và các
lực lượng giáo dục khác) nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực của nhà
trường, của cộng đồng và xã hội để đưa hoạt động dạy học đến mục tiêu (xây
dựng và phát triển nhân cách người học)” [10,119].
Để quản lý tốt hoạt động dạy học ở trường THPT, Hiệu trưởng phải xác
định từ mục tiêu của giáo dục nói chung là đào tạo con người Việt Nam phát
triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ, nghề nghiệp, trung
thành với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Đối với mục tiêu của giáo dục THPT hướng tới là giúp HS củng cố và
phát triển những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông
và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học
lên đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc
sống lao động.

Trong quá trình quản lý hoạt động dạy học trong nhà trường THPT thì
người hiệu trưởng cần chú ý đến các vấn đề sau:
- Lập kế hoạch: xây dựng mục tiêu, xây dựng kế hoạch năm học của
nhà trường, chỉ đạo các tổ chuyên môn, các cá nhân lập kế hoạch cụ thể đúng
quy định, theo đặc thù nhà trường.
- Xây dựng nền nếp dạy học: đưa hoạt động dạy học vào nền nếp bằng
hệ thống các nội quy, quy định, quy chế chặt chẽ, sao cho mọi thành viên
trong nhà trường nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc thực hiện
các nội quy, quy định … trong nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
18
- Chỉ đạo đổi mới PPDH: dạy học theo phương pháp mới, lấy người
học làm trung tâm, phát huy tính tích cực của HS trong học tập, khắc phục lối
truyền thụ một chiều. Thực hiện dạy học theo Chuẩn KT - KN và theo nội
dung giảm tải của Bộ GD&ĐT.
- Chỉ đạo quản lý và sử dụng CSVC, TBDH: CSVC – TBDH là điều
kiện quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học, cần phải bổ sung, mua sắm
các TBDH, đồng thời khuyến khích GV làm và sử dụng có hiệu quả đồ dùng
dạy học và các thiết bị giáo dục.
- Tổ chức kiểm tra, đánh giá trong nhà trường: việc kiểm tra, đánh giá
phải được thực hiện theo kế hoạch kiểm tra của nhà trường, theo tiêu chuẩn
quy định của ngành về các mặt hoạt động, đảm bảo kiểm tra khách quan,
chính xác.
- Khen thưởng - kỷ luật kịp thời đối với GV và HS: có như vậy mới
động viên và khuyến khích được GV và HS thực hiện dạy tốt, học tốt nhằm
nâng cao chất lượng dạy học.
Quản lý hoạt động dạy học phải đồng thời quản lý hoạt động dạy của
GV và quản lý hoạt động học của HS. Yêu cầu của quản lý hoạt động dạy học
là phải quản lý các thành tố của quá trình dạy học, trước hết các thành tố đó sẽ
phát huy tác dụng thông qua quy trình hoạt động của người dạy một cách
đồng bộ, hài hòa, hợp quy luật, đúng nguyên tắc dạy học.

1.2.3.4. Các biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở trường THPT
Điều 54 Luật giáo dục 2005 ghi: “Hiệu trưởng là người chịu trách
nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường, do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền bổ nhiệm, công nhận”. Theo đó, hiệu trưởng trường THPT có các
nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Tổ chức bộ máy nhà trường.
- Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm học.
19
- Quản lý GV, nhân viên, HS; quản lý chuyên môn, phân công công
tác, KTĐG thực hiện nhiệm vụ của GV, nhân viên.
- Quản lý và tổ chức giáo dục HS.
- Quản lý hành chính, tài chính, tài sản của nhà trường.
- Thực hiện các chế độ, chính sách của Nhà nước đối với GV, nhân
viên, HS; tổ chức thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường.
- Được học các lớp chuyên môn, nghiệp vụ và hưởng các chế độ hiện
hành [14,15].
Như vậy, hiệu trưởng trường THPT phải thực hiện vai trò lãnh đạo nhà
trường để tập hợp, thuyết phục mọi lực lượng trong và ngoài trường tích cực
triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về giáo dục và đào tạo
và thực hiện nội dung chương trình ở bậc THPT. Thực hiện vai trò thủ trưởng
đơn vị để điều hành toàn bộ hoạt động của nhà trường thông qua bốn chức
năng quản lý: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra. Xây dựng tập thể
vững mạnh và bảo đảm các nguồn lực khác cho việc thực hiện nội dung
chương trình.
Nội dung quản lý hoạt động dạy học của Hiệu trưởng trường THPT:
- Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch năm học.
- Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, thực hiện có hiệu quả kế hoạch dạy học
năm học.
- Hiệu trưởng chỉ đạo việc thực hiện mục tiêu, chương trình dạy học.
- Hiệu trưởng chỉ đạo xây dựng nền nếp dạy học.

- Hiệu trưởng chỉ đạo tổ chuyên môn tổ chức các hoạt động bồi dưỡng
năng lực sư phạm cho GV.
- Hiệu trưởng chỉ đạo tổ chuyên môn, GV chủ nhiệm lớp, các tổ chức
đoàn thể, cha mẹ HS, hướng dẫn hoạt động học của HS theo chức năng của
mình.
20
- Hiệu trưởng tổ chức chỉ đạo tổ chuyên môn tiến hành hoạt động kiểm
tra, đánh giá kết quả dạy học và thực hiện kế hoạch năm học.
- Hiệu trưởng chỉ đạo việc đổi mới PPDH và KTĐG [14,16].
Trên các cơ sở đó, biện pháp quản lý hoạt động dạy học của hiệu
trưởng trường THPT có thể được triển khai như sau:
a. Xây dựng kế hoạch quản lý hoạt động dạy học
- Việc xây dựng kế hoạch phải được tiến hành một cách có khoa học,
sát thực dựa trên cơ sở khách quan và chủ quan và cần phải tiến hành theo
một quy trình hợp lý.
- Các loại kế hoạch chỉ đạo hoạt động dạy học:
+ Kế hoạch tổng thể về phát triển nhà trường để mở rộng quy mô phát
triển đáp ứng nhu cầu học tập của HS (kế hoạch dài hạn từ 5 đến 10 năm).
+ Kế hoạch tuyển sinh hàng năm, kèm theo các điều kiện khả thi.
+ Thời khóa biểu và lịch theo dõi nền nếp dạy học.
+ Kế hoạch bồi dưỡng HS giỏi, giúp đỡ HS yếu kém và thi HS giỏi.
+ Kế hoạch ôn tập, kiểm tra học kì năm học.
+ Kế hoạch hoạt động ngoại khóa phục vụ cho học tập.
+ Kế hoạch chỉ đạo GV chủ nhiệm tổ chức hoạt động học tập, rèn luyện
của HS.
+ Kế hoạch phối hợp với các đoàn thể trong nhà trường để chỉ đạo dạy học.
+ Kế hoạch phối hợp với hội cha mẹ HS và các tổ chức xã hội phục vụ
cho dạy học.
+ Kế hoạch cá nhân của hiệu trưởng để chỉ đạo các hoạt động trong nhà
trường.

b. Tổ chức hoạt động dạy học:
- Hiệu trưởng tổ chức bộ máy nhà trường.
+ Đề nghị UBND tỉnh bổ nhiệm các phó hiệu trưởng.
21
+ Thành lập và cử tổ trưởng các tổ chuyên môn, các hội đồng của
nhà trường.
+ Tổ chức HS theo khối lớp và phân công GV chủ nhiệm.
- Hiệu trưởng chỉ đạo tổ chuyên môn phân công hợp lý công tác giảng
dạy của GV căn cứ vào trình độ đào tạo, năng lực và phẩm chất của họ.
- Tổ chức tuyển chọn bổ sung nhân lực.
- Tổ chức phối hợp thường xuyên, chặt chẽ với gia đình và ban đại diện
cha mẹ HS để xây dựng môi trường giáo dục.
- Phối hợp với hội đồng giáo dục các cấp, các tổ chức chính trị, xã hội,
các tổ chức kinh tế, các cơ sở giáo dục khác nhằm thống nhất quan điểm, huy
động mọi lực lượng chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, xây dựng môi trường
giáo dục lành mạnh góp phần xây dựng CSVC.
c. Chỉ đạo hoạt động dạy học:
- Các biện pháp chỉ đạo thực hiện chương trình dạy học:
+ Hiệu trưởng chỉ đạo tổ chuyên môn chỉ đạo GV nghiên cứu chương
trình và xây dựng kế hoạch dạy học năm học.
+ Hiệu trưởng chỉ đạo tổ chuyên môn chia nhóm bộ môn theo khối lớp
để hỗ trợ cho nhau về chuyên môn, tư liệu và phương pháp giảng dạy.
+ Hiệu trưởng chỉ đạo tổ trưởng chuyên môn chỉ đạo GV thực hiện
chương trình dạy học đủ, chất lượng, đúng tiến độ thời gian.
+ Hiệu trưởng chỉ đạo tổ chuyên môn quản lý hoạt động học tập của
HS, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của HS theo kế hoạch.
- Các biện pháp chỉ đạo bồi dưỡng GV:
+ Xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV.
+ Chỉ đạo tổ chuyên môn bồi dưỡng năng lực GV bằng các hình thức
khác nhau (bồi dưỡng chuyên đề; sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn; hội giảng;

22
tổ chức tham quan thực tế, giao lưu trao đổi kinh nghiệm với các trường bạn;
tổ chức học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ …).
- Các biện pháp chỉ đạo xây dựng nền nếp dạy học:
+ Chỉ đạo xây dựng và thực hiện các văn bản pháp quy, quy chế của
Nhà nước và của ngành giáo dục về nền nếp dạy học.
+ Chỉ đạo xây dựng và thực hiện các nội quy của nhà trường về nền
nếp dạy học.
+ Chỉ đạo thực hiện các loại kế hoạch về dạy học đã được xây dựng.
+ Chỉ đạo thực hiện hồ sơ sổ sách chuyên môn.
+ Chỉ đạo nền nếp sinh hoạt chuyên môn đối với từng tổ, từng nhóm và
từng khối lớp.
+ Phối hợp với các tổ chức, đoàn thể tổ chức sinh hoạt theo kế hoạch,
xây dựng tập thể sư phạm vững mạnh, ổn định, đoàn kết.
+ Xây dựng khuôn viên nhà trường xanh - sạch - đẹp tạo khung cảnh và
môi trường sư phạm thuận lợi cho hoạt động dạy học.
+ Xử lí các vụ việc, tình hưống trong quá trình dạy học.
+ Tổ chức kiểm tra, đánh giá thực hiện nền nếp.
- Chỉ đạo đổi mới PPDH:
+ Thành lập ban chỉ đạo, ban chỉ đạo có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch
hành động, tổ chức thực hiện kế hoạch, kiểm tra, đánh giá việc đổi mới PPDH
và tổng kết rút kinh nghiệm.
+ Tạo điều kiện tinh thần và vật chất cho đổi mới PPDH như: tổ chức
bồi dưỡng cho GV về PPDH, hình thức tổ chức dạy học mới; sử dụng các
phương tiện dạy học.
+ Chỉ đạo tổ trưởng chuyên môn xây dựng một số bài giảng mẫu, thống
nhất về chuẩn đánh giá giờ dạy theo hướng đổi mới.
+ Chỉ đạo dạy thử nghiệm, dự giờ, rút kinh nghiệm và mở rộng đại trà.
23
+ Chỉ đạo thực hiện dạy học theo tinh thần đổi mới ở tất cả các môn

học, ở tất cả các GV, gây khí thế thi đua trong tập thể GV, HS; theo dõi, động
viên kịp thời.
+ Tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm.
+ Chỉ đạo thúc đẩy hoạt động viết sáng kiến kinh nghiệm về đổi mới
PPDH, trao đổi kinh nghiệm cá nhân và tập thể.
d. Kiểm tra và đánh giá hoạt động dạy học
- Kiểm tra GV: kiểm tra toàn diện GV gồm bốn nội dung: trình độ
chuyên môn nghiệp vụ; thực hiện quy chế chuyên môn, ý thức trách nhiệm;
tham gia các hoạt động dạy học; tham gia các hoạt động giáo dục.
- Kiểm tra hoạt động giảng dạy trên lớp:
+ Dự giờ dưới nhiều hình thức.
+ Đánh giá kết quả bài giảng: GV tự đánh giá; hiệu trưởng đánh giá
dựa vào chuẩn đánh giá một giờ lên lớp, đặc biệt nhấn mạnh 3 mặt: kiến thức,
kỹ năng, thái độ.
+ Kiểm tra mức độ nhận biết của HS sau giờ học.
+ Hiệu trưởng kết luận, ghi biên bản, hồ sơ.
- Hiệu trưởng kiểm tra hoạt động sư phạm của tổ, nhóm chuyên môn:
+ Kiểm tra công tác quản lý của tổ trưởng, nhóm trưởng: nhận thức, vai
trò, tác động, uy tín, khả năng lãnh đạo chuyên môn.
+ Kiểm tra hồ sơ chuyên môn: kế hoạch, biên bản, chất lượng dạy học,
các chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn, sáng kiến kinh nghiệm.
+ Kiểm tra nền nếp chuyên môn: soạn bài, chấm bài, dự giờ, giảng mẫu
+ Kiểm tra chỉ đạo phong trào học tập của HS.
+ Kiểm tra chất lượng dạy học.
- Hiệu trưởng kiểm tra HS.
- Hiệu trưởng kiểm tra CSVC, TBDH.
24
1.2.4. Chuẩn kiến thức kỹ năng
1.2.4.1. Khái niệm Chuẩn
Theo Từ điển Tiếng Việt, chuẩn được hiểu là cái được chọn làm căn cứ

để đối chiếu, để hướng theo đó mà làm cho đúng; là vật được chọn làm mẫu;
là cái được công nhận là đúng theo quy định hoặc theo thói quen trong xã hội
[20,181]. Theo đó, chuẩn được coi là yêu cầu, mục tiêu hướng tới, thước đo
đánh giá về các hoạt động, sản phẩm,…theo ý chí của chủ thể quản lý về các
hoạt động, sản phẩm,… đó.
Trong tài liệu “Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kỹ năng các
môn học” của Nhà xuất bản giáo dục – 2010, các tác giả đã nêu rõ:
a) Chuẩn là những yêu cầu, tiêu chí (gọi chung là yêu cầu) tuân thủ
những nguyên tắc nhất định, được dùng để làm thước đo đánh giá hoạt động,
công việc, sản phẩm của lĩnh vực nào đó. Đạt được những yêu cầu của chuẩn
là đạt được mục tiêu mong muốn của chủ thể quản lý hoạt động, công việc,
sản phẩm đó.
Yêu cầu là sự cụ thể hóa, chi tiết, tường minh Chuẩn, chỉ ra những căn
cứ để đánh giá chất lượng. Yêu cầu có thể được đo thông qua chỉ số thực
hiện. Yêu cầu được xem như những “chốt kiểm soát” để đánh giá chất lượng
đầu vào, đầu ra cũng như quá trình thực hiện.
b) Những yêu cầu cơ bản của chuẩn:
- Chuẩn phải có tính khách quan, nhìn chung không lệ thuộc vào quan
điểm hay thái độ chủ quan của người sử dụng Chuẩn.
- Chuẩn phải có hiệu lực ổn định cả về phạm vi lẫn thời gian áp dụng.
- Đảm bảo tính khả thi, có nghĩa là Chuẩn đó có thể đạt được (là trình
độ hay mức độ dung hòa hợp lí giữa yêu cầu phát triển ở mức cao hơn với
những thực tiễn đang diễn ra).
- Đảm bảo tính cụ thể, tường minh và có chức năng định lượng.
25

×