Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường tiểu học quận Hồng Bàng - Hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.97 KB, 113 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1. Đất nước ta đang bước vào một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên đánh dấu
một thời kì cả dân tộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm thực
hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đại hội Đảng IX đã khẳng định nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát
triển đất nước trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá nên cần tạo chuyển
biến cơ bản, toàn diện về GD&ĐT. Đến Đại hội Đảng X tiếp tục chỉ rõ: "Giáo
dục phải nhằm đào tạo những con người Việt Nam có lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, có năng lực, bản lĩnh
để thích ứng với những biến đổi của xã hội trong kinh tế thị trường, những yêu
cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".[42]
Như vậy chỉ có phát triển giáo dục thì mới mở ra tương lai tươi sáng
cho đất nước. Bởi lẽ giáo dục nói chung, dạy học nói riêng có vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Đó là những
người lao động có kỹ thuật, có tay nghề thành thạo, có khả năng thích ứng,
khả năng giao tiếp - được đào tạo và bồi dưỡng bởi nền giáo dục tiên tiến gắn
với khoa học công nghệ hiện đại. Mà muốn phát triển giáo dục và đào tạo thì
cần phải chú ý ngay bậc học đầu tiên - bậc học nền tảng - bậc tiểu học. Nâng
cao chất lượng giáo dục tiểu học là tạo ra nền tảng vững chắc để nâng cao
chất lượng giáo dục phổ thông. Vì vậy mục tiêu phát triển giáo dục tiểu học từ
nay đến năm 2020, Nghị quyết Tung ương II đã chỉ rõ: “ Cần nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện bậc tiểu học”. Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện bậc tiểu học, phải xây dựng một nền giáo dục theo định hướng: “Chuẩn
hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Muốn thực hiện định hướng này phải giải
quyết nhiều vấn đề, trong đó đổi mới công tác quản lý giáo dục là một giải
pháp quan trọng.
1
1.2. Có thể nói, hoạt động chủ yếu trong nhà trường là hoạt động
chuyên môn. Các tổ chuyên môn là tổ chức quan trọng và nòng cốt trong các
nhà trường nói chung, nhà trường tiểu học nói riêng. Bởi lẽ hoạt động chủ yếu


của nhà trường là hoạt động chuyên môn, vì vậy tổ chuyên môn là đơn vị cơ
sở gắn bó với người giáo viên giảng dạy. ở đây diễn ra mọi hoạt động có liên
quan đến toàn bộ hoạt động nghề nghiệp của người giáo viên. Tổ chuyên
môn cũng là nơi người giáo viên có thể chia sẻ mọi tâm tư, nguyện vọng cũng
như những vấn đề có liên quan đến nghề nghiệp, đời sống vật chất và tinh
thần của mình. Hoạt động của tổ chuyên môn trong nhà trường có vai trò
quyết định cho sự phát triển của nhà trường nói riêng và sự phát triển giáo dục
nói chung. Có thể nói hoạt động của tổ chuyên môn trong nhà trường là nhân
tố quyết định trực tiếp đến chất lượng dạy học của các trường tiểu học hiện
nay. Do đó, quản lí hoạt động chuyên môn là nhiệm vụ hàng đầu, là trọng
tâm trong quá trình quản lí của người hiệu trưởng.
1.3. Chất lượng hoạt động của tổ chuyên môn trong nhà trường phụ
thuộc rất nhiều vào quá trình quản lí của người hiệu trưởng đối với tổ. Các tổ
chuyên môn trong nhà trường do hiệu trưởng thành lập và ra quyết định công
nhận để giúp hiệu trưởng thực hiện nhiệm vụ năm học, thực hiện chương trình
đào tạo của nhà trường. Sự quản lý của hiệu trưởng đối với tổ chuyên môn là
kim chỉ nam cho hoạt động của tổ để đạt được mục đích của nhà trường. Qua
nhiều năm công tác ở trường tiểu học, từ giáo viên đến tổ trưởng chuyên môn,
rồi là người quản lý nhà trường, bản thân tôi thấy rõ vai trò quyết định của
việc quản lý của hiệu trưởng đối với hoạt động của tổ chuyên môn trong việc
nâng cao chất lượng dạy học.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi thấy cần thiết phải nghiên cứu đề tài:
"Các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các
trường tiểu học quận Hồng Bàng - Hải phòng"
2 - Mục đích nghiên cứu:
2
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động của tổ chuyên môn và các biện pháp
quản lý hoạt động tổ chuyên đề của hiệu trưởng các trường tiểu học quận
Hồng Bàng – Hải Phòng .
- Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu

trưởng để nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học trong trường tiểu học quận
Hồng Bàng – Hải Phòng.
3- Đối tượng và khách thể nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các
trường tiểu học.
3.2. Khách thể nghiên cứu:
Công tác quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường
tiểu học.
4- Giả thuyết khoa học:
Công tác quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường
tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng đã đạt được những kết quả nhất định,
làm cho chất lượng dạy học được nâng cao. Tuy nhiên, trong quá trình quản
lý, còn có những điều chưa phù hợp và bất cập nhất định. Nếu đề xuất được
các biện pháp quản lý phù hợp sẽ nâng cao được chất lượng hoạt động tổ
chuyên môn , nhờ đó nâng cao được chất dạy học của nhà trường.
5 - Nhiệm vụ nghiên cứu:
5.1. Xây dựng cơ sở lí luận của đề tài.
5.2. Đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động tổ chuyên môn của
hiệu trưởng một số trường tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng .
5.3. Đề xuất những biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của
hiệu trưởng tiểu học và khảo sát tính khả thi của các biện pháp đó.
6 - Phạm vi nghiên cứu:
6.1. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu:
3
Do điều kiện thời gian đề tài chỉ nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt
động tổ chuyên môn của hiệu trưởng một số trường tiểu học quận Hồng Bàng
– Hải Phòng .
6.2. Giới hạn về khách thể điều tra:
- Đại diện Phòng giáo dục: 3 đồng chí.

- 30 cán bộ quản lý của 10 trường tiểu học trong quận Hồng Bàng – Hải
Phòng .
- 51 tổ trưởng, tổ phó chuyên môn của 10 trường tiểu học quận Hồng
Bàng – Hải Phòng.
- 95 giáo viên trong các trường tiểu học của quận Hồng Bàng – Hải
Phòng .
6.3. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu:
Các trường TH của quận Hồng Bàng – Hải Phòng .
7- Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Phân tích, nghiên cứu các tài liệu có
liên quan.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra viết, tổng kết kinh
nghiệm, phương pháp chuyên gia.
- Các phương pháp toán thống kê : Dùng một số công thức toán thống
kê để xử lí kết quả nghiên cứu nhằm rút ra kết luận khoa học.
8- Dự kiến cái mới của đề tài:
- Phát hiện thực trạng quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu
trưởng tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng.
- Đề xuất được các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của
hiệu trưởng trong các trường tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng.
4
CHƯƠNG 1
Cơ sở lý luận của đề tài
1.1. Một số nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Ngay từ trong xã hội nguyên thuỷ, con người phải sống theo bầy, đàn,
phải đoàn kết nhau lại để đủ sức mạnh chống chọi với thiên nhiên, thú dữ thì
nhu cầu tổ chức, QL một đám đông ô hợp thành một tập thể có sức mạnh
thống nhất vì mục đích sinh tồn chung của mọi người cũng đã manh nha như
một tất yếu, tự nhiên. Như vậy có thể khẳng định : trong xã hội loài người,
những HĐ nào có từ hai cá thể trở lên thì đều phải có HĐ QL. QL là một khái

niệm rộng bao gồm nhiều nội dung, gắn liền với nhiều HĐ của con người và
nó phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. QL gắn liền với các
HĐ xã hội nên nó mang tính phổ biến, đó là: " Tất cả mọi lao động trực tiếp
và tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ
đạo để điều hoà những HĐ cá nhân và thực hiện những chức năng chung, phát
sinh từ vận động của toàn bộ cơ chế sản xuất, khác với sự vận động của các cơ
quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm riêng lẻ tự mình điều khiển lấy
mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng" . [12]
Như vậy C.Mác đã miêu tả đầy đủ bản chất QL là một loại lao động để
điều khiển lao động- một HĐ tất yếu, rất quan trọng trong quá trình hình
thành, tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
GD là một hiện tượng xã hội đặc biệt, được sinh ra và tồn tại cùng với
sự phát triển của xã hội loài người . Đó là một HĐ không thể thiếu trong việc
phát triển của xã hội loài người vì nó tác động đến mọi HĐ khác trong xã hội.
Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa
học kĩ thuật và sự bùng nổ của công nghệ thông tin, loài người bước vào thế
kỷ của nền kinh tế tri thức thì GD càng giữ một vị trí quan trọng và cần thiết
hơn bao giờ hết trong chiến lược phát triển đất nước của mọi quốc gia.
ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ vĩ đại đã từ rất sớm
nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của GD nên ngay sau khi Cách mạng Tháng
5
Tám thành công, đất nước ta đã bắt tay ngay vào "diệt" ba thứ giặc, trong đó
có "giặc dốt". Và hiện chúng ta đang ở trong thời kì "công nghiệp hoá - hiện
đại hoá " đất nước thì GD cũng đã được nghị quyết của Đảng khẳng định là:
"Quốc sách hàng đầu". Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá VIII đã chỉ rõ: "Để thực hiện được mục tiêu chiến lược mà Đại hội VIII
đã đề ra cần phải khai thác và sử dụng nhiều nguồn nhân lực khác nhau, trong
đó nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định, đặc biệt là đối
với nước ta khi nguồn lực tài chính còn hạn hẹp. Nguồn lực đó là người lao
động có trí tuệ cao, tay nghề thành thạo, có phẩm chất đẹp, được đào tạo, bồi

dưỡng và được phát huy bởi một nền GD tiên tiến gắn liền với khoa học, công
nghệ hiện đại. GD phải làm tốt nhiệm vụ đào tạo nguồn lực cho đất nước, đội
ngũ lao động cho khoa học và công nghệ".[42]
Như vậy mục đích của GD ngày nay không đơn thuần là truyền thụ cho
HS những tri thức mà loài người đã tích luỹ được qua nhiều thế hệ mà còn
phải bồi dưỡng cho HS biết làm chủ bản thân, độc lập trong suy nghĩ, tích cực
tìm tòi phát hiện ra cái mới trong học tập và nghiên cứu ; biết tự giải quyết
những vấn đề mới nảy sinh trong các HĐ hàng ngày của bản thân . Đó chính
là GD đã trang bị cho họ những năng lực cần thiết của người lao động mới-
lao động có trí tuệ: Năng lực tự học, tự nghiên cứu; năng lực phát hiện và giải
quyết các vấn đề mới nảy sinh; năng lực giao tiếp, khả năng sáng tạo…Để
làm được việc này ngành GD nói chung và các nhà QL GD nói riêng đã tích
cực tìm ra được những giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng GD. Và một
trong những giải pháp đó chính là đổi mới cơ chế QL GD từ cấp vĩ mô đến
cấp vi mô là các nhà trường. Các nhà nghiên cứu đều đã thống nhất chung
một quan điểm là làm công tác QL GD phải không ngừng cải tiến nâng cao
chất lượng điều hành và QL của mình để qua đó tác động một cách có hiệu
quả vào quá trình cải tiến chất lượng ở các khâu, các bộ phận của hệ thống
GD. Đặc biệt việc QL HĐ GD trong nhà trường có vai trò quyết định đến chất
lượng GD của nhà trường. Mà việc QL HĐ GD của nhà trường chính là QL
6
HĐ của đội ngũ GV trong nhà trường . Chính trong các công trình nghiên cứu
của các nhà nghiên cứu về QL GD Xô Viết đã khẳng định: "Kết quả toàn bộ
hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và
hợp lý các HĐ của đội ngũ GV".
Trong nhà trường phổ thông, đội ngũ GV lại được sắp xếp theo từng tổ
CM nên việc QL HĐ của đội ngũ GV đối với người HT chính là QL HĐ của
tổ CM trong nhà trường. Suy cho cùng, mục đích của công việc QL này là
nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của nhà trường : nâng cao chất lượng
dạy và học trong nhà trường. Điều này đã được khẳng định trong Luật GD

năm 2005: "Tuy không trực tiếp tham gia vào HĐ dạy và học, nhưng cán bộ
QL GD bằng những HĐ QL của mình tác động vào quá trình GD nhằm hướng
cho HĐ dạy và học đạt được những mục tiêu yêu cầu của GD và bảo đảm chất
lượng GD".[33]
QL CM để nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường thì đã có
rất nhiều công trình, nhiều đề tài nghiên cứu. Riêng trong khoa QL GD của
trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã có trên 40 đề tài nghiên cứu QL CM ở
nhiều khía cạnh khác nhau và phân bố ở tất cả các bậc học từ Mầm non, TH,
Trung học đến các Trung tâm dạy nghề cũng như các trường Đại học, Cao
đẳng và Trung học chuyên nghiệp. Song việc QL HĐ tổ CM của HT trường
TH thì chưa có đề tài nào đề cập đến. Vì vậy tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài
:"Các biện pháp QL HĐ tổ CM của HT các trường TH quận HB - HP".
1.2. Một số vấn đề lý luận về quản lý, quản lý giáo dục, quản lý
nhà trường tiểu học:
1.2.1. Quản lý:
Trong xã hội loài người, QL là một HĐ bao trùm mọi mặt đời sống xã
hội. Nó ra đời khi xã hội cần có sự chỉ huy, điều hành, phân công, hợp tác,
kiểm tra, chỉnh lý trong lao động tập thể trên một quy mô nào đó để đạt năng
suất cao hơn, hiệu quả tốt hơn, đó là vai trò của người đứng đầu. Như vậy QL
là một phạm trù tồn tại khách quan và là một tất yếu lịch sử. Loài người đã
7
trải qua nhiều thời kỳ phát triển với nhiều hình thái xã hội khác nhau, nên
cũng đã trải qua nhiều hình thức QL khác nhau. Các triết gia, các nhà chính trị
từ thời cổ đại đến nay đều rất coi trọng vai trò của QL trong sự ổn định và
phát triển của xã hội.
Người ta tiếp cận khái niệm QL nhiều cách khác nhau. Đó là : cai quản,
chỉ huy, lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra- theo góc độ tổ chức.
Theo góc độ điều khiển thì QL là lái, là điều khiển, điều chỉnh.
Theo cách tiếp cận hệ thống thì QL là sự tác động của chủ thể QL đến
khách thể QL (hay là đối tượng QL) nhằm tổ chức, phối hợp HĐ của con

người trong quá trình sản xuất - xã hội để đạt được mục đích đã định.
Còn trong quá trình tồn tại và phát triển của QL, đặc biệt trong quá
trình xây dựng lý luận về QL, khái niệm QL được nhiều nhà lý luận đưa ra,
nó thường phụ thuộc vào lĩnh vực HĐ, nghiên cứu của mỗi người.
Chẳng hạn:
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê Nin đã khẳng định: "Bất cứ
lao động xã hội hay cộng đồng trực tiếp nào được thực hiện ở quy mô tương
đối lớn đều cần đến sự QL".[12]
Theo Harold Koontz-1994, trong tác phẩm "Những vấn đề cốt yếu của
QL" thì :"QL là một HĐ thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân
nhằm đạt được mục đích của nhóm".[21]
Khi nói về vai trò của QL trong xã hội, ý kiến của Paul Hersey và Ken
Blanc Heard trong cuốn "QL nguồn nhân lực" cho rằng: "QL là một quá trình
cùng làm việc giữa nhà QL với người bị QL, nhằm thông qua HĐ của cá nhân,
của nhóm, huy động các nguồn lực khác để đạt mục tiêu của tổ chức".[32]
Và theo các nhà xã hội học Kozlova.O.V và Kuznetsov.I.N thì: "QL là
sự tác động có mục đích đến từng tập thể con người để tổ chức và phối hợp
HĐ của họ trong quá trình sản xuất".
Còn quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam về QL như sau:
8
Theo từ điển tiếng Việt:"QL là HĐ của con người tác động vào tập thể
người khác để phối hợp điều chỉnh phân công thực hiện mục tiêu chung".
Giáo trình "QL GD và đào tạo" của trường Cán bộ QL GD&ĐT, nêu
rằng:
+ QL là tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật vào hệ
thống con người, nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội.
+ QL là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức dựa trên
các thông tin về tình trạng của đối tượng, và môi trường nhằm giữ cho sự vận
hành của đối tượng được ổn định và phát triển tới mục tiêu đã định.
+ QL là sự tác động có ý thức, hợp quy luật giữa chủ thể QL đến

khách thể QL nhằm đạt tới mục tiêu đề ra.
+ QL là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể QL lên đối
tượng QL và khách thể QL, nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng,
các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động
của môi trường.[17]
Giáo sư Hà Thế Ngữ và giáo sư Đặng Vũ Hoạt cho rằng: "QL là một
quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, QL một hệ thống nhằm đạt được
những mục tiêu nhất định".[27]
ý kiến của giáo sư Mai Hữu Khuê: "HĐ QL là một dạng HĐ đặc biệt
của người lãnh đạo mang tính tổng hợp của các loại lao động trí óc, liên kết
bộ máy QL thành một chỉnh thể thống nhất điều hòa phối hợp các khâu và các
cấp QL làm cho HĐ nhịp nhàng đưa đến hiệu quả".[16]
Theo tác giả Nguyễn Bá Sơn-2000 thì:"QL là sự tác động có hướng
đích của của chủ thể QL đến đối tượng QL bằng một hệ thống các giải pháp
nhằm thay đổi trạng thái của đối tượng QL, đưa hệ thống tiếp cận mục tiêu
cuối cùng, phục vụ lợi ích của con người".[14]
Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo-1997 thì :" QL là sự tác động chỉ huy,
điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi HĐ của con người
nhằm đạt tới mục đích đã đề ra".[14]
9
Theo tác giả Hà Sỹ Hồ thì:" QL là một quá trình HĐ có định hướng, có
tổ chức, lựa chọn trong các tác động có thể dựa trên các thông tin về tình
trạng của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục đích đã
định". [20]
Từ các định nghĩa nêu trên, dưới các góc độ khác nhau, chúng ta có thể
hiểu một cách khái quát là: QL một đơn vị (cơ sở sản xuất, cơ quan, trường
học, địa phương,…) với tư cách là một hệ thống xã hội, là khoa học và nghệ
thuật tác động vào hệ thống, vào từng thành tố của hệ thống bằng phương
pháp thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
Như vậy khái niệm QL bao hàm những khía cạnh sau:

- Đối tượng tác động của QL là một hệ thống xã hội hoàn chỉnh như
một cơ thể sống gồm nhiều yếu tố liên kết hữu cơ theo một quy luật nhất định
tồn tại trong thời gian, không gian cụ thể. Ví dụ: Một doanh nghiệp, một
trường học, một cơ quan, một quốc gia,…
- Hệ thống QL gồm có hai phân hệ : chủ thể QL và khách thể QL.
- Tác động QL thường mang tính tổng hợp bao gồm nhiều giải pháp
khác nhau.
- QL là HĐ trí tuệ mang tính sáng tạo bằng những quyết định đúng quy
luật và có hiệu quả QL nhưng cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất
định hướng đến mục tiêu.
- Mục tiêu cuối cùng của QL là chất lượng sản phẩm, vì lợi ích phục vụ
con người . Người QL tựu chung lại là nghiên cứu khoa học, nghệ thuật giải
quyết các mối quan hệ giữa con người với nhau vô cùng phức tạp không chỉ
giữa chủ thể với khách thể trong hệ thống mà còn có mối quan hệ tương tác
với các hệ thống khác nhằm hướng đến mục tiêu chung của tổ chức mình.
Như vậy, QL còn có thể hiểu là sự tác động có tổ chức, có hướng đích
của chủ thể QL đến khách thể QL bao gồm nhiều giải pháp khác nhau thông
qua cơ chế QL nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của
10
hệ thống để đạt tới mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường .
Điều đó cũng xác lập rằng QL phải có một cấu trúc và vận động trong một
môi trường xác định. Cấu trúc hệ thống QL bao gồm các yếu tố trong sơ đồ
đơn giản sau:
Sơ đồ 1: Cấu trúc hệ thống quản lý
MÔI TRường quản lý
Cơ chế quản lý
Xã hội ngày càng phát triển, các loại hình lao động ngày càng phong
phú, phức tạp, tinh vi thì hoạt động quản lý càng có vai trò quan trọng và
quyết định để tổ chức đạt tới mục tiêu bằng con đường ngắn nhất nhưng đạt
hiệu quả cao nhất.

Trong nền văn minh công nghiệp hiện nay các nhà khoa học cho rằng
có năm yếu tố cơ bản tạo thành sức mạnh phát triển của mỗi quốc gia là: vốn,
lao động, kỹ thuật công nghệ, tài nguyên và chất xám quản lý, trong đó yếu tố
chất xám quản lý được xếp hàng đầu. Điều này được biểu diễn trên sơ đồ sau:
Sơ đồ 2: Mối liên hệ giữa các yếu tố trong việc phát triển quốc gia
11
Mục tiêu QL
Chủ thể QL Khách thể QL
Hiện nay QL thường được định nghĩa rõ hơn: QL là quá trình đạt đến
mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các HĐ : kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ
đạo và kiểm tra.
Các HĐ kể trên cũng chính là các chức năng của QL. Nội dung cụ thể
của từng chức năng có thể hiểu như sau:
- Chức năng lập kế hoạch:
Là chức năng hạt nhân của quá trình QL. Bởi vì kế hoạch là tập hợp
những mục tiêu cơ bản được sắp xếp theo một trình tự nhất định cùng với một
chương trình hành động cụ thể để đạt được mục tiêu đã đề ra. Kế hoạch được
xây dựng xuất phát từ đặc điểm tình hình cụ thể của tổ chức và những mục
tiêu đã định sẵn mà tổ chức có thể hướng tới và đạt được, dưới sự tác động có
định hướng của người QL.
- Chức năng tổ chức:
Là chức năng quan trọng của quá trình QL, đảm bảo tạo thành sức
mạnh của tổ chức để thực hiện thành công kế hoạch đã đề ra. Tầm quan trọng
này đã được Lê-Nin khẳng định:"Tổ chức là nhân tố sinh ra hệ toàn vẹn, biến
một tập hợp các thành tố rời rạc thành một thể thống nhất, người ta gọi là hiệu
ứng tổ chức".
CXQL
Tài nguyên
VốnKTCN
L. động

12
Bởi vì chức năng này việc tiến hành sắp xếp, bố trí một cách khoa học
và phù hợp những nguồn lực của hệ thống thành một hệ toàn vẹn nhằm đảm
bảo cho chúng hỗ trợ nhau để đạt được mục tiêu của hệ thống một cách hiệu
quả nhất.
- Chức năng chỉ đạo:
Đây là chức năng đặc thù của người QL, nó biểu hiện rất rõ nét năng
lực của người QL. Đó là sự điều hành, điều chỉnh HĐ của hệ thống nhằm thực
hiện đúng kế hoạch đã đề ra để đạt được mục tiêu đã định. Nó đòi hỏi người
QL phải luôn theo sát các HĐ, các trạng thái vận hành của hệ thống để kịp
thời phát hiện ra những sai lỗi trong quá trình vận hành của hệ thống và đưa
ra được những biện pháp điều chỉnh, uốn nắn kịp thời sao cho hệ thống vận
hành không làm thay đổi mục tiêu đã định của hệ thống.
- Chức năng kiểm tra đánh giá:
Người QL muốn hoàn thành được trọng trách của mình một cách có
hiệu quả nhất thì không bao giờ được coi nhẹ chức năng này. Bởi vì chính
chức năng này giúp cho người QL thu thập được những thông tin ngược từ
đối tượng QL trong quá trình vận hành của hệ thống. Nhờ đó mà đánh giá
được trạng thái vận hành của hệ thống ra sao so với kế hoạch đã đề ra và như
vậy sẽ đánh giá được kế hoạch khả thi đến mức độ nào? nguyên nhân của sự
thành công, thất bại? Cần điều chỉnh, bổ sung những gì vào nội dung kế
hoạch để đạt được mục tiêu . Và cũng nhờ có chức năng mà này người QL rút
ra cho mình những bài học kinh nghiệm để thực hiện các quá trình QL tiếp
theo được hiệu quả hơn nữa.
Điều cần chú ý đối với người QL là thực hiện mỗi một chức năng là
hoàn thành một giai đoạn trong chu kỳ QL . Tuy nhiên sự phân chia chu kỳ
QL thành các giai đoạn chỉ có tính chất tương đối để giúp người QL định
hướng cho HĐ QL của mình. Còn trong thực tế, các giai đoạn này gối đầu lên
nhau, bổ sung cho nhau, xâm nhập vào nhau. Và một yếu tố không thể thiếu
được để người QL thực hiện được những chức năng trên là thông tin. Vì vậy

13
thông tin được coi như là một công cụ hoặc một chức năng đặc biệt trong chu
trình QL.
Ta có thể biểu diễn chu trình QL theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 3: Mối quan hệ của các chức năng trong chu trình quản lý
MÔI TRường quản lý
Kế hoạch hoá
Kiểm tra Thông tin Tổ chức
Chỉ đạo
thực hiện
Tuy nhiên khi nói đến công tác QL chúng ta hiểu ngay là HĐ có liên
quan đến đối tượng là con người. Vì con người là sự tổng hoà các mối quan
hệ xã hội - theo quan điểm duy vật biện chứng . Cho nên trong quá trình điều
hành QL các nhà QL phải biết kết hợp hài hoà các yếu tố tâm lý, xã hội, kinh
tế, GD. Hay nói cách khác là cần vận dụng tốt các nguyên tắc sau đây trong
quá trình QL:
* Nguyên tắc đảm bảo tính Đảng:
Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vị trí then chốt quyết định phương hướng
HĐ tất cả các hệ thống xã hội trên tất cả mọi lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Do
đó yêu cầu người QL phải coi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và
14
Nhà nước là kim chỉ nam cho quá trình HĐ của hệ thống. Mục tiêu, lý tưởng
của Đảng bao trùm mục tiêu HĐ của hệ thống, đó là:"Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
* Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Tập trung trong QL được hiểu là toàn bộ HĐ của hệ thống được quyết
định, chỉ đạo bởi cơ quan quyền lực cao nhất của hệ thống. Đây là cơ quan
được quần chúng trong hệ thống tín nhiệm thay họ đề ra chủ trương, đường
lối, mục tiêu tổng quát và các giải pháp cơ bản để thực hiện mục tiêu đó. Tuy
nhiên tất cả các mục tiêu và giải pháp đó trước khi đưa ra để thực hiện trong

hệ thống thì cần có sự tham gia ý kiến của các thành viên trong hệ thống. Đó
chính là việc phát huy cao độ quyền làm chủ của họ, huy động được tối đa trí
tuệ tập thể tham gia xây dựng hệ thống.
Đây là nguyên tắc quan trọng đảm bảo sự thành công của HĐ QL . Bởi
lẽ trong quá trình QL có sự kết hợp chặt chẽ của cơ quan quyền lực với sức
mạnh và sự sáng tạo của quần chúng trong việc thực hiện mục tiêu QL. Vì
vậy trong quá trình QL, người QL rất cần phát huy tốt nguyên tắc này . Đó là
biết kết hợp hài hoà giữa tập trung và dân chủ, biết lắng nghe và chọn lọc ý
kiến của mọi thành viên trong hệ thống, tránh biểu hiện quan liêu, độc quyền,
trù dập ; cần tạo mọi điều kiện để mọi thành viên có cơ hội bày tỏ chính kiến
của mình. Tuy nhiên, người QL cũng phải biết sử dụng quyền tập trung đúng
lúc, đúng chỗ, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm về các quyết định
của mình khi các quyết định đó đều xuất phát vì mục đích phục vụ con người.
* Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và thực tiễn:
Sự kết hợp của hai phạm trù này mang tính quy luật trong mọi HĐ của
con người, lý luận luôn soi đường, dẫn lối cho thực tiễn và thực tiễn là nơi
kiểm nghiệm lý luận. Vì vậy trong lĩnh vực QL đòi hỏi người QL phải biết
vận dụng hài hoà giữa lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở lý luận chung về QL đã
tích luỹ được, người QL cần phải biết đặc điểm HĐ của hệ thống mình QL,
cũng như phải nắm được các yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống như kinh tế,
15
chính trị xã hội, điều kiện tự nhiên, đặc thù địa phương,…Trên cơ sở đó mới
xây dựng được mục tiêu chiến lược của hệ thống .
1.2.2. Quản lý giáo dục:
Để tồn tại và phát triển, con người đã phải trải qua quá trình lao động.
Chính trong lao động, con người nhận thức được thế giới xung quanh và dần
dần tích luỹ được những kinh nghiệm . Cũng từ đó, con người nảy sinh nhu
cầu truyền đạt lại những kinh nghiệm đó cho nhau và cho thế hệ sau. Đó
chính là nguồn gốc phát sinh hiện tượng GD. Hiện tượng này có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với xã hội và đối với mỗi cá nhân. Nó giúp cho xã hội bảo

tồn nền văn hoá nhân loại, đồng thời giúp cho cá nhân phát triển tâm lý, ý
thức cũng như tiềm năng của bản thân . Tính đặc thù của quá trình GD là tạo
ra một sản phẩm đặc biệt, đó là nhân cách con người phù hợp với yêu cầu của
xã hội. Đây là một vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người. Vì vậy:
Theo M.I.Konđacốp thì :"GD là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản
chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử, xã hội của các thế
hệ loài người . Nhờ có GD mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển tinh hoa văn
hoá dân tộc và nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó mà xã hội loài
người không ngừng tiến lên".[22]
Điều này càng được khẳng định trong thời đại ngày nay, GD đã trở
thành động lực, là nhân tố quyết định thúc đẩy sự phát triển của xã hội . GD
đã trở thành mục tiêu phát triển hàng đầu của các quốc gia trên thế giới. Bởi
vì chỉ có GD mới đào tạo được những người lao động mới - lao động có trí
tuệ cao đáp ứng yêu cầu của sự phát triển xã hội. Chính do vị trí quan trọng
như vậy của GD nên các nhà nghiên cứu GD đã đưa ra những khái niệm khác
nhau về QL GD.
Theo chuyên gia GD Liên Xô M.I.Kônđacôp thì:" QL GD là tập hợp
những biện pháp: tổ chức, phương pháp cán bộ, kế hoạch hoá,…nhằm đảm
16
bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống GD để tiếp tục
phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt chất lượng cũng như số lượng". [22]
Theo nhà lý luận Xô Viết P,V.Khuđôminxky thì: "QL GD là tác động
có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của chủ thể QL ở các cấp
khác nhau đến các khâu của hệ thống (Từ Bộ đến trường), nhằm mục đích đảm
bảo việc GD Cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, bảo đảm sự phát triển toàn
diện và hài hoà của họ".
Theo quan niệm của giáo sư Nguyễn Ngọc Quang: "QL GD là hệ
thống những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể QL
nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý GD của Đảng, thực

hiện được các tính chất của nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu
điểm hội tụ là quá trình dạy học, GD thế hệ trẻ, đưa GD tới mục tiêu dự kiến,
tiến lên trạng thái mới về chất".[30]
Theo quan niệm của giáo sư Phạm Minh Hạc: "QL nhà trường là thực
hiện đường lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là nhà
trường vận hành theo nguyên lý GD để tiến tới mục tiêu GD, mục tiêu đào tạo
đối với ngành GD, với thế hệ trẻ và với từng HS …"[18]
Tác giả Phạm Viết Vượng quan niệm rằng: "Mục đích cuối cùng của
QL GD là tổ chức quá trình GD có hiệu quả để đào tạo lớp thanh niên thông
minh, sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và biết phấn đấu vì hạnh phúc
của bản thân và của xã hội".[41]
Và theo tác giả Đặng Quốc Bảo thì:"QL GD theo nghĩa tổng quát là
HĐ điều hành phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh công
tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầucủa xã hội".[10]
Từ những quan điểm trên chúng ta có thể khái quát rằng: QL GD là hệ
thống tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể QL nhằm
làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý GD của Đảng, thực hiện
được các tính chất của nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm
17
hội tụ là quá trình dạy học, GD thế hệ trẻ, đưa hệ GD đến mục tiêu dự kiến-
lên trạng thái mới về chất.
Trong hệ thống GD, con người giữ vai trò trung tâm của mọi HĐ. Con
người vừa là chủ thể, vừa là khách thể QL. Mọi HĐ GD và QL GD đều
hướng vào việc đào tạo và phát triển nhân cách thế hệ trẻ, bởi vậy con người
là nhân tố quan trọng nhất trong QL GD.
1.2.3. Quản lý nhà trường tiểu học:
1.2.3.1.Quản lý nhà trường:
Trong bối cảnh hiện đại, nhà trường được thừa nhận rộng rãi như một
thiết chế chuyên biệt của xã hội để GD, đào tạo thế hệ trẻ trở thành những
công dân hữu ích cho tương lai. Thiết chế đó có mục đích rõ ràng, có tổ chức

chặt chẽ, được cung ứng các nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện chức năng
của mình mà không một thiết chế nào có thể thay thế được. Những nhiệm vụ
của nhà trường cũng được đề cập đến từ nhiều khía cạnh khác nhau. Việc QL
nhà trường cũng có nhiều cách để tiếp cận. Bản chất giai cấp của nhà trường
được khẳng định bởi tính mục đích cũng như cách thức vận hành của nó và
một điều được khẳng định là: Khi nhà trường thực hiện chức năng GD trong
một xã hội cụ thể, bản sắc văn hóa dân tộc in dấu sâu đậm trong toàn bộ HĐ
của nhà trường.
ở nước ta, hệ thống GD quốc dân bao gồm nhiều bậc học đã được phân
cấp QL về CM, nghiệp vụ. Trong mỗi bậc học bao gồm các nhà trường của
bậc học đó. Nhà trường là đơn vị cơ sở cơ bản của hệ thống, có vai trò quan
trọng, có ý nghĩa quyết định việc thực hiện mục đích, mục tiêu GD đào tạo
thế hệ trẻ mà kết quả cuối cùng là "dạy tốt, học tốt".
Do vậy QL nhà trường là QL GD trong một phạm vi xác định của một
đơn vị GD đó là trường học.
Trường học là cơ quan chuyên trách xây dựng con người mới, với nội
dung GD được chọn lọc cơ bản và sắp xếp có hệ thống, với phương pháp GD
khoa học và đã được kiểm nghiệm thực tiễn, với những phương tiện và điều
18
kiện GD đem lại hiệu quả GD cao, với những nhà sư phạm có nhân cách mẫu
mực và được trang bị đầy đủ tri thức khoa học GD, với quá trình GD được tổ
chức liên tục, trường học có trách nhiệm to lớn và vị trí quan trọng hơn cả các
cơ sở, tổ chức khác có chức năng xây dựng người lao động mới.
HĐ trung tâm của nhà trường là dạy học và GD (theo nghĩa hẹp). Vì
vậy QL nhà trường thực chất là QL quá trình dạy học, bao gồm: quá trình lao
động sư phạm của người thầy, HĐ học tập của học sinh
Vậy QL nhà trường là QL tập thể GV và HS để chính họ lại QL (với
GV) và tự QL (với học sinh) quá trình dạy học nhằm đào tạo ra sản phẩm là
nhân cách người lao động mới.Về cơ bản QL nhà trường khác với QL các
lĩnh vực khác của đời sống xã hội. ở đây không đơn giản là thực hiện sự phân

công, phối hợp các lực lượng, các mối quan hệ mà là quá trình tác động có tổ
chức sư phạm, có tính hướng đích đến toàn bộ các mặt của quá trình GD. Vì
vậy có thể xem trường học vừa có bản chất xã hội, vừa có bản chất sư phạm.
Do đó khi QL nhà trường, các nhà QL phải kết hợp hài hoà các khoa học như:
GD học, xã hội học, tâm lý học, điều khiển học, kinh tế học…
QL nhà trường thực chất là QL quá trình hình thành và tự hình thành
nhân cách học sinh. Nếu người HT nắm vững tính chất đặc trưng rất cơ bản
này của việc QL nhà trường thì sẽ có những biện pháp QL nhà trường hiệu
quả nhất.
Theo giáo sư Nguyễn Ngọc Quang: "QL nhà trường là tập hợp những
tác động tối ưu (cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp …)
của chủ thể QL đến tập thể GV, HS và các cán bộ khác. Nhằm tận dụng các
nguồn dự trữ do Nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp, do lao động xây
dựng và vốn lao động tự có hướng vào việc đẩy mạnh mọi HĐ của nhà trường
mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ. Thực hiện có chất lượng mục
tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới".[31]
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: "QL nhà trường là HĐ của các cơ
quan QL nhằm tập hợp và tổ chức các HĐ của GV, HS và các lực lượng GD
19
khác, huy động tối đa các nguồn lực GD để nâng cao GD và đào tạo trong nhà
trường".[39]
Theo giáo sư Phạm Minh Hạc thì :"QL nhà trường là thực hiện đường
lối GD của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường
vận hành theo nguyên lý GD, để tiến tới mục tiêu GD, mục tiêu đào tạo đối với
ngành GD, với thế hệ trẻ và từng học sinh". "Việc QL trường học phổ thông là
QL HĐ dạy học tức là làm sao đưa HĐ đó từ trạng thái này sang trạng thái
khác để dần dần tiến tới mục tiêu GD".[18]
Theo tác giả Trần Kiệm thì: "QL trường học là thực hiện đường lối GD
của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lý GD, để tiến tới mục tiêu GD, mục tiêu đào tạo đối với

ngành GD, với thế hệ trẻ và với từng học sinh".[23]
Và giáo trình QL GD và đào tạo dùng để bồi dưỡng cán bộ QL trường
TH thì nêu rằng: QL nhà trường bao gồm hai loại tác động sau:
+ Tác động của những chủ thể QL bên trên và bên ngoài nhà trường.
(đó là những tác động QL của các cơ quan QL GD cấp trên nhằm hướng dẫn
và tạo điều kiện cho HĐ giảng dạy, học tập, GD của nhà trường; hoặc những
chỉ dẫn, những quyết định của các thực thể bên ngoài nhà trường nhưng có
liên quan trực tiếp đến nhà trường như cộng đồng được đại diện dưới hình
thức Hội khuyến học nhằm định hướng sự phát triển của nhà trường và hỗ trợ,
tạo điều kiện cho việc thực hiện phương hướng phát triển đó.
+ Tác động của những chủ thể QL bên trong nhà trường (bao gồm
các HĐ: QL GV, QL học sinh, QL quá trình dạy học GD, QL cơ sở vật chất
trang thiết bị trường học, QL tài chính trường học, QL quan hệ giữa nhà
trường và cộng đồng).
Như vậy, QL nhà trường là một HĐ được thực hiện trên cơ sở những
quy luật chung của QL, đồng thời có những nét riêng mang tính đặc thù của
GD. Do đó QL nhà trường cần vận dụng tất cả các nguyên lý chung của QL
GD để đẩy mạnh mọi HĐ của nhà trường theo mục tiêu đào tạo.
20
Mục đích của QL nhà trường là đưa nhà trường từ trạng thái đang có
tiến lên một trạng thái phát triển mới bằng phương thức xây dựng và phát
triển mạnh mẽ các nguồn lực phục vụ cho việc tăng cường chất lượng GD.
Mục đích cuối cùng của QL GD là tổ chức quá trình GD có hiệu quả để đào
tạo lớp trẻ thông minh, sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và phấn đấu vì
hạnh phúc của bản thân và của xã hội.
Tóm lại: Nhà trường là một thành tố cơ bản của hệ thống GD nên QL
nhà trường cũng được hiểu như là một bộ phận của QL GD. Thực chất của
QL nhà trường, suy cho cùng là tạo điều kiện cho các HĐ trong nhà trường
vận hành theo đúng mục tiêu, tính chất của nhà trường XHCN ở Việt Nam.
1.2.3.2. Quản lý trường tiểu học:

Hệ thống GD quốc dân của các nước trên thế giới đều có phân chia
thành các bậc học. Mỗi bậc học có đặc điểm riêng, một phương thức riêng ;
mỗi bậc học có mục tiêu GD, có nội dung và phương pháp tổ chức GD đặc
thù phù hợp với đặc điểm tâm-sinh lý HS và yêu cầu của xã hội với bậc học
đó. trong đó GD TH được mọi quốc gia quan tâm. ở nước ta bậc TH là bậc
học phổ thông đầu tiên và được xác định là : bậc học nền tảng của hệ thống
GD quốc dân.
Bởi lẽ bậc TH dành cho tất cả trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 14 (chủ yếu
từ 6 đến 11 tuổi). Theo tiến sĩ Nguyễn Kế Hào thì các em HS ở lứa tuổi này
có những đặc điểm sau:
* Mỗi HS TH là một chỉnh thể, một thực thể hồn nhiên.
* Mỗi HS TH tiềm tàng một khả năng phát triển.
* Mỗi HS TH là một nhân cách đang hình thành.
Trẻ em ở độ tuổi HS TH là một thực thể, chỉnh thể trọn vẹn nhưng chưa
định hình, chưa hoàn thiện mà là thực thể đang lớn lên, đang phát triển. ở mỗi
trẻ em, các bộ phận, các cơ quan của cơ thể với chức năng riêng cũng phát
triển không đều, không tạo được sự hài hoà cân đối ngay. Về mặt tâm lý cũng
vậy, các quá trình, các thuộc tính tâm lý cũng phát triển không đồng đều, chưa
21
hoàn thiện, chưa hài hoà . Có thể nói rằng, những gì con người có thể có
được, về cơ bản, còn đang ở phía trước các em, đang hứa hẹn trong quá trình
phát triển của các em.
Ba đặc điểm cơ bản trên tạo cho HS TH có tính chất dễ tiếp thu sự nuôi
dưỡng, sự GD, dễ thích nghi với điều kiện sống và học tập. HS TH phát triển
theo hướng hình thành nhân cách, định hình và hoàn thiện dần con người
mình theo hướng mục tiêu GD. Chính vì vậy mà những gì ta đưa đến cho trẻ
phải được chọn lọc, bảo đảm sự đúng đắn và lành mạnh, Phương pháp GD trẻ
cũng phải đúng, phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý trẻ em.
Qua các tài liệu nghiên cứu, qua thực tiễn cho thấy, trẻ em TH ngày
nay không phải chỉ có nhu cầu học 9 môn (theo chương trình quy định) mà

các em còn có mong muốn được tìm hiểu thêm về môi trường xung quanh,
được tham gia các HĐ tập thể, được làm quen với các phương tiện thông tin
…Ngoài những môn học chính khoá các em HS còn thích được học thêm các
môn năng khiếu nghệ thuật, ngoại ngữ, tin học …Cũng có nhiều HS muốn
được học hoặc tham gia đồng thời nhiều môn, nhiều HĐ. Điều đó chứng tỏ
HS TH có nhu cầu đòi hỏi được phát triển toàn diện.
Chính vì vậy bậc TH có bản sắc riêng và có tính độc lập tương đối của
nó vì nó không bắt buộc phụ thuộc vào sự GD của bậc học trước nó (bậc học
mầm non) và các bậc học sau đó. Mà ngược lại, các bậc học sau đó phụ thuộc
rất nhiều vào hiệu quả GD của bậc TH. Điều 27 của Luật GD đã chỉ rõ mục
tiêu của của GD TH là:"GD TH nhằm giúp HS hình thành những cơ sở ban
đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mĩ và các kỹ năng cơ bản để HS tiếp tục học trung học cơ sở".
Như vậy có thể thấy: "Bậc TH tạo những cơ sở ban đầu rất cơ bản và
bền vững cho trẻ em tiếp tục học lên bậc học trên, hình thành những cơ sở ban
đầu, đường nét ban đầu của nhân cách. những gì thuộc về tri thức và kỹ năng,
về hành vi và tính người được hình thành và định hình ở HS TH sẽ theo suốt
cuộc đời mỗi người (như chữ viết, như kỹ năng thực hiện phép tính, kỹ năng
22
ứng xử trong cuộc sống hàng ngày,..). Những gì đã được hình thành và định
hình ở trẻ em rất khó thay đổi, khó cải tạo lại. Đặc điểm này đòi hỏi sự chuẩn
xác với tính khoa học và tính nhân văn cao ở một nền GD, ở nhà trường, ở mỗi
GV và mỗi cán bộ QL GD".[33]
Bởi thế, trường TH có vị trí và nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong sự
nghiệp "trồng người". Trường TH lần đầu tiên tác động đến trẻ em bằng hình
thức nhà trường (bao gồm cả nội dung, phương pháp và tổ chức GD). Trường
TH là nơi đầu tiên tổ chức một cách tự giác HĐ học với tư cách là HĐ chủ
đạo cho trẻ em cũng như tổ chức một cách tự giác các HĐ khác cho học sinh.
Nói cách khác, trường TH là nơi tổ chức một cách tự giác quá trình phát triển
của trẻ em. Trường TH là đơn vị cơ sở, là công trình văn hoá - GD bền vững

hấp dẫn các lớp trẻ em, là nơi tạo cho trẻ em hạnh phúc được đi học.
Điều 3 trong Điều lệ trường TH đã chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của trường
TH là:
- Tổ chức giảng dạy, học tập và các HĐ GD khác theo chương trình
GD TH do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT quyết định ban hành.
- Huy động trẻ em đúng độ tuổi vào lớp một, vận động trẻ em bỏ học
đến trường, thực hiện kế hoạch phổ cập giáo duc TH và tham gia xoá mù chữ
trong phạm vi cộng đồng.
- QL GV, nhân viên và học sinh.
- QL sử dụng đất đai, trường sở, trang thiết bị và tài chính theo quy
định của pháp luật.
- Phối hợp với gia đình học sinh, tổ chức và cá nhân trong cộng đồng
thực hiện các HĐ GD.
- Tổ chức cho GV, nhân viên và HS tham gia các HĐ trong phạm vi
cộng đồng.
- Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp
luật.
23
Do đó nghề dạy học ở bậc TH có những điểm giống với nghề dạy học ở
các bậc học khác nhưng lại có những đặc thù riêng về mặt sư phạm mà người
GV ở các bậc học khác không được đào tạo hoặc không có được . Các em HS
ở độ tuổi này có quy luật phát triển tâm, sinh lý riêng. Đây là lứa tuổi đang
tiềm ẩn những khả năng phát triển rất lớn. Do vậy thầy giáo phải có tình
thương yêu, lòng tin và sự tôn trọng đối với trẻ em, đối xử công bằng, dân
chủ, lạc quan và tế nhị trong cách ứng xử, mềm dẻo nhưng lại kiên quyết.
Như vậy HĐ sư phạm của người GV TH gồm có: HĐ dạy, HĐ GD, HĐ
tự hoàn thiện CM, nghiệp vụ và HĐ xã hội.
Từ cách nhìn nhận về người GV TH trên đây có thể thấy lao động của
người GV TH có những đặc điểm riêng, họ là những GV với tư cách "ông
thầy tổng thể" trong HĐ dạy học . Người GV TH không phải chỉ "dạy chữ"

mà phải thực hiện mục tiêu "dạy chữ" trong mục tiêu "dạy người", phải rèn
cho trẻ bắt đầu hình thành tính cách con người. Những đặc điểm đó là:
- Đối tượng GD là trẻ em ở đang ở lứa tuổi hồn nhiên, hiếu động .
- Công cụ lao động của người GV là trí tuệ và phẩm chất của chính
mình. Người GV dùng trí tuệ và nhân cách của mình để tác động vào đối
tượng mà trí tuệ, nhân cách còn đang non trẻ đang cần hình thành và rèn
luyện. Công cụ này sẽ tác động có hiệu quả khi người thầy có uy tín cao về
phẩm chất và năng lực. Hay nói cách khác là nếu đức và tài của thầy giáo
càng cao thì sức thuyết phục HS càng lớn.
- Lao động của người GV có ý nghĩa chính trị và kinh tế to lớn vì GV
tạo ra sức lao động mới trong từng con người nhờ quá trình phức tạp, tinh tế
và công phu.
- Lao động của người GV đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính
sáng tạo.
Tóm lại, lao động của người GV, đặc biệt là người GV TH là một loại
hình lao động đặc thù mang tính "khai sáng" cho con người, từng bước cải
thiện con người tự nhiên thành con người xã hội.
24
Do các đặc thù riêng của nhà trường TH như trên nên ngoài những tri
thức về kinh tế học, xã hội học, GD học, QL hành chính một cơ sở v.v..thì
người QL trường TH đòi hỏi phải có những tri thức về: đặc điểm của nhà
trường TH, tâm lý học bậc TH, đặc điểm lao động của người GV TH...; đồng
thời phải có kỹ năng giao tiếp và ứng xử với đa dạng các lớp người như: GV,
học sinh, phụ huynh, các nhân vật trong cộng đồng có quan hệ trực tiếp hoặc
gián tiếp với nhà trường.
QL trường TH là quá trình sư phạm diễn ra trong nhà trường TH bằng
cách sử dụng có hiệu quả nhất các đầu vào (cơ sở vật chất, tài chính, nguồn
nhân lực, khoa học công nghệ) để đạt kết quả GD có chất lượng cao nhất khi
sử dụng các phương pháp, phương tiện hiện đại hợp lý và phù hợp với các
quy luật tâm lý, quy luật GD học để tiến hành việc biến đổi đối tượng GD từ

chưa biết đến biết.
Như vậy việc QL nhà trường nói chung, QL trường TH nói riêng phải
được giao vào tay các nhà QL có tầm nhìn xa và đặc biệt có khả năng tạo giá
trị. Họ là những người có tư duy sư phạm sâu sắc, biết khuyến khích các GV
trong trường phát huy tiềm năng sáng tạo trong HĐ sư phạm của mỗi người;
biết tạo lập và nuôi dưỡng, duy trì, phát triển hệ thống các giá trị GD, tương
hợp với các giá trị xã hội và ở một mặt nào đó chuẩn bị cho những giá trị xã
hội mới.
1.3. Quản lý tổ chuyên môn của hiệu trưởng tiểu học:
1.3.1. Tổ chuyên môn:
Theo quyết định 22/2000/QĐ-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ GD và đào
tạo ra ngày 11/7/2000 "về việc ban hành Điều lệ trường TH"thì ở điều 16 có
nêu rõ:" GV trường TH được tổ chức thành tổ CM theo khối lớp hoặc liên khối
lớp. Tổ CM có tổ trưởng và từ một đến hai tổ phó do HT cử". [4]
Cũng trong điều 16 còn nêu rõ những nhiệm vụ của tổ CM như sau:
25

×