1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính Cấp Thiết Của Đề Tài:
Công ty Cổ Phần Khử Trùng Việt Nam (VFC) là một Công Ty kinh doanh trong
lĩnh vực khử trùng và nông dược, với hơn 20 năm hoạt động đã nắm bắt cơ hội
vượt qua thách thức và đã có được những thành công nhất định, khẳng định là một
trong những Công Ty hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh thuốc BVTV (Bảo vệ
thực vật). Tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn cũng như thách thức phía trước, do
đó việc đánh giá bản thân để biết được điểm mạnh, điểm yếu đồng thời nắm bắt
những cơ hội là điều hết sức quan trọng. Và để tạo được chỗ đứng trên thị trường
ngoài những biện pháp kinh doanh như cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm,
hoàn thiện hệ thống phân phối mà còn phải tuyên truyền, quảng bá hình ảnh công
ty.Trước tình hình đó hoạt động Marketing ra đời.
Marketing vừa mang tính nghệ thuật vừa mang tính khoa học. Nó là một công cụ
phục vụ cho công tác nghiên cứu thị trường, nhằm hiểu biết sâu hơn về tình hình
khách hàng, thị trường, đối thủ cạnh tranh và qua đó mang lại hiệu quả cao cho
hoạt động kinh doanh của Công Ty.
Trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại những mặt tích cực và hạn chế. Một trong
những ưu điểm của nền kinh tế thị trường là quy luật đào thải. Chính mặc tích cực
này đã làm cho nền sản xuất đi lên. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì
yếu tố tiên quyết là phải có phương án kinh doanh mang lại hiệu quả kinh tế, tức là
bảo đảm bù đắp chi phí và mang lại lợi nhuận. Ngay từ khi thành lập, Công Ty đã
xác định được vai trò quan trọng của hoạt động Marketing nhằm tạo cho mình một
lợi thế cạnh tranh. Chính vì thế mà hiện nay sản phẩm của công ty đã có mặt ở hầu
hết tất cả các tỉnh trên đất nước, đặc biệt là tỉnh miền tây, và đã tạo được uy tính và
hình ảnh tốt trong tâm trí khách hàng.
Nhận thấy tình hình Marketing của công ty hoạt động sôi nổi, trong thời gian thực
tập tại Công Ty Cổ Phần Khử Trùng Việt Nam, được sự hướng dẫn tận tình của
thầy Đặng Thanh Vũ cùng với tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty nơi em
thực tập em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài:
2
Hoàn thiện hệ thống Marketing –Mix cho sản phẩm nhập khẩu thuốc bảo vệ
thực vật của Công Ty CP Khử Trùng VN (VFC).
2. Đối tượng và Phạm Vi Nghiên Cứu:
Đối tượng nghiên cứu đề tài này: Tập trung nghiên cứu về thực trạng Marketing
Mix (4P) bao gồm chính sách sản phẩm, giá cả, hệ thống kênh phân phối, và hoạt
động Marketing của Công Ty CP Khử Trùng VN qua đó đề xuất giải pháp nhằm
duy trì và hoàn thiện hệ thống.
Phạm vi nghiên cứu: Do quá trình thực tập trong một thời gian ngắn nên trong
khuông khổ đề tài này xin nói chủ yếu về thuốc Bảo Vệ Thực vật (BVTV), tình
hình hoạt động kinh doanh trong phạm vi cả nước và những năm gần đây nhất
2011-2013 của Công Ty CP Khử Trùng VN (VFC)
3. Tình Hình Nghiên Cứu:
Tập trung nghiên cứu hoạt động Marketing-Mix nhằm hoàn thiện hệ thống, qua đó
nâng cao hiệu quả hoạt động của Công Ty.
Số liệu thu thập phòng Kinh doanh, Marketing, Tài chình năm 2011, 2012, 2013.
4. Mục Đích Nghiên Cứu:
Nghiên cứu về các chiến lược Marketing -Mix đồng thời phân tích các yếu tố ảnh
hưởng đến chính sách của Công Ty.
Xây dựng giải pháp để hoàn thiện hệ thống Marketing-Mix nhằm nâng cao khả
năng cạnh tranh.
5. Nhiệm Vụ Nghiên Cứu:
Đánh giá thực trạng, ưu điểm, nhược điểm, đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm
hoàn thiện hệ thống Marketing-Mix của Công Ty VFC.
6. Phương Pháp Nghiên Cứu:
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu là phương pháp nghiên cứu tổng
hợp phương pháp so sánh, tổng hợp số liệu nhằm đánh giá tình hình kinh doanh
cũng như hiệu quả mà các chiến lượt Marketing-Mix mang lại. Từ đó có cơ sở để
3
hoạch định chiến lược Marketing-Mix mới phục vụ tốt hơn, mang lại hiệu quả kinh
tế tốt nhất cho Công Ty.
7. Dự Kiến Kết Quả Nghiên Cứu:
Đa dạng hóa các giải pháp Marketing nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tốt
hơn.Thông qua các phương pháp nghiên cứu để từ đó có cơ sở để hoạch định chiến
lược Marketing-Mix mới phục vụ tốt hơn, mang lại hiệu quả kinh tế tốt nhất cho
Công Ty.
8. Kết Cấu Của KLTN:
Chương 1: Cơ sở lý luận về marketing mix. Chương này giới thiệu về khái niệm,
vai trò, các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động Marketing, và nói lên sự cần thiết của
hệ thống Marketing -Mix.
Chương 2: Thực trạng tình hình hoạt động Marketing-Mix tại Công ty VFC. Bao
gồm cả phần giới thiệu sơ lược về công ty, tình hình tài chính, hoạt đông kinh
doanh, đến tình hình nhập khẩu thuốc BVTV và thị trường tiêu thụ cùng với đối thủ
cạnh tranh và khách hàng mục tiêu.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện hệ thống Marketing-Mix tại Công Ty VFC.
Bao gồm SWOT, định hướng phát triển, và đưa ra một số giải pháp và kiến nghị
nhằm duy trì và hoàn thiện hệ thống Marketing.
4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MARKETING MIX
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MARKETING
Marketing là làm việc với thị trường để thực hiện những vụ trao đổi với mục đích
thỏa mãn những nhu cầu và mong muốn của con người, hay nói khác hơn
Marketing là một dạng hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong
muốn thông qua trao đổi.
1.1.1 Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Marketing
Các nhà sản xuất kinh doanh luôn mong muốn là sản phẩm của họ thỏa mãn tối đa
nhu cầu tiêu dùng.Để đạt được mục tiêu đó họ luôn tiến hành các thử nghiệm khác
nhau và thử nghiệm Marketing đã đem lại thành công cho các nhà sản xuất. Như
vậy Marketing ra đời và áp dụng đầu tiên trong lĩnh vực bán hàng.
Giai đoạn từ đầu thế kỷ 20 đến chiến tranh thế giới lần hai, hoạt động Marketing
được coi là Marketing truyền thống.Marketing truyền thống có đặc trưng là: Coi thị
trường và lưu thông là khâu quan trọng của quá trình sản xuất. Hoạt động đầu tiên
của Marketing truyền thống là: Làm thị trường rồi sau đó mới tổ chức quá trình
phân phối và cung ứng hàng hóa nhanh nhất.
Lúc này các nhà kinh doanh đã nhận rõ được vai trò của người mua. Tức là người
mua giữ vai trò quyết định trên thị trường. Nhưng có một đặc trưng nổi bật nhất của
Marketing giai đoạn này là hoạt động theo định hướng sản xuất nghĩa là bán cái mà
mình có chứ không phải cái mà thị trường cần.
Marketing truyền thống là nền tảng cho sự phát triển của Marketing hiện đại sau
này. Vào thập niên 30 khoa học kỹ thuật phát triển mạnh, cạnh tranh diễn ra gay
gắt. Tình hình kinh tế thế giới có nhiều thay đổi, cạnh tranh tự do giữa các Công
Ty để chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ đã phá vỡ cân đối giữa cung ứng hàng hóa và
nhu cầu tiêu dùng. Khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1932, là một minh chứng
cho sự hạn chế của loại hình Marketing truyền thống. Chính vì vậy Marketing hiện
đại ra đời. Sự có mặt của Marketing hiện đại đã góp phần không nhỏ vào việc khắc
phục tình trạng khủng hoảng thừa và thúc đẩy sản xuất khoa học kỹ thuật phát triển.
5
Đặc trưng của Marketing hiện đại là thị trường và người mua có vai trò quyết định,
nhu cầu là mục tiêu của sản xuất và thỏa mản nhu cầu là yếu tố quyết định của quá
trình sản xuất. Việc làm đầu tiên của Marketing hiện đại là phát hiện ra nhu cầu thị
trường (nắm bắt thị trường) sau đó rồi đến việc tổ chức tất cả các khâu khác của quá
trình tái sản xuất, như sản xuất phân phối để có được sự cung ứng nhanh nhất, nhiều
nhất hàng hóa ra thị trường nhằm thỏa mản tối đa nhu cầu. Khẩu hiệu của
Marketing hiện đại lúc này là bán những cái thị trường cần chứ không phải cái mà
mình sẳn có. Marketing hiện đại không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại mà lan rộng sang các lĩnh vực khác của đời sống xã hội và trở thành
một hoạt động quan trọng trong chiến lược phát triển của Công Ty.
1.1.2 Marketing Và Vai Trò Trong Doanh Nghiệp
Khi mới ra đời Marketing chỉ là một khái niệm đơn giản giới hạn trong lĩnh vực
thương mại. Nó chỉ bao gồm các hoạt động của doanh nghiệp nhằm tiêu thụ những
hàng hóa và dịch vụ đã có sẳn và thu được lợi nhuận. Việc áp dụng các biện pháp
Marketing đã tạo điều kiện kích thích sản xuất hàng hóa phát triển. Với những tính
ưu việc của nó Marketing không chỉ phát huy trong lĩnh vực thương mại mà ngày
càng được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực phi thương mại khác.
Marketing có vai trò đặc biệt quan trọng trong quản trị kinh doanh của doanh
nghiệp, Marketing làm cho khách hàng và người sản xuất xích lại gần nhau hơn.
Ngoài ra, nó còn có vai trò hướng dẫn, chỉ đạo và phối hợp các hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp một cách nhịp nhàng. Nhờ Marketing mà doanh
nghiệp có những thông tin phản hồi từ phía khách hàng, để có sự thay đổi và thỏa
mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Ngày nay, Marketing là một trong những công
cụ hữu hiệu giúp cho Doanh Nghiệp có được vị thế trên thương trường.
Với các lợi thế trên Marketing đã mang lại những thắng lợi huy hoàng cho nhiều
doanh nghiệp. Nó đã trở thành một trong những vũ khí cạnh tranh rất hiệu quả.
6
1.2 TỔNG QUAN VỀ MARKETING –MIX
1.2.1 Khái Niệm Marketing –Mix
Marketing hỗn
hợp (Marketing Mix) là tập hợp các công cụ tiếp thị được doanh nghiệp sử dụng để
đạt được trọng tâm tiếp thị trong thị trường mục tiêu.
Sau khi quyết định đưa sản phẩm ra thị trường, doanh nghiệp cần xây dựng một hệ
thống Marketing-mix đểthực hiện nó. Hệ thống Marketing-Mix (4P) là sự kết hợp
hài hòa của 4 chính sách cấu thành chủ yếu đó là: Product (sản phẩm), Price (giá
cả), Place (phân phối) và Promotions (xúc tiến thương mại hoặc hỗ trợ bán hàng).
Product (Sản phẩm): Một đối tượng hữu hình hoặc một dịch vụ vô hình đó là khối
lượng sản xuất hoặc sản xuất trên quy mô lớn với một khối lượng cụ thể của đơn vị.
Sản phẩm vô hình là dịch vụ như ngành du lịch và các ngành công nghiệp khách
sạn hoặc mã số các sản phẩm như nạp điện thoại di động và tín dụng. Ví dụ điển
hình của một khối lượng sản xuất vật thể hữu hình là những chiếc xe có động cơ.
Một khối lượng chưa rõ ràng nhưng phổ biến dịch vụ sản xuất là một hệ thống điều
hành máy tính.
Hình 1.1: Thành phần của Marketing-Mix
(Nguồn Wikipedia Marketing-mix)
7
Price (Giá cả): Giá bán là chi phí khách hàng phải bỏ ra để đổi lấy sản phẩm hay
dịch vụ của nhà cung cấp. Nó được xác định bởi một số yếu tố trong đó có thị phần,
cạnh tranh, chi phí nguyên liệu, nhận dạng sản phẩm và giá trị cảm nhận của khách
hàng với sản phẩm. Việc định giá trong một môi trường cạnh tranh không những vô
cùng quan trọng mà còn mang tính thách thức. Nếu đặt giá quá thấp, nhà cung cấp
sẽ phải tăng số lượng bán trên đơn vị sản phẩm theo chi phí để có lợi nhuận. Nếu
đặt giá quá cao, khách hàng sẽ dần chuyển sang đối thủ cạnh tranh. Quyết định về
giá bao gồm điểm giá, giá niêm yết, chiết khấu, thời kỳ thanh toán.
Place (Phân phối): đại diện cho các địa điểm mà một sản phẩm có thể được mua.
Nó thường được gọi là các kênh phân phối. Nó có thể bao gồm bất kỳ cửa hàng vật
lý cũng như các cửa hàng ảo trên Internet. Việc cung cấp sản phẩm đến nơi và vào
thời điểm mà khách hàng yêu cầu là một trong những khía cạnh quan trọng nhất của
bất kỳ kế hoạch Marketing nào.
Promotions (xúc tiến thương mại hoặc hỗ trợ bán hàng): hỗ trợ bán hàng là tất cả
các hoạt động nhằm đảm bảo rằng khách hàng nhận biết về sản phẩm hay dịch vụ
của bạn, có ấn tượng tốt về chúng và thực hiện giao dịch mua bán thật sự. Những
hoạt động này bao gồm quảng cáo, catalog, quan hệ công chúng và bán lẻ, cụ thể là
quảng cáo trên truyền hình, đài phát thanh, báo chí, các bảng thông báo, đưa sản
phẩm vào phim ảnh, tài trợ cho các chương trình truyền hình và các kênh phát thanh
được đông đảo công chúng theo dõi, tài trợ cho các chương trình dành cho khách
hàng thân thiết, bán hàng qua điện thoại, bán hàng qua thư trực tiếp, giới thiệu sản
phẩm tận nhà, gởi catalog cho khách hàng, quan hệ công chúng.
Kết Hợp 4C và 4P:
Tuy vậy, chiến lược này chỉ có thể đem lại thành công nếu doanh nghiệp hoạch định
và triển khai dưới góc nhìn khách quan từ khách hàng và người tiêu dùng, chứ
không phải từ góc nhìn chủ quan của doanh nghiệp. Góc nhìn khách quan từ khách
hàng sẽ giúp doanh nghiệp đưa ra thị trường những sản phẩm đáp ứng được mong
đợi của khách hàng, bán với mức giá mà khách hàng chấp nhận được, phân phối ở
nơi thuận tiện cho khách hàng, và làm công tác truyền thông theo cách mà khách
hàng thích.
8
Chính vì vậy, các chuyên gia marketing đã đưa ra khái niệm 4C và gắn các C này
với các P theo từng cặp để lưu ý những người làm Marketing đừng quên xem khách
hàng là trọng tâm khi hoạch định các chiến lược tiếp thị.
Chữ C đầu tiên - Customer Solutions (giải pháp cho khách hàng) được gắn với chữ
P - Product (sản phẩm) thể hiện quan điểm mỗi sản phẩm đưa ra thị trường phải
thực sự là một giải pháp cho khách hàng, nghĩa là nhằm giải quyết một nhu cầu
thiết thực nào đó của khách hàng chứ không phải chỉ là “giải pháp kiếm lời”
của doanh nghiệp. Muốn làm tốt chữ C này, doanh nghiệp buộc phải nghiên cứu
thật kỹ để tìm ra nhu cầu đích thực của khách hàng, giải pháp nào để đáp ứng đúng
nhu cầu này.
Chữ C thứ hai - Customer Cost (chi phí của khách hàng) được gắn với chữ
P- Price (giá) thể hiện quan điểm cho rằng giá của sản phẩm cần được nhìn nhận
như là chi phí mà người mua sẽ bỏ ra. Chi phí này không chỉ bao gồm chi phí mua
sản phẩm mà còn cả chi phí sử dụng, vận hành, và cả hủy bỏ sản phẩm. Chi phí này
phải tương xứng với lợi ích mà sản phẩm đem lại cho người mua.
Chữ C thứ ba - Convenience (thuận tiện) được gắn với chữ P - Place (phân phối)
đòi hỏi cách thức phân phối sản phẩm của doanh nghiệp phải tạo sự thuận tiện cho
khách hàng.
Chữ C cuối cùng –Communication (giao tiếp) được gắn với chữ P- Promotion
(khuyến mãi, truyền thông) yêu cầu công tác truyền thông phải là sự tương tác, giao
tiếp hai chiều giữa doanh nghiệp với khách hàng. Doanh nghiệp lắng nghe tâm tư,
nguyện vọng của khách hàng và “nói” cho khách hàng nghe là sản phẩm sẽ đáp ứng
những tâm tư, nguyện vọng đó như thế nào. Một chiến lược truyền thông hiệu quả
phải là kết quả của sự giao tiếp, tương tác giữa sản phẩm, thương hiệu với khách
hàng để đạt được sự thông hiểu và cảm nhận sâu sắc từ khách hàng đối với sản
phẩm, thương hiệu.
Không ít doanh nghiệp hiện nay thực hiện quảng cáo theo kiểu “tuôn ra xối xả” một
chiều từ phía doanh nghiệp, bất chấp người tiêu dùng “tiêu hóa” được đến đâu.
Nhiều thông điệp còn gây rối rắm, khó hiểu, thậm chí phản cảm cho khách hàng. Ở
9
đây, công tác truyền thông đã không mang ý nghĩa giao tiếp, trao đổi thông tin giữa
hai đối tượng.
Và như vậy, sẽ không bao giờ sản phẩm hay thương hiệu đạt được thiện cảm, nói
chi đến đồng cảm, từ phía khách hàng. Kết quả là sản phẩm cùng với thương hiệu
rất dễ bị khách hàng quên. Truyền thông giao tiếp hai chiều được các công ty
chuyên nghiệp thực hiện thông qua việc lắng nghe phản hồi của khách hàng, phân
tích phản ứng của khách hàng, và đo lường kết quả của các đợt truyền thông để có
sự hiệu chỉnh cần thiết cho một phần hoặc toàn bộ chiến dịch.
Chắc chắn là sẽ còn cần nhiều chữ C hơn để thể hiện góc nhìn khách quan từ phía
khách hàng thay cho góc nhìn chủ quan từ phía doanh nghiệp. Mỗi chữ P đều cần
gắn liền với một chữ C (Customer) để thể hiện quan điểm xuyên suốt là “hướng về
khách hàng”. Không cách nào khác, doanh nghiệp phải lấy khách hàng làm trọng
tâm để hoạch định chiến lược và triển khai các chương trình hành động ở mọi bộ
phận của doanh nghiệp, không chỉ trong lĩnh vực tiếp thị.
1.2.2 Những Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Marketing-Mix Của Doanh Nghiệp
Marketing –mix không có khuông mẫu chung nào cho mọi trường hợp mà nó thay
đổi theo các yếu tố ảnh hưởng như sau:
1.2.2.1 Nhân Tố Môi Trường Vĩ Mô
Đó chính là uy tính của doanh nghiệp trên thị trường. Nếu doanh nghiệp đã chiếm
lĩnh được thị phần cao thì lúc đó không cần tốn nhiều chi phí cho các hoạt động xúc
tiến nhưng vẫn bán được hàng.
1.2.2.2 Nhân Tố Môi Trường Ngành (Yếu Tố Thị Trường)
Tùy thuộc vào khả năng mua hàng của từng thị trường mà doanh nghiệp phải có
chiến lượt Marketing-mix khác nhau. Ví dụ sức mua của thị trường thành thị cao
hơn sức mua của thị trường vùng sâu, vùng xa. Vì vậy chiến lượt Marketing –Mix
cho sản phẩm ở các thị trường đó phải khác nhau.
1.2.2.3 Nhân Tố Môi Trường Nội Tại (Nhân Tố Sản Phẩm)
Sản phẩm khác nhau phải có cách bán hàng, xúc tiến khác nhau. Do đó, Doanh
Nghiệp phải thiết kế hệ thống phân phối và sử dụng công cụ xúc tiến khác nhau.
10
1.2.3 Các Thành Phần Của Chiến Lược Marketing –Mix
1.2.3.1 Chính Sách Sản Phẩm
Chính sách về sản phẩm là nền tảng của chính sách Marketing hỗn hợp, được xác
định dựa trên kế hoạch kinh doanh quy mô lớn hơn dành cho sản phẩm mới và
chiến lược Marketing tổng thể cho mọi sản phẩm đang có của Doanh Nghiệp. Khi
xem xét chính sách sản phẩm, doanh nghiệp cần quan tâm đến những vấn đề sau:
Sản phẩm hàng hóa là gì?
Đối với các chuyên gia Marketing, họ hiểu sản phẩm – hàng hóa ở một phạm vi
rộng lớn hơn nhiều, cụ thể là: Sản phẩm – hàng hóa là tất cả những cái, những yếu
tố có thể thõa mãn nhu cầu hay ước muốn của khách hàng, cống hiến những lợi ích
cho họ và có khả năng đưa ra chào bán trên thị trường với mục đích thu hút sự chú
ý mua sắm, sử dụng hay tiêu dùng.
Vai Trò, Vị Trí Của Chiến Lược Sản Phẩm
Chiến lược sản phẩm có một vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng . Nó là nền tảng là
xương sống của chiến lược chung Marketing. Chiến lược sản phẩm là một vũ khí
sắc bén nhất trong cạnh tranh trên thị trường.
Chiến lược sản phẩm giúp doanh nghiệp xác định phương hướng đầu tư, thiết kế
sản phẩm phù hợp thị hiếu, hạn chế rủi ro, thất bại, chỉ đạo thực hiện hiệu quả các P
còn lại trong Marketing hỗn hợp.
Yếu tố quyết định vị trí của một hãng trên thị trường là ở chỗ:
- Liệu sản phẩm của hãng có vượt lên được sản phẩm cạnh tranh không?
- Vượt lên như thế nào?
- Làm thế nào để khách hàng mua hàng của mình?
Tất cả những điều trên chỉ thực hiện được khi công ty có một chiến lược sản phẩm
đúng đắn, tạo ra sản phẩm mới với chất lượng tốt. Nhân tố quyết định sự thành công
của doanh nghiệp chính là bản thân sản phẩm của họ. Việc xác định đúng đắn chiến
lược sản phẩm có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại của doanh nghiệp.
Quản lý chất lượng tổng hợp:
Việc nghiên cứu thị trường và khách hàng không chỉ trả lời câu hỏi khách hàng cần
gì, cần bao nhiêu, cần vào thời điểm nào và khả năng thanh toán của họ ra sao, mà
11
còn phải biết họ đòi hỏi mức độ chất lượng như thế nào, chất lượng nào có thể cho
họ thoả mãn nhất. Tuy nhiên sự đòi hỏi về chất lượng của khách hàng là không có
giới hạn, để quyết định mức định lượng thích ứng công ty phải nghiên cứu mức chất
lượng của những sản phẩm cạnh tranh thay thế. Từ đó xác định những yêu cầu chất
lượng với thiết kế và định hướng quản lý chất lượng trong quá trình chế tạo sản
phẩm.
Phát triển nhãn hiệu và bao bì sản phẩm:
Việc lựa chọn nhãn hiệu cho sản phẩm có ý nghĩa quan trọng bảo đảm thành công
của phát triển sản phẩm mới. Việc lựa chọn nhãn hiệu phải bảo đảm những yêu cầu
tối thiểu sau:
- Phải hàm ý về lợi ích của sản phẩm.
- Phải hàm chứa ý đồ về định vị.
- Phải hàm ý về chất lượng.
- Tên nhãn hiệu phải dễ phát âm và dễ nhớ.
- Không trùng hoặc không tương tự với nhãn hiệu của doanh nghiệp khác.
- Hợp với phong tục tập quán của thị trường mục tiêu.
Quyết định lựa chọn bao gói sản phẩm:
Bao bì sản phẩm phải đảm bảo thực hiện đồng thời bốn chức năng: bảo quản và bán
hàng hoá, thông tin về hàng hoá, thẩm mỹ, tạo nên sự hấp dẫn của sản phẩm với
khách hàng và chức năng thương mại. Những yếu tố của một nhãn hàng tốt:
- Gợi mở một cái gì đó về đặc tính của sản phẩm chẳng hạn như lợi ích, giá trị sử
dụng của sản phẩm.
- Dễ phát âm, đánh vần và dễ nhớ.
- Dễ phân biệt với các nhãn hàng khác.
- Thích nghi với sản phẩm mới để có thể thêm vào dòng sản phẩm sẵn có của
doanh nghiệp.
- Đúng luật lệ để có thể đăng ký nhãn hàng với cơ quan có thẩm quyền.
Chu kỳ sống của sản phẩm:
Các doanh nghiệp cần nghiên cứu đặc trưng chu kỳ sống của sản phẩm và đề ra các
biện pháp Marketing phù hợp nhằm làm cho một sản phẩm ít nhất là vượt qua tất
cả các giai đoạn của một chu kỳ sống nếu tốt hơn nữa là một chu kỳ tiếp theo.
12
Hình 1.2: Chu kỳ sống của sản phẩm
(Nguồn website Marketing.vn)
Giai Đoạn Giới Thiệu
Suốt giai đoạn đầu tiên của chu kỳ sống, sản phẩm được tung vào thị trường với
chương trình Marketing và sự sản xuất hoàn chỉnh. Đã đi qua những bước phôi thai
của việc đánh giá ý kiến, và trắc nghiệm thị trường. Sản phẩm này có thể là mới.
Hoặc là, sản phẩm có thể đã được biết nhưng có một đặc điểm mới hay được thêm
vào trong giai đoạn giới thiệu. Hoặc là, nó có thể được chấp nhận ở một số khúc thị
trường, nhưng ở trong giai đoạn đầu của những khúc thị trường khác.
Tỷ lệ thất bại của sản phẩm trong giai đoạn này thì cao. Bởi chi phí cao, cường độ
doanh số thấp, thiệt hại cao, và sự phân phối hạn chế. Theo kinh nghiệm, giai đoạn
bắt đầu này là giai đoạn tốn kém và rủi ro nhất. Tuy nhiên, thực tế đối với những
sản phẩm mới, có rất ít sự cạnh tranh. Chương trình chiêu thị được tạo ra để kích
thích nhu cầu trước tiên, và chủ yếu là nhấn mạnh loại sản phẩm.
Giai Đoạn Phát Triển
Trong giai đoạn tăng trưởng, hoặc giai đoạn được thị trường chấp nhận, cả doanh số
và lợi nhuận đều tăng ở tốc độ nhanh. Những đối thủ cạnh tranh tham gia vào thị
trường càng đông nếu như triển vọng lợi nhuận đặc biệt hấp dẫn. Những người bán
chuyển tới một chiến lược chiêu thị cho việc mua sản phẩm hơn là thử sản phẩm. Số
thị trường tiêu thụ tăng lên, giá cả có thể đi xuống một ít.
Giai Đoạn Trưởng Thành
13
Suốt thời gian đầu của giai đoạn này, doanh số tiếp tục tăng lên, nhưng ở một tốc độ
giảm dần. Trong khi doanh số đang được ổn định, thì lợi nhuận của nhà sản xuất và
những nhà buôn lẻ giảm xuống. Sự cạnh tranh giá cả trở nên gay gắt hơn. Nhà sản
xuất gánh vác một phần lớn hơn cho những cố gắng chiêu thị chung trong việc đấu
tranh để duy trì những người bán và những sản phẩm ở trong cửa hàng của họ.
Những kiểu mẫu mới được giới thiệu khi nhà chế tạo mở rộng những tuyến sản
phẩm của họ, và doanh số trong thương mại trở nên đáng chú ý.
Giai Đoạn Suy thoái
Thật sự đối với tất cả những sản phẩm thì sự cũ đi là không thể tránh khỏi khi
những sản phẩm mới bắt đầu chu kỳ sống của chúng, và sẽ thay thế cho những sản
phẩm cũ. Sự kiểm soát chi phí trở nên càng quan trọng khi nhu cầu giảm xuống.
Quảng cáo giảm xuống, và một số đối thủ cạnh tranh rút ra khỏi thị trường. Sản
phẩm có bị diệt vong hay không, hoặc là những người bán có thể cứu sống được sản
phẩm hay không, tuỳ thuộc vào khả năng quản lý của doanh nghiệp.
1.2.3.2 Chính Sách Giá Cả
Ngày nay, giá cả không phải là yếu tố cạnh tranh hàng đầu nhưng vẫn luôn được coi
là yếu tố cạnh tranh quan trọng trong việc thu hút khách hàng đặc biệt là ở những
thị trường mà thu nhập của dân cư còn thấp. Trong việc phát triển sản phẩm mới
doanh nghiệp phải có chính sách giá thích hợp để tạo cho sản phẩm có chỗ đứng
vững chắc trên thị trường. Trong chính sách giá đối với sản phẩm mới, doanh
nghiệp có thể theo đuổi những mục tiêu cơ bản sau đây:
- Để tồn tại (giá cao hơn chi phí).
- Để tối đa hoá lợi nhuận trước mắt.
- Để tăng thị phần.
- Để thu hồi vốn nhanh.
- Để dẫn đầu về chất lượng.
Các mục tiêu khác: một Doanh Nghiệp có thể dùng giá để phục vụ cho một số mục
tiêu cụ thể hơn. Doanh nghiệp có thể đặt giá ở mức thấp để ngăn chăn cạnh tranh
hay đặt giá bằng giá của đối thủ cạnh tranh để giữ ổn đinh thị trường. Giá có thể
được quyết đinh ở mức giữ uy tín cũng như hỗ trợ các hãng buôn hay để tránh sự
14
can thiệp của Chính phủ. Tuy nhiên, Doanh Nghiệp không thể dựa vào ý muốn chủ
quan của mình để định giá, cần phải tuân thủ những ràng buộc nhất định.
Khi xác định giá cho một sản phẩm, nhất là sản phẩm mới, Doanh Nghiệp cần xem
xét nên áp dụng chính sách giá hớt váng thị trường (skimming) hay giá thâm nhập
thị trường (penetration pricing).
Chính sách giá hớt váng thị trường (Market-Skimming Pricing):
Hớt váng thị trường liên quan đến việc định giá cao so với giá thị trường. Chính
sách này đặc biệt thích hợp với các sản phẩm mới vì:
- Trong giai đoạn đầu của chu kỳ sống của một sản phẩm, giá cả không phải là yếu
tố quan trọng nhất.
- Thị trường sẽ được phân định theo thu nhập nhờ giá cao.
- Nó có thể là một yếu tố bảo vệ một khi giá cả xác định sai.
- Giá cao ban đầu sẽ hạn chế nhu cầu ở mức sản xuất ban đầu của doanh nghiệp.
Chính sách giá thâm nhập thị trường:
Trong chiến lược này, một mức giá thấp ban đầu sẽ giúp sản phẩm có được thị phần
lớn ngay lập tức. Tuy nhiên, để áp dụng chính sách này, nên có những điều kiện
sau:
- Sản phẩm có mức cầu giãn lớn.
- Giá đơn vị của sản phẩm sẽ phải giảm đi đáng kể khi sản phẩm được sản xuất
theo quy mô lớn.
- Doanh nghiệp cần dự tính trước là sản phẩm đó sẽ phải chịu cạnh tranh mạnh
ngay khi nó xuất hiện trên thị trường.
Chiết khấu và hoa hồng
- Chiết khấu số lượng: Các đơn đặt hàng có thể giảm chi phí sản xuất và vận
chuyển hàng hoá.
- Chiết khấu thương mại.
- Chiết khấu thanh toán.
Các khoản hoa hồng: đó là việc giảm giá để bồi hoàn lại những dịch vụ khuyến mãi
mà các đại lý đã thực hiện.
1.2.3.3 Chính Sách Phân Phối
15
Nội dung cơ bản của chính sách phân phối trong Marketing sản phẩm mới là thiết
kế và quản lý mạng lưới bán hàng trong giai đoạn đầu doanh nghiệp tung sản phẩm
ra thị trường.
Mạng lưới bán hàng đó là tập hợp các kênh với sự tham gia của các chủ thể khác
nhau có sức mạnh và uy tín khác nhau để đưa hàng hoá từ doanh nghiệp sản xuất
đến các khách hàng một cách thành công. Việc thiết kế và quản lý các kênh bán
hàng hoá mới của doanh nghiệp phải bảo đảm các yêu cầu cơ bản sau đây:
- Phù hợp với tính chất của sản phẩm.
- Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng trong việc tiếp cận và tìm mua sản
phẩm một cách dễ dàng.
- Xem xét kênh phân phối của đối thủ cạnh tranh.
- Các kênh phân phối cần đảm bảo tăng doanh số bán của công ty và thiết lập mối
quan hệ bền vững với các trung gian.
Thế nào là một đại lý của nhà sản xuất?
Đó là một hãng bán buôn trung gian bán một phần hoặc tất cả dòng sản phẩm của
doanh nghiệp ở một vùng lãnh thổ định trước. Một đại lý của nhà sản xuất rất có ích
trong ba tình huống dưới đây:
- Một doanh nghiệp nhỏ với một số loại sản phẩm nhất định và không có lực
lượng bán hàng. Như vậy, đại lý là người đảm nhiệm công tác bán hàng.
- Một doanh nghiệp muốn thêm một sản phẩm hoàn toàn mới hoặc có thể không
có liên quan vào dòng sản phẩm sẵn có của mình. Nhưng đội ngũ bán hàng của
doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm đối với sản phẩm mới hoặc đối với một
phần thị trường mới. Phân phối sản phẩm mới này có thể giao cho đại lý đảm
trách.
- Một doanh nghiệp muốn thâm nhập vào một thị trường mới nhưng đội ngũ bán
hàng của họ chưa đủ phát triển để có thể đảm nhiệm. Doanh nghiệp có thể sử
dụng một nhà đại lý quen thuộc với mảng thị trường đó.
Có ba loại kênh phân phối chính:
Phân phối đặc quyền:
- Hạn chế số nhà phân phối trung gian.
- Nhà trung gian không bán hàng của đối thủ cạnh tranh.
- Doanh nghiệp hy vọng khách hàng có đủ kiến thức và năng động để mua sản
phẩm.
16
- Tăng cường ấn tượng của sản phẩm và có lãi cao.
- Chọn một địa điểm để bán sản phẩm.
Phân phối có chọn lọc:Là phương thức trong đó số doanh nghiệp sản xuất nhiều
hơn số nhà phân phối và doanh nghiệp sản xuất không tốn nhiều chi phí để kiểm
soát các địa điểm bán hàng.
Phân phối rộng rãi: Doanh nghiệp sẽ tìm nhiều địa điểm bán hàng tạo thuận lợi
cho khách hàng tìm kiếm sản phẩm nhưng sẽ mất khả năng kiểm soát hệ thống bán
hàng.
1.2.3.4 Chính Sách Xúc Tiến
Bán hàng trực tiếp:
Ưu điểm:
- Độ linh hoạt lớn.
- Nhằm thẳng vào khách hàng mục tiêu.
- Tạo ra doanh số bán thực tế.
Khó khăn: Chi phí cao
Quảng cáo:
Ưu điểm:
- Hỗ trợ hoạt động bán hàng trực tiếp, thu hút những khách hàng mà đội ngũ bán
hàng chưa thể tiếp thị được.
- Cải thiện mối quan hệ với các nhà bán buôn, thâm nhập vào một thị trường (địa
lý) mới hay thu hút một phân đoạn thị trường mới.
- Giới thiệu sản phẩm mới.
- Mở rộng khả năng sử dụng của một sản phẩm.
- Tăng doanh số bán hàng công nghiệp.
- Chống lại các sản phẩm thay thế.
- Xây dựng thiện chí của công chúng đối với doanh nghiệp.
Hỗ trợ bán hàng:
Chính sách "kéo": Chính sách này được sử dụng khi mục tiêu của doanh nghiệp là
tăng lượng bán và đòi hỏi phải thâm nhập vào một thị trường mới. Để khuyến khích
khách hàng dùng thử sản phẩm mới và thuyết phục họ không dùng các sản phẩm
khác,doanh nghiệp có thể sử dụng các biện pháp như coupon, chiết khấu thanh toán,
phát hàng thử, và các loại tiền thưởng.
17
Chính sách "đẩy": Chính sách này góp phần hỗ trợ hoạt động bán lẻ và thiện chí
của các đại lý. Các hoạt động hỗ trợ trong chính sách này có thể là đào tạo cho đội
ngũ bán hàng của nhà đại lý bán lẻ, trình bày các điểm bán hàng, và trợ cấp quảng
cáo.
Tài liệu quảng cáo:
Ưu điểm:
- Chi phí thấp hơn quảng cáo và bán trực tiếp.
- Đem đến cho khách hàng một nội dung quảng cáo đáng tin cậy hơn so với
quảng cáo trên các phương tin truyền thông qua đó thu hút được sự chú ý của
nhiều người hơn.
- Khách hàng có thể có được nhiều thông tin hơn.
- Đúng lúc hơn.
Quan hệ đối ngoại:
Những hoạt động này được tổ chức nhằm xây dựng và phát triển một hình ảnh hay
một mối quan hệ tốt đẹp giữa doanh nghiệp và công chúng - khách hàng, những
nhân viên, cơ quan địa phương và chính phủ. Các phương tiện truyền thông có thể
sử dụng trong các chiến dịch quảng cáo:
- Báo chí.
- Vô tuyến truyền hình.
- Thư trực tiếp.
- Truyền thanh.
- Tạp chí.
- Quảng cáo ngoài trời.
1.2.4 Marketing Nông Dược
Mức độ đầu tư cho marketing và kênh phân phối đóng vai trò quyết định trong việc
tạo ra lợi thế cạnh tranh. Những công ty có tiềm lực trong ngành đều lựa chọn việc
đầu tư cho mua quyền sử dụng đất để đặt chi nhánh và kho hàng, nhằm chủ động
trong hoạt động phân phối và tiết kiệm chi phí thuê mặt bằng. Những công ty có
dòng sản phẩm rộng (ví dụ, thuốc bảo vệ thực vật kết hợp phân bón, giống) cho
phép chia sẻ kênh phân phối, sử dụng hiệu quả diện tích kho hàng và giúp cho kênh
phân phối hoạt động hiệu quả.
Mức độ phủ rộng của kênh phân phối đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên lợi
thế cạnh tranh trong ngành. Những công ty có hệ thống đại lý phân phối nhỏ thường
không cung ứng đủ sản phẩm cần thiết làm cho người nông dân phải chuyển sang
18
mua sản phẩm của công ty khác. Điều này dẫn đến nguy cơ bị mất thị phần khi
bước sang các vụ tiếp theo.
Để dành lợi thế cạnh tranh, đầu tư nguồn lực về vốn cho marketing và bán hàng rất
cao, bao gồm các khoản chi như: trang bị xe tải vận chuyển, đầu tư mặt bằng kho
hàng, chi phí cho quảng cáo, xúc tiến bán hàng, các chương trình hợp tác và hỗ trợ
kỹ thuật cho nông dân…. nhằm gia tăng mức độ phủ rộng của kênh phân phối. Tính
kinh tế nhờ quy mô thể hiện rõ trong khâu Marketing và bán hàng. Những công ty
có doanh số lớn sẽ giúp giảm chi phí marketing và bán hàng trên mỗi đơn vị sản
phẩm tiêu thụ và đem lại lợi thế chi phí lớn.
Nỗ lực xây dựng thương hiệu riêng. Bên cạnh việc phân phối các sản phẩm nhập
khẩu từ các tập đoàn hoá chất trên thế giới, các công ty đều nỗ lực nghiên cứu và
đưa ra những sản phẩm mang thương hiệu riêng và tăng dần tỷ trọng doanh số từ
những mặt hàng mang thương hiệu riêng của mình.
Hoạt động nghiên cứu và phát triển đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra lợi thế
cạnh tranh. Các công ty trong ngành thường chú trọng hợp tác với các trường đại
học và các viện nghiên cứu nông nghiệp trong việc chế tạo các loại thuốc bảo vệ
thực vật mới hoặc phổ biến kỹ thuật cho người nông dân. Hướng nghiên cứu thường
tập trung vào các sản phẩm mới theo hướng thân thiện với con người và môi
trường, thay thế dần những hoá chất độc hại và góp phần vào giảm giá thành sản
phẩm. Hoạt động nghiên cứu và phát triển cũng thường đòi hỏi vốn đầu tư đáng kể
như: đầu tư mặt bằng cho nghiên cứu thử nghiệm, chi phí phát triển các sản phẩm
mới… Đây cũng là hoạt động có tính kinh tế nhờ quy mô. Những công ty có doanh
số bán hàng lớn sẽ giúp giảm chi phí nghiên cứu và phát triển trên mỗi đơn vị sản
ĐVT:Chi nhánh
Bảng 1.1: Quy mô kênh phân phối của các công ty trong ngành
(Nguồn Marketing Nông Nghiệp)
STT Tên Công ty Chi nhánh Đại lý cấp 1
1 CTCP Bảo vệ thực vật An Giang 25 500
2 CTCP Nông dược HAI 13 341
3 CTCP Khử trùng Việt Nam 15 450
4 CTCP Thuốc sát trùng Cần Thơ 0 60
19
phẩm tiêu thụ và đem lại lợi thế chi phí lớn. Trong khi đó, khâu sản xuất không thể
hiện rõ tính kinh tế nhờ quy mô bởi vì chủ yếu là hoạt động gia công và không đòi
hỏi đầu tư lớn về máy móc thiết bị sản xuất.
20
Tóm Tắt Chương 1
Với nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay, với xu hướng mở cửa hội nhập nền
kinh tế thế giới, thì Marketing thực sự cần thiết đối với mọi Doanh nghiệp.Vì chính
Marketing là một nhân tố quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển chính của
Doanh nghiệp.
Nói chung, chức năng của hoạt động Marketing trong doanh nghiệp luôn luôn chỉ
cho doanh nghiệp biết rõ những nội dung cơ bản sau đây:
- Khách hàng của doanh nghiệp là ai? Họ mua hàng ở đâu? Họ mua bao nhiêu? Họ
mua như thế nào? Vì sao họ mua?
- Họ cần loại hàng hoá nào? Loại hàng hoá đó có những đặc tính gì? Vì sao họ cần
đặc tính đó mà không phải đặc tính khác? Những đặc tính hiện thời của hàng hoá
còn phù hợp với hàng hoá đó nữa không?
- Hàng hoá của doanh nghiệp có những ưu điểm và hạn chế gì? Có cần phải thay
đổi không? Cần thay đổi đặc tính nào? Nếu không thay đổi thì sao? Nếu thay đổi thì
gặp điều gì?
- Giá cả hàng hoá của doanh nghiệp nên quy định như thế nào, bao nhiêu? Tại sao
lại định mức giá như vậy mà không phải mức giá khác? Mức giá trước đây còn
thích hợp không? Nên tăng hay giảm? Khi nào tăng, giảm? Tăng, giảm bao nhiêu,
khi nào thì thích hợp? Thay đổi với khách hàng nào, hàng hoá nào?
- Doanh nghiệp nên tự tổ chức lực lượng bán hàng hay dựa vào tổ chức trung gian
khác? Khi nào đưa hàng hoá ra thị trường? Đưa khối lượng là bao nhiêu?
- Làm thế nào để khách hàng biết, mua và yêu thích hàng hoá của doanh nghiệp?
Tại sao lại phải dùng cách thức này chứ không phải cách thức khác? Phương tiện
này chứ không phải phương tiện khác?
Đó là các vấn đề mà ngoài chức năng Marketing không có chức năng nào có thể trả
lời được. Dựa vào các vấn đề cơ bản trên, doanh nghiệp xây dựng cho mình một
chính sách Marketing- Mix phù hợp với thị trường, đáp ứng một cách tốt nhất các
nhu cầu của khách hàng.
21
22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG
MARKETING-MIX TẠI CÔNG TY CP KHỬ TRÙNG VN
2.1THÔNG TIN CHUNG VỀ CÔNG TY
Tên công ty: Công Ty Cổ Phần Khử Trùng Việt Nam.
Tên tiếng anh: Vietnam Fumigation Joint Stock Company.
Tên giao dich: Viet Nam Fumigation Company.
Tên viết tắt: VFC
Giấy CNĐKKD: Số 0302327629 do Sở kế hoạch đầu tư TP HCM cấp ngày
31/12/2001, đăng ký thay đổi lần thứ 20 ngayỳ 22/5/2013.
Vốn điều lệ: 132.827.530.000 đồng.
Trụ sở chính: 29 Tôn đức thắng, P Bến Nghé, Q1, TP HCM.
Điện thoại: (84-8) 3822 8097
Fax: (84-8) 3822 8097
Website: www.vfc.com.vn
Mã cổ phiếu: VFG
2.1.1 Tóm Lược Quá Trình Hình Thành Và Phát Triển
Năm 1993: Hợp nhất các tổ chức Khử Trùng thuộc Cục BVTV thành lập Công ty
Khử Trùng VN (VFC) trực thuộc Bộ Nông Nghiệp và Công Nghiệp
thực phẩm với ngành nghề kinh doanh chính khử trùng hàng hóa xuất
khẩu.
Năm 1994: Tham gia kinh doanh nhập khẩu nông dược,trở thành nhà phân phối
của các Công Ty nông dược hàng đầu thế giới Zeneca, Ciba, FMC.
Năm 1999: Bắt đầu cổ phần hóa bộ phận nông dược.
Năm 2001: Hoàn tất việc cổ phần hóa toàn bộ công ty, trở thành công ty cổ phần
đầu tiên trong ngành khử trùng và nông dược.
Năm 2006: Nhà nước bán hết phần vốn cổ phần tại công ty. Cơ cấu vốn VFC chỉ
bao gồm của CB-CNV và cổ đông ngoài.
23
Năm 2007: Thực hiện sát nhập với Công Ty CP Đầu tư Hồng Đức trở thành công
ty đại chúng từ ngày 26/7/2007.
Năm 2008: Trụ sở chính tòa nhà VFC Tower và khách sạn Novotel Nha Trang
chính thức đi vào hoạt động, đánh dấu bước đi mới bên cạnh các hoạt
động ngành nghề kinh doanh truyền thống.
Năm 2009: VFC niêm yết trên HOSE, chính thức giao dịch từ ngày 177/12/2009
với mã VFG.
Năm 2011: Mở rộng nghiên cứu sản xuất và kinh doanh giống cây trồng từ tháng
8/2011 VFC chính thức trở thành nhà phân phối sản phẩm giống cho
công ty Syngenta.
Năm 2012: Tiến hành tái cấu trúc, khởi động tiến trình cải cách , thay đổi phương
thức kinh doanh, phương thức điều hành trong toàn hệ thống.
Năm 2013: Tiếp tục lộ trình tái cấu trúc, xây dựng và củng cố nhân sự, phát triển
hệ thống phân phối, bộ sản phẩm và khẳng định vị thế công ty trên thị
trường.
2.1.2 Sứ Mệnh Tầm Nhìn Và Giá Trị
2.1.2.2 Sứ mệnh
Với sứ mạng phát triển nền nông nghiệp và cải thiện môi trường sống tại Việt Nam,
VFC cung cấp các sản phẩm hỗ trợ cây trồng và dịch vụ kiểm soát dịch hại qua việc
ứng dụng công nghệ tiên tiến của thế giới.
2.1.2.2 Tầm nhìn
Trong vòng 5 năm, VFC sẽ trở thành một trong ba công ty dẫn đầu trong lĩnh vực
nông dược và tiếp tục khẳng định vị trí số một trong lĩnh vực kiểm soát dịch hại tại
Việt Nam qua việc mang các sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao - công nghệ tiên
tiến của thế giới đến với khách hàng.
CAM KẾT CHẤT LƯỢNG
Cung cấp sản phẩm và dịch vụ với chất lượng tốt nhất
HƯỚNG ĐẾN KHÁCH HÀNG
Thấu hiểu và đáp ứng nhu cầu khách hàng
TIÊN PHONG SÁNG TẠO
Sáng tạo để mang lại nhiều giá trị cho khách hàng và công ty
QUÝ TRỌNG CON NGƯỜI
Trân trọng, đề cao phẩm chất của nhân viên và mọi người
ĐOÀN KẾT HỖ TRỢ
Xây dựng tinah thần đồng đội trong công việc
UY TÍN TRUNG THỰC
Trung thực với khách hàng, nhân viên và mọi người xung quanh
PHỤC VỤ CỘNG ĐỒNG
Nỗ lực tạo ra môi trường sống tốt hơn cho cộng đồng
24
2.1.3.3 Giá trị
2.2 LĨNH VỰC HOẠT ĐỘNG:
Phân phối thuốc trừ sâu, thuốc trừ bệnh, thuốc trừ cỏ, giống cây trồng được nhập
khẩu từ các công ty sản xuất thuốc BVTV hàng đầu thế giới.
Bán buôn chuyên doanh: mua bán thuốc BVTV, vật tư bảo vệ thực vật, vật tư khử
trùng. Mua bán vật tư, hóa chất phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Sản phẩm dịch vụ tiêu biểu:
- Thuốc trừ bệnh : Anvil, Champ DP, Ridomil, Vista,
25
- Thuốc trừ sâu: Karate, Proclaim, Suprathion, Pegasus,
- Thuốc trừ cỏ: Nominee, Ametrex, Dual Gold,
Hinh 2.1: Sản phẩm thuốc BVTV tiêu biểu
(Nguồn VFC)