Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Công tác xã hội đối với bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn tại bệnh viện nhi trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.46 KB, 69 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LƯƠNG THỊ ĐÀO
CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI BỆNH NHI CÓ HOÀN CẢNH
KHÓ KHĂN TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
HÀ NỘI, năm 2015
Công trình được hoàn thành tại: thành phố Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hữu Chí
Phản biện 1: :

Phản biện 2:

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sỹ họp tại :
Học viện Khoa học xã hội giờ ngày tháng năm
Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện khoa học xã hội
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
STT Danh mục bảng biểu Trang
Bảng 2.1 Qui mô, số lượng bệnh nhi khám chữa bệnh tại Bệnh
viện Nhi Trung ương năm 2014
Trang 42
Biểu đồ 2.1 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ bệnh nhi và thời gian điều trị Trang 47
Biểu đồ 2.2 Biểu đồ thể hiện hoàn cảnh gia đình bệnh nhi Trang 50
Bảng 2.2 Các chương trình truyền thông Phòng Công tác xã hội
thực hiện năm 2014
Trang 58
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


Sau gần 30 năm tiến hành đổi mới, hội nhập và phát triển Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa cho đến giáo dục, y tế… diện
mạo đất nước ngày có nhiều khởi sắc, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao. Cùng với
sự phát triển chung của đất nước trong những năm gần đây lĩnh vực y tế cũng đã có những
bước phát triển vượt bậc, công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được thực hiện tốt hơn.
Với sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đồng thời với sự nổ lực phấn đấu của
toàn dân, ngành y tế của nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Mạng lưới y tế cơ sở hiện
nay đã có 80% số thôn bản có nhân viên y tế hoạt động, 100% số xã có trạm y tế trong đó gần
2/3 số xã đạt chuẩn quốc gia, hệ thống chính sách, pháp luật về y tế được ban hành và từng
bước được hoàn thiện trong thực tiễn, những tiến bộ về khoa học – kỹ thuật về y tế ngày một
phát triển, cơ sở vật chất y tế ngày càng được cải thiện, sự chăm lo hỗ trợ của cộng đồng trong
đó có hoạt động nhân đạo, từ thiện được đẩy mạnh góp phần tích cực hỗ trợ cho người dân đặc
biệt là những đối tượng yếu thế khắc phục những rủi ro trong quá trình khám chữa bệnh, chăm
sóc sức khỏe. [1,6]
Tuy nhiên trước những biến động khó lường của kinh tế thế giới ảnh hưởng không nhỏ
đến kinh tế trong nước dẫn đến tình hình giá cả, lạm phát tăng cao ngành y tế cũng đối mặt với
rất nhiều vấn đề riêng của mình. Trong thời gian qua các phương tiện truyền thông đại chúng
liên tục phản ánh các vấn nạn nảy sinh trong lĩnh vực y tế như: vấn đề quá tải bệnh viện, nhân
viên y tế không có đủ thời gian và khả năng để giải quyết nhiều nhu cầu của bệnh nhân như
cung cấp thông tin về giá cả, chất lượng của các loại dịch vụ, tư vấn về phác đồ điều trị, tư vấn
cách phòng ngừa, trấn an tinh thần cho người bệnh…
Do vậy có nhiều vấn đề nảy sinh tại các bệnh viện đó là sự thiếu hụt thông tin khi tiếp
cận và sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh, sự không hài lòng của bệnh nhân đối với các cơ sở y
tế, sự căng thẳng trong mối quan hệ giữa người bệnh và bác sĩ… Những vấn nạn này nếu
không được khắc phục sẽ để lại rất nhiều hậu quả đáng tiếc xảy ra.
Công tác xã hội là một ngành khoa học ứng dụng, một nghề có thể cung cấp các dịch vụ
giải quyết tốt các vấn đề y tế trên vì vậy việc triển khai các dịch vụ Công tác xã hội trong bệnh
viện không chỉ là nhu cầu bức thiết hiện nay mà đó còn là giải pháp tối ưu để nâng cao chất
lượng các dịch vụ y tế. Hơn một thế kỉ nay, khoa học và là nghề chuyên môn Công tác xã hội
đã hình thành và phát triển đem lại rất nhiều lợi ích đáng kể thông qua việc cung cấp các dịch

vụ hữu ích cho con người. Đến nay, Công tác xã hội có mặt ở hơn 80 quốc gia trên thế giới đã
và đang hỗ trợ cho những người yếu thế góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, mang lại sự
bình đẳng và công bằng xã hội.
Xuất phát từ nhu cầu và tình hình thực tiễn của đất nước, ngày 23/5/2010 Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định phê duyệt “Đề án phát triển nghề Công tác xã hội giai đoạn
2010-2020” với mục tiêu phát triển Công tác xã hội trở thành một nghề ở Việt Nam. Theo đó,
15/7/2011 Bộ Y tế cũng xây dựng “Đề án phát triển nghề Công tác xã hội trong lĩnh vực y tế
giai đoạn 2011-2020 và hiện nay Bộ Y tế đang lấy ý kiến về dự thảo “Thông tư quy định chức
năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Phòng Công tác xã hội trong bệnh viện”. Đây chính là
những căn cứ pháp lý đầu tiên vô cùng quan trọng công nhận Công tác xã hội là một nghề trong
lĩnh vực y tế ở nước ta mà bệnh viện chính là cơ sở hoạt động của nhân viên Công tác xã hội
còn bệnh nhân, bác sĩ và nhân viên y tế là khách hàng, thân chủ của mình.
Việt Nam là một quốc gia có số trẻ em chiếm tới 1/4 dân số đây là một trong nhóm đối
tượng đặc thù của Công tác xã hội, được coi như những “công dân đặc biệt” của xã hội, được
chăm sóc và dành cho những ưu tiên, cũng như tạo môi trường lành mạnh để phát triển toàn
diện về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Các chương trình chăm sóc sức khỏe cho trẻ em ngày càng
được quan tâm, đa số trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm đầy đủ 6 loại vacxin cơ bản; 100% trẻ em
dưới 6 tuổi được cấp thẻ bảo hiểm y tê (BHYT) và khám chữa bệnh miễn phí; tỷ lệ suy dinh
dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 25% (2005) xuống 15,4% (2013).[2.7]
Bên cạnh các thành tựu đó thì hiện nay trên cả nước vẫn còn một số lượng lớn trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn lại không may mắn khi trong mình lại mắc các căn bệnh hiểm nghèo hằng
ngày đang đối mặt với tử thần, mà gia đình lại không có đủ các điều kiện kinh tế để các em có
cơ hội được chữa bệnh.
Theo thống kê của Bộ Y tế tại Bệnh viện Nhi Trung ương, một ngày có từ 1.000 - 1.200
bệnh nhi đến khám, điều trị. Trong một khoa có từ 50 - 70 bệnh nhi mắc bệnh thì trong đó có
đến 10 - 20 bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn cần được tư vấn tâm lý và giúp đỡ nguồn tài chính
để chữa trị. [3.12]
Công tác xã hội trong bệnh viện có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chăm sóc sức
khỏe người dân nói chung và bệnh nhân là trẻ em có hoàn cảnh khó khăn nói riêng. Bởi lẽ bất
kì đứa trẻ nào, khi phải nằm viện đều có nỗi đau thể xác và tâm lý vì vậy việc chữa trị chỉ có

thể đạt hiệu quả tối đa nếu có sự hỗ trợ kết hợp đồng thời giữa y tế và Công tác xã hội. Nhân
viên Công tác xã hội trong bệnh viện cần có những hiểu biết về quá trình phát triển tâm lý vận
động của đứa trẻ theo lứa tuổi, hiểu tâm lý gia đình động viên gia đình trong một nỗ lực chung
để việc chữa trị cho con em họ đạt hiệu quả tối đa.
Tuy nhiên Công tác xã hội trong bệnh viện còn là một lĩnh vực khá mới ở nước ta nên
việc hỗ trợ, chăm sóc đối với các bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn còn gặp rất nhiều hạn chế về
nguồn nhân lực, nguồn tài chính phụ thuộc vào các tổ chức từ thiện, thiếu cơ sở pháp lý vì
Công tác xã hội chưa thành một bộ phận trong cơ cấu tổ chức của các đơn vị trực thuộc
ngành song cũng đang có nhiều triển vọng để phát triển.
Bệnh viện Nhi Trung ương là bệnh viện Nhi khoa tốt nhất Việt Nam và là một trong ba
bệnh viện hàng đầu khu vực trong lĩnh vực Nhi khoa. Đồng thời là một trong hai bệnh viện
được chọn để triển khai mô hình điểm Công tác xã hội trong lĩnh vực y tế theo đề án của Bộ Y
tế về phát triển nghề Công tác xã hội trong lĩnh vực y tế giai đoạn 2011-2020. Ngày 01/10/2008
Phòng Công tác xã hội được thành lập trực thuộc Phòng Đào tạo - Chỉ đạo tuyến – Nghiên cứu
khoa học – Bệnh viện Nhi Trung ương hướng tới xây dựng mô hình Công tác xã hội thực sự
hoàn chỉnh để nhân rộng tại các bệnh viện trong cả nước.
Vì những lý do trên chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Công tác xã hội đối với bệnh
nhi có hoàn cảnh khó khăn tại Bệnh viện Nhi Trung ương” làm đề tài nghiên cứu cho luận
văn của mình.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Trên thế giới đặc biệt là các nước phát triển lĩnh vực Công tác xã hội trong bệnh viện đã
được quan tâm từ rất lâu nhưng ở Việt Nam thì đây là một đề tài khá mới mẻ. Trên thực tế ở
nước ta cũng chưa có nhiều tác giả có các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này.
Tình hình nghiên cứu ngoài nước về đề tài
Ở Mỹ, Công tác xã hội lần đầu tiên được đưa vào bệnh viện năm 1905 tại Boston và đến
nay hầu hết các bệnh viện đều có Phòng Công tác xã hội và đây là một trong những điều kiện
để các bệnh viện được công nhận là hội viên của Hội các bệnh viện Mỹ. Nhân viên xã hội là
một thành phần trong ê kíp trị liệu. Ở Singapore hay Philipin tại hầu hết các bệnh viện đều
thành lập một đơn vị chuyên đảm nhận Công tác xã hội về tổ chức có thể là một bộ phận trực
thuộc bệnh viện do cơ quan y tế quản lý hoặc cũng có thể là một bộ phận độc lập do ngành chủ

quản như Bộ LĐTB – XH quản lý.
Vào năm 1977, Hiệp hội Nhân viên Công tác xã hội Quốc gia Mỹ (NASW) xuất bản
bộ “Tiêu chuẩn cho các dịch vụ xã hội bệnh viện”. Năm 1980, bộ “Tiêu chuẩn cho ngành Công
tác xã hội trong các cơ sở chăm sóc Y tế” được xây dựng và thay thế bộ tiêu chuẩn bệnh viện.
Giữa năm 1981 và 1982, Hội đồng Quản trị của NASW đã phê duyệt những tiêu chuẩn mới, và
ba tiểu mục đã được xây dựng, phê duyệt và bổ sung vào bộ tiêu chuẩn chăm sóc y tế. Ba tiểu
mục bao gồm “Tiêu chuẩn về Công tác xã hội với bệnh khuyết tật phát triển; Tiêu chuẩn về
Công tác xã hội tại các cơ sở điều trị bệnh Thận giai đoạn cuối và Tiêu chuẩn về Công tác xã
hội tại các cơ sở Y tế công cộng”.[6,7-16]
Đây là những công trình nghiên cứu đầu tiên trên thế giới về cơ sở lý luận, lịch sử hình
thành khoa học ứng dụng Công tác xã hội bệnh viện để tăng cường kiến thức, kỹ năng, giá trị,
phương pháp và các chuẩn mực của Nhân viên Công tác xã hội cần thiết để làm việc hiệu quả
với các cá nhân, gia đình…những nhà cung cấp chăm sóc y tế và cộng đồng khi hoạt động tại
các cơ sở chăm sóc y tế.
Tình hình nghiên cứu trong nước về đề tài
Ngày 25/3/3010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 32/2010/QĐ-TTg phê
duyệt Đề án “Phát triển nghề Công tác xã hội giai đoạn 2010-2020”. Mục tiêu chung của đề
án phát triển Công tác xã hội trở thành một nghề ở Việt Nam. Nâng cao nhận thức của toàn xã
hội về nghề Công tác xã hội. Theo đó, 15/7/2011 Bộ Y tế cũng xây dựng “Đề án phát triển
nghề Công tác xã hội trong lĩnh vực y tế giai đoạn 2011-2020”. Đề án tập trung nâng cao nhận
thức cho các cấp lãnh đạo và cán bộ ngành y tế về vai trò quan trọng của nghề Công tác xã hội;
từng bước hình thành mạng lưới hoạt động công tác xã hôi để hỗ trợ và nâng cao hiệu quả hoạt
động chăm sóc sức khỏe ban đầu, đem dịch vụ y tế đến gần với bệnh nhân hơn.
Ngày 6/7/2010 tại Hà Nội, Trung tâm đào tạo bồi dưỡng cán bộ Dân số - Y tế, Bộ Y tế
đã tổ chức hội thảo “Phát triển Công tác xã hội trong lĩnh vực Y tế”. Tại hội thảo có nhiều bài
viết, tham luận và ý kiến của các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn, các nhà quản lý,
các chuyên gia trong và ngoài nước đã nêu rõ vai trò và tác động của Công tác xã hội trong lĩnh
vực y tế, kết quả bước đầu, khó khăn thuận lợi và định hướng cho sự phát triển của Công tác xã
hội trong bệnh viện thời gian tới.
Một số tham luận tại hội thảo khoa học quốc tế “Phát triển nghề Công tác xã hội” tại Đà

Nằng ngày 3-4 tháng 11 năm 2009 TS. Đàm Viết Cương (Viện trưởng Viện Chiến lược và
Chính sách y tế) có bài viết “Nhu cầu và định hướng phát triển nghề Công tác xã hội trong
lĩnh vực y tế” bài viết đề cập hai nội dung một là đặc điểm và vai trò của Công tác xã hội trong
lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ, hai là nhu cầu và định hướng phát triển nghề Công tác xã hội
trong ngành Y tế. Trong đó ông nhấn mạnh đến việc phát triển toàn diện Công tác xã hội trong
lĩnh vực y tế phải làm đồng thời: Xây dựng chính sách, lập kế hoạch; Trị liệu: Công tác xã hội
trong bệnh viện; Hậu trị liệu và phòng ngừa: Công tác xã hội trong cộng đồng.
Bài viết “Một mô hình cần nhân rộng” của tác giả Hương Lan đăng ngày 30/11/2011
trên trang điện tử Truyền thông giáo dục sức khỏe của Bộ Y tế giới thiệu cách làm sáng tạo và
hoạt động hiệu quả của Phòng Công tác xã hội Bệnh viện Nhi Trung ương. Phòng Công tác xã
hội Bệnh viện Nhi Trung ương là một trong hai mô hình thí điểm của Bộ Y tế trong đề án đưa
Công tác xã hội vào bệnh viện để các đơn vị y tế học hỏi. Mặc dù các bài viết trên đã đề cập đến
Công tác xã hội trong bệnh viện như trên tuy nhiên cho đến nay vẫn còn quá ít các tài liệu, sách
báo và công trình nghiên cứu về vấn đề này. Và chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu sắc việc đưa
Công tác xã hội vào bệnh viện trợ giúp riêng cho đối tượng là bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn
với các dịch vụ cụ thể.
Vì thế, đề tài “Công tác xã hội đối với bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn tại Bệnh viện
Nhi Trung ương” là đề tài khá mới và cũng xuất phát từ nhu cầu thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng về tình trạng bệnh tật, đặc điểm tâm lý, hoàn cảnh gia đình và
những khó khăn của các bệnh nhi trong quá trình điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Tìm hiểu thực trạng việc hỗ trợ của Phòng Công tác xã hội đối với các bệnh nhi có hoàn
cảnh khó khăn tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Nhận diện những vấn đề mà gia đình bệnh nhi, bản thân bệnh nhi có hoàn cảnh khó
khăn cần sự trợ giúp từ Công tác xã hội. Từ đó đưa ra một số giải pháp và những yêu cầu với
nhân viên Công tác xã hội làm việc tại bệnh viện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận và phương pháp luận phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
Thu thập tài liệu có sẵn, những tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu, thống kê số liệu.

Nghiên cứu thực địa: thu thập những thông tin sơ cấp bằng phương pháp phỏng vấn sâu,
để tìm hiểu thực trạng hỗ trợ xã hội đối với các bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn tại Bệnh viện
Nhi Trung ương.
Tổng hợp thông tin định tính để tổng hợp kết quả nghiên cứu
Phân tích, đánh giá những thực trạng nói trên nhằm đưa ra một số giải pháp trợ giúp của
Công tác xã hội đối với những trường hợp bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn đang điều trị ở
Bệnh viện Nhi Trung ương.
4. Phạm vi, đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian: Từ tháng 9/2014 đến tháng 01/2015
Không gian: Nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi Trung ương, Phòng Công tác xã hội Bệnh viện Nhi
Trung ương (18/879 La Thành, Đống Đa, Hà Nội)
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Các dịch vụ hỗ trợ của Công tác xã hội đối với các bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn tại
Bệnh viện Nhi Trung ương
4.3. Khách thể nghiên cứu
Nhân viên Phòng Công tác xã hội tại bệnh viện
Bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn và gia đình bao gồm cha, mẹ hoặc người đại diện hợp
pháp của bệnh nhi tại bệnh viện: Nghiên cứu gồm 350 trường hợp bệnh nhi đang điều trị nội trú
(phỏng vấn sâu và sử dụng bảng hỏi đối với người nhà bệnh nhi) có hoàn cảnh khó khăn.
4.4. Giới hạn nội dung nghiên cứu
Công tác xã hội đối với bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn
5. Các phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp nghiên cứu phân tích tài liệu: Các tài liệu hiện có tại cơ sở nghiên cứu,
chính sách, đề án phát triển nghề Công tác xã hội trong ngành Y tế, các tài liệu có liên quan đến
Công tác xã hội trong bệnh viện, Công tác xã hội đối với trẻ em, tâm lý trẻ em khi nằm viện.
Phân tích các văn bản báo cáo, tạp chí các thông tin đã thu thập được từ nhiều nguồn
khác nhau, từ đó tổng hợp và đưa ra các nhận xét, đánh giá. Sử dụng phương pháp này để tác
giả xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu. Qua đó, tác giả xác định được một số khái

niệm chính của đề tài như: Công tác xã hội trong bệnh viện, bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn,
Công tác xã hội đối với bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn. Những nội dung này được tác giả
trình bày ở chương 1 của luận văn.
Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng phương pháp này để tìm hiểu số liệu về quy mô, cơ
cấu và thực trạng Công tác xã hội đối với bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn tại bệnh viện Nhi
Trung ương thông qua các Báo cáo tổng hợp của Phòng Công tác xã hội Bệnh viện Nhi Trung
ương. Nội dung này được thể hiện ở mục 2.3 thuộc chương 2 của luận văn
5.2. Phương pháp điều tra bảng hỏi
Phương pháp này tác giả nghiên cứu 350 trường hợp bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn
tại địa bàn nghiên cứu nhằm thu thập thông tin, số liệu về thực trạng hoàn cảnh gia đình, tình
trạng bệnh tật của bệnh nhi thông qua người thân đi chăm sóc. Qua đó phân tích và nhận diện
những khó khăn mà đối tượng đang gặp phải, làm cơ sở cho tác giả đề xuất những giải pháp ở
phần sau. Số liệu được xử lý sau khi điều tra và được phân tích tại mục 2.2 thuộc chương 2 của
luận văn.
5.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Kết hợp với điều tra bảng hỏi tác giả tiến hành phỏng vấn sâu với một số phụ huynh là
cha mẹ, người thân đi chăm sóc bệnh nhi tại địa bàn nghiên cứu, sau đó tổng hợp các câu trả lời
nhằm có cái nhìn sâu hơn, cụ thể hơn về những khó khăn về điều kiện kinh tế, các yếu tố tâm lý
và nhu cầu, mong muốn của họ trong quá trình điều trị của con cái tại Bệnh viện Nhi Trung
ương. Phương pháp này cũng được sử dụng phục vụ cho nội dung thực trạng hoàn cảnh, điều
kiện kinh tế gia đình, tình trạng bệnh tật, tâm lý và khó khăn gặp phải của bệnh nhi thể hiện
mục 2.2 thuộc chương 2 của luận văn.
5.4. Phương pháp quan sát
Với phương pháp này tác giả đã trực tiếp đến Bệnh viện Nhi Trung ương, các Khoa
điều trị bệnh cũng như các phòng hồi sức của bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn nhằm quan sát
rõ hơn về tình trạng bệnh tật, quá trình bệnh nhi được khám chữa bệnh, ăn uống thường ngày
của bệnh nhi và những người thân đi cùng chăm sóc.
Đồng thời tham gia một số hoạt động của các chương trình thiện nguyện như phát
cơm miễn phí cho người nhà bệnh nhi, tham gia chương trình giao lưu văn nghệ gây quỹ cho
bệnh nhi Ung thư, lớp học Hy vọng cho các bệnh nhi điều trị lâu dài với mục đích tìm hiểu sâu

hơn thực trạng Công tác xã hội đối với đối tượng này tại bệnh viện.
6. Ý nghĩa của nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài này thuộc nhóm đề tài nghiên cứu ứng dụng lý thuyết, phương pháp CCông tác xã
hội vào việc giải quyết một vấn đề xã hội cụ thể. Cụ thể là việc sử dụng hệ thống khái niệm,
phạm trù, lý thuyết, phương pháp Công tác xã hội vào việc mô tả, phân tích và đưa ra các giải
pháp, dịch vụ hỗ trợ giải quyết vấn đề cụ thể.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu làm sáng tỏ những chính sách trợ giúp của Nhà nước, Bộ Y tế các
ban ngành liên quan trong Công tác xã hội đối với các bệnh nhân là trẻ em có hoàn cảnh khó
khăn.
Kết quả nghiên cứu cũng góp phần giúp những người quản lý và cộng đồng có thêm cái
nhìn toàn diện, sâu sắc tích cực trong công tác tuyên truyền, tổ chức giúp đỡ trẻ em có hoàn
cảnh khó khăn đang điều trị các căn bệnh hiểm nghèo tại bệnh viện về vật chất, tinh thần và
tâm lý.
` Giúp cho nhân viên Công tác xã hội nói riêng và các ngành khác nói chung hiểu biết
thêm về các dịch vụ hỗ trợ của Công tác xã hội đối với bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn và
những yêu cầu cần thiết để trở thành nhân viên xã hội chuyên nghiệp trong lĩnh vực y tế.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu, các phụ lục luận văn có 2 chương
sau đây:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về Công tác xã hội đối với bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp thực hiện Công tác xã hội đối với bệnh nhi có hoàn cảnh
khó khăn tại Bệnh viện Nhi Trung ương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về Công tác xã hội đối với
bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn.
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Công tác xã hội
Công tác xã hội được xem như là một nghề mang tính chuyên nghiệp ở nhiều quốc gia
từ gần thế kỷ nay. Công tác xã hội là một ngành khoa học ứng dụng các ngành khoa học xã hội

như: Tâm lý học, Xã hội học, Nhân chủng học, Kinh tế học …vào những hoạt động cụ thể với
từng cá nhân, từng nhóm xã hôi, từng cộng đồng để khắc phục các vấn đề nảy sinh trong đời
sống xã hội.[12.10]
Quan niệm đầu tiên được tuyên bố về Công tác xã hội có tính chuyên nghiệp được
IFSW (Hiệp hội nhân viên Công tác xã hội thế giới) đưa ra vào năm 1982: “Công tác xã hội là
một hoạt động chuyên nghiệp với mục đích tạo sự biến đổi xã hội cho toàn bộ xã hội nói chung
và cho từng cá nhân cho quá trình phát triển”. Năm 2000 tại đại hội Montreal IFSW đưa ra
một quan niệm mới dựa trên các hoạt động tư vấn, tham vấn của các nhà chuyên môn, các nhà
thực hành, các tổ chức Công tác xã hội quốc gia và quốc tế “Nghề Công tác xã hội thúc đẩy
thay đổi xã hội, giải quyết những vấn đề trong mối quan hệ xã hội, và những vấn đề trao quyền
và giải phóng con người để nâng cao phúc lợi xã hội. Công tác xã hội sử dụng các lý thuyết về
hành vi con người và hệ thống xã hội, để qua đó can thiệp vào các nội dung tương tác giữa cá
nhân và môi trường. Nguyên tắc nhân quyền và công bằng xã hội là nền tảng cho Công tác xã
hội”. [19. 10]
Theo TS. Bùi Thị Xuân Mai: “Công tác xã hội là một nghề, một hoạt động chuyên
nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu
và tăng cường chức năng xã hội đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn
lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình, cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã
hội góp phần đảm bảo an sinh xã hội”. [20.8]
1.1.2. Công tác xã hội bệnh viện
Căn cứ vào mục tiêu chung của đề án “Phát triển nghề Công tác xã hội trong ngành Y tế
giai đoạn 2011-2020” của Bộ Y tế là hình thành và phát triển nghề Công tác xã hội trong ngành
Y tế, góp phần tăng cường chất lượng, hiệu quả của sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe nhân dân. Một trong năm mục tiêu cụ thể đó là: Xây dựng thí điểm và nhân rộng mô hình tổ
chức của hoạt động Công tác xã hội trong một số bệnh viện tuyến trung ương, tuyến tỉnh.
Trong Thông tư “Quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Phòng Công tác
xã hội trong bệnh viện”của Bộ Y tế Công tác xã hội bệnh viện được hiểu như sau: “Công tác xã
hội trong bệnh viện là các hoạt động hỗ trợ người bệnh, người nhà người bệnh và nhân viên y tế
nhằm giải quyết những vấn đề xã hội và tâm lý liên quan đến bệnh tật và quá trình khám bệnh,
chữa bệnh”

Công tác xã hội có chức năng cung cấp các dịch vụ về Công tác xã hội cho người bệnh,
người nhà người bệnh và nhân viên y tế trong quá trình khám, chữa bệnh. Nguyên tắc hoạt động
của Công tác xã hội trong bệnh viện:
Là cầu nối giữa người bệnh, người nhà người bệnh và nhân viên y tế.
Nhân viên Công tác xã hội phải kết hợp chặt chẽ với nhân viên y tế trong công tác.
Nhiệm vụ của Công tác xã hội trong bệnh viện:
Giải quyết các vấn đề về tâm lý, xã hội cho người bệnh và người nhà bệnh nhân:
Chủ động thăm hỏi người bệnh và người nhà người bệnh để tìm hiểu mức độ cần hỗ trợ của
người bệnh về tâm lý, xã hội; Giới thiệu, cung cấp thông tin, tư vấn về dịch vụ khám bệnh,
chữa bệnh của bệnh viện cho người bệnh và người nhà người bệnh, tư vấn cho đối tượng về các
chương trình chính sách xã hội như bảo hiểm y tế, trợ cấp xã hội, hỗ trợ khẩn cấp; Phối hợp với
bác sỹ điều trị trực tiếp hoặc nhân viên y tế tại khoa mà người bệnh đang khám, chữa bệnh để
biết rõ thông tin về tình hình sức khỏe của người bệnh; Hỗ trợ khẩn cấp và cung cấp các dịch vụ
Công tác xã hội cho các nhóm đối tượng là nạn nhân của bạo hành, xâm hại tình dục, bao gồm
bảo đảm an toàn cho đối tượng, hỗ trợ tâm lý, xã hội; trị liệu tâm lý; hỗ trợ pháp lý, hỗ trợ thực
hiện pháp y và các dịch vụ phù hợp khác; báo cáo cho các cơ quan chức năng liên quan.
Hoạt động hỗ trợ người bệnh có khó khăn tìm nguồn lực giúp đỡ: Làm đầu mối
trong bệnh viện thực hiện tuyên truyền, vận động sự tham gia, ủng hộ từ các cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thể hỗ trợ người bệnh có hoàn cảnh khó khăn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo; Vận động
tài trợ gây quỹ cho bệnh viện, bao gồm cả vận động tài trợ trang thiết bị, tài trợ cho việc nghiên
cứu khoa học và đào tạo tại bệnh viện.
Truyền thông và quan hệ công chúng: Làm đầu mối của bệnh viện về công tác truyền
thông và quan hệ công chúng; tuyên truyền, giới thiệu các hoạt động của bệnh viện với xã hội
và cộng đồng; Hướng dẫn các tổ chức, nhóm tình nguyện viên tới phối hợp về Công tác xã hội
trong bệnh viện; Tổ chức các hoạt động văn hóa,văn nghệ để giúp cải thiện đời sống tinh thần
của nhân viên y tế và người bệnh; tổ chức các sự kiện, hội nghị, hội thảo, chương trình gây quỹ
của bệnh viện.
Đào tạo: Phối hợp với các trường đại học, cao đẳng và cơ sở dạy nghề để đào tạo về
nghề Công tác xã hội và về Công tác xã hội trong bệnh viện thông qua chương trình thực tập
của sinh viên Công tác xã hội; Đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kiến thức về Công tác xã hội cho

thày thuốc và nhân viên bệnh viện; đồng thời, phối hợp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cơ bản về
y tế cho người làm việc về Công tác xã hội; Phối hợp, trợ giúp các đơn vị quan tâm đến việc
phát triển Công tác xã hội.
1.1.3. Bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn
Hiện nay chưa có một khái niệm khoa học cụ thể nào về “Bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn”
chính vì vậy chúng tôi xin đưa ra cách hiểu của mình.
Bệnh nhi: “bệnh” tức bệnh tật là những bất thường xảy ra ở cơ thể sống làm ảnh hưởng
tới sức khỏe, sự tồn tại và phát triển bình thường của con người; “nhi” có nghĩa Hán Việt là
nhỏ, bé. Như vậy “bệnh nhi” có nghĩa là bệnh nhân là trẻ em, một đứa trẻ đang mắc các căn
bệnh như: đau nhức, tê liệt hay mất mát các bộ phận trên cơ thể; các căn bệnh tâm sinh lý; bệnh
liên quan đến thần kinh; các căn bệnh hiểm nghèo như ung thư, HIV/AIDS…phải chữa trị dài
ngày tại BV. Bệnh nhân mắc bệnh do các nguyên nhân khác nhau như: bẩm sinh, truyền nhiễm,
hóa chất (thiếu dinh dưỡng hoặc nhiễm độc), tai nạn, áp lực tâm lý xã hội …theo Luật bảo vệ
chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam thì độ tuổi là dưới 16.
Bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn là những đối tượng trẻ em đang mắc các căn bệnh trong
cơ thể đang chữa trị tại bệnh viện có hoàn cảnh khó khăn như: sống trong gia đình nghèo, trẻ mồ
côi, điều kiện kinh tế gia đình không có khả năng chi trả các chi phí chữa trị tại bệnh viện mắc
các căn bệnh hiểm nghèo
1.1.4. Công tác xã hội đối với bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn
Trẻ em là một nhóm xã hội những người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể chất và trí
tuệ, dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục đặc biệt. Trong đó bệnh nhân là trẻ
em có hoàn cảnh khó khăn vừa là đối tượng của lĩnh vực y tế vừa là đối tượng của Công tác xã
hội.
Công tác xã hội đối với bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn là các hoạt động hỗ trợ bệnh
nhi đang điều trị tại bệnh viện, người nhà người bệnh có những hoàn cảnh khó khăn giải quyết
những vấn đề xã hội, tâm lý và kết nối các nguồn lực tài chính liên quan đến bệnh tật và quá
trình khám bệnh, chữa bệnh làm giảm bớt gánh nặng lo âu, đau đớn của các bệnh nhi nghèo,
có hoàn cảnh éo le lại mắc bệnh nặng.
1.2. Các lý thuyết ứng dụng
1.2.1. Thuyết hệ thống

Thuyết hệ thống là một trong những lý thuyết rất quan trọng được vận dụng trong Công
tác xã hội. Khi thực hiện một tiến trình giúp đỡ, nhân viên xã hội cần chỉ ra rằng thân chủ của
mình đang thiếu và cần đến những hệ thống trợ giúp nào để tìm cách giúp đỡ để họ có thể tiếp
cận và tham gia các hệ thống đó. Có làm được như vậy thì nhân viên xã hội mới thực sự hoàn
thành tiến trình giúp đỡ của mình. Chỉ khi nào thân chủ được sự giúp đỡ và có thể tham gia các
hệ thống thì họ mới trở lại là chính họ. Đó là cái đích cuối cùng mà Công tác xã hội hướng đến.
[25.9]
Các quan điểm về hệ thống trong Công tác xã hội bắt nguồn từ lý thuyết hệ thống tổng
quát của Bertalenffy - một nhà sinh học nổi tiếng. Bertalanffy sinh ngày 19/09/1901 tại Vienna
và mất 12/06/1972 tại Newyork. Ông đã tốt nghiệp các trường đại học: Vienna (1948), London
(1949), Montreal (1949). Ông cho rằng “Mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống được tạo
nên từ các tiểu hệ thống và ngược lại cũng là một phần của hệ thống lớn hơn”. Do đó con
người là một bộ phận của xã hội và được tạo nên từ các phân tử, mà được tạo dựng từ các
nguyên tử nhỏ hơn. Lý thuyết này được áp dụng đối với các hệ thống xã hội cũng như những
hệ thống sinh học. Sau này, lý thuyết hệ thống được các nhà khoa học khác nghiên cứu:
Hanson (1995), Mancoske (1981), Siporin (1980)…. Và cũng có trường phái các nhà xã hội
học sinh thái Chicago vào những năm 1930 cũng trở thành những người tiên phong trong
phong trào nghiên cứu và tìm hiểu về thuyết hệ thống. [25.9]
Trong Công tác xã hội, hai hình thức cơ bản của lý thuyết hệ thống được phân biệt rõ
ràng là: Lý thuyết hệ thống tổng quát và lý thuyết hệ thống sinh thái. Lý thuyết hệ thống tổng
quát trọng tâm là hướng đến những cái “tổng thể” và nó mang tính “hoà nhập” trong Công tác
xã hội. Pincus và Minahan áp dụng lý thuyết hệ thống vào thực hành Công tác xã hội. Nguyên
tắc về cách tiếp cận này chính là các cá nhân phụ thuộc vào hệ thống trong môi trường xã hội
trung gian của họ nhằm thoả mãn được cuộc sống riêng, do đó Công tác xã hội phải nhấn mạnh
đến các hệ thống. Ba hình thức hệ thống tổng quát đó là:
- Hệ thống chính thức: Các nhóm cộng đồng, các tổ chức công đoàn…
- Hệ thống phi chính thức: Gia đình, bạn bè, người thân, cộng sự đồng nghiệp…
- Hệ thống xã hội: Bệnh viện, trường học, cơ quan, tổ chức đoàn thể nhà nước…
Như vậy, bệnh viện là một hệ thống xã hội còn bệnh nhân, nhân viên y tế , dịch vụ y tế
và những người khác trong bệnh viện cùng thuộc một hệ thống và có sự tác động qua lại lẫn

nhau.
Với đề tài luận văn này không thể không chú ý tới sự ảnh hưởng qua lại đó. Lý thuyết
này giúp tác giả xem xét các vấn đề đó là: Việc hỗ trợ cho các trường hợp bệnh nhi có hoàn
cảnh khó khăn đang điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung ương có sự liên kết của các hệ thống xã
hội khác tại địa bàn nghiên cứu hay chưa? Mức độ nào và hiệu quả ra sao?
Mỗi cá nhân là một hệ thống, như vậy mỗi bệnh nhi, người nhà bệnh nhi, nhân viên y
tế… là một tiểu hệ thống trong một hệ thống lớn hơn là bệnh viện. Những vấn đề của Công tác
xã hội xảy ra khi sự tương tác giữa các tiểu hệ thống hay giữa các hệ thống khác nhau liên quan
đến các tiểu hệ thống này có vấn đề hay hệ thống cá nhân sống trong đó không thích ứng được
với môi trường của họ. Những bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn cần sự trợ giúp của Công tác xã
hội bởi tiểu hệ thống tức chính cá nhân đó đang gặp các rào cản về sức khỏe, tâm lý kèm theo
đó là hệ thống gia đình có mối liên hệ trực tiếp và hết sức chặt chẽ với bệnh nhi cũng gặp các
khó khăn về kinh tế tài chính, tâm lý cần có sự trợ giúp của các hệ thống khác.
Đồng thời lý thuyết này giúp tác giả xem xét với các giải pháp của Công tác xã hội trong
tiến trình can thiệp giải quyết vấn đề, nhu cầu của bệnh nhi và gia đình bệnh nhi có hoàn cảnh
khó khăn nhân viên Công tác xã hội sẽ là cầu nối giữa gia đình bệnh nhi có hoàn cảnh khó
khăn với các tổ chức từ thiện, với các cơ cơ quan, đoàn thể và toàn cộng đồng hỗ trợ các nguồn
tài chính giúp bệnh nhi có điều kiện tốt nhất chữa bệnh.
Áp dụng lý thuyết này vào vấn đề nghiên cứu sẽ giúp chúng ta hiểu đúng vấn đề, tìm ra
được nguyên nhân của các vấn đề mà người bệnh đang gặp phải, thấy được những nhân tố ảnh
hưởng đến vấn đề đó và đưa ra được những giải pháp liên kết các hệ thống xung quanh thân
chủ một cách đúng đắn, mang lại hiệu quả cao.
1.1.2. Thuyết nhu cầu
Đóng góp lớn nhất về thuyết nhu cầu phải kể đến là Abraham Maslow (1908 – 1970)
một nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ. Ông là người đáng chú ý nhất với sự đề xuất về tháp
nhu cầu và ông được xem là cha đẻ của chủ nghĩa nhân văn trong Tâm lý học. Lý thuyết của
ông nhằm giải thích những nhu cầu nhất định của con người cần được đáp ứng như thế nào để
một cá nhân hướng đến cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể chất lẫn tinh thần. Ông đã đem
các loại nhu cầu khác nhau của con người, căn cứ theo tính đòi hỏi của nó và thứ tự phát sinh
trước sau của chúng để quy về 5 loại sắp xếp thành thang bậc về nhu cầu của con người từ thấp

đến cao.[28.9]
Tầng thứ nhất: Các nhu cầu về căn bản nhất thuộc "thể lý" - thức ăn, nước uống, nơi trú ngụ,
tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi.
Tầng thứ hai: Nhu cầu an toàn - cần có cảm giác yên tâm về an toàn thân thể, việc làm, gia
đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo.
Tầng thứ ba: Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc - muốn được trong một
nhóm cộng đồng nào đó, muốn có gia đình yên ấm, bạn bè thân hữu tin cậy.
Tầng thứ tư: Nhu cầu được tôn trọng, kính mến - cần có cảm giác được tôn trọng, kính mến,
được tin tưởng.
Tầng thứ năm: Nhu cầu về tự thể hiện bản thân - muốn sáng tạo, được thể hiện khả năng, thể
hiện bản thân, trình diễn mình, có được và được công nhận là thành đạt.
Nếu con người được thõa mãn nhu cầu của mình sẽ đem lại những yếu tố tích cực cho sự phát
triển con người, ngược lại nếu nhu cầu không được đáp ứng sẽ gây ra những căng thẳng, hụt
hẫng mất “thăng bằng”. [27.10]
Vận dụng lý thuyết này vào đề tài này ta có thể nhận thấy những nhu cầu cơ bản mà các
bệnh nhi và gia đình bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn rất chính đáng và cần được hỗ trợ như:
nhu cầu trong việc được các bác sỹ tận tình chữa bệnh nhanh chóng ổn định sức khoẻ, được
đảm bảo các điều kiện tối thiểu chữa bệnh như giường nằm, thuốc men, ăn uống, vệ sinh…,
nhu cầu về ổn định tâm lý, được tiếp tục theo học…
Lý thuyết này làm cơ sở lý luận nhằm giúp cho nhân viên xã hội tìm hiểu các thông tin
để xác định các nhu cầu của đối tượng là bệnh nhi, gia đình bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn
đang điều trị tại bệnh viện nhu cầu bức thiết nhất của họ là gì nhằm hỗ trợ kịp thời những nhu
cầu đó. Làm căn cứ để lập các kế hoạch cần thiết huy động các nguồn lực hỗ trợ có thể là họ
cần sự giúp đỡ về tâm lý, tài chính hoặc những nhu cầu khác. Lý thuyết này cũng là kim chỉ
nam hữu ích để nhân viên Công tác xã hội xác định nhu cầu của cá nhân và lập kế hoạch chăm
sóc cho người bệnh
Đồng thời tác giả vận dụng thuyết này nhằm đánh giá các chính sách, dịch vụ Công tác xã
hội tại Bệnh viện Nhi Trung ương hiện tại đã đáp ứng được các nhu cầu của bệnh nhi có hoàn
cảnh khoa khăn hay chưa. Thông qua đó, tác giả xem xét đề xuất phương pháp tác động hiệu quả
hơn bên cạnh các hỗ trợ hiện có và đưa ra các giải pháp nhằm trợ giúp thõa mãn các nhu cầu

đang thiếu hụt của đối tượng mà đề tài hướng đến.
1.1.3. Thuyết vai trò
Vai trò là những khuôn mẫu ứng xử khác nhau do xã hội áp đặt cho mỗi chức vị của con
người trong xã hội đó. Ví dụ, bố phải thương con, mẹ phải hiền, chồng phải biết chăm sóc vợ,
vợ phải đảm đang, con cái phải nghe lời bố mẹ, trò phải chăm chỉ, thầy phải nghiêm túc… Vì
một người có thể có nhiều vai trò khác nhau, những khuôn mẫu ứng xử do xã hội áp đặt có thể
mâu thuẫn với nhau, tạo ra khó khăn. Có hai loại vai trò khác nhau: vai trò hiện và vai trò ẩn.
Vai trò hiện là vai trò bên ngoài mọi người có thể thấy được. Vai trò ẩn là vai trò không biểu
hiện ra bên ngoài mà nhiều khi chính người đóng vai trò đó cũng không biết. [39,40. 17]
Trên thực tế, mỗi người có thể đóng nhiều vai trò cùng một lúc. Ở bệnh viện vai trò của
bác sĩ là chữa bệnh cho bệnh nhân, vai trò của y tá, điều dưỡng là chăm sóc cho bệnh nhân.Vai
trò của nhân viên xã hội ở đây là giúp bệnh nhân, người nhà bệnh nhân về yếu tố tâm lý xã hội
để vượt qua sự khủng hoảng về bệnh tật, kêu gọi sự ủng hộ của các nhà hảo tâm đối với các
trường hợp đặc biệt khó khăn, cán bộ y tế thấy được những vai trò khác nhau mà họ có thể
đóng tuỳ vào hoàn cảnh cá nhân và tiềm năng mà họ huy động được.
Ứng dụng lý thuyết vai trò vào đề tài nghiên cứu tác giả xem xét các cách để huy động
tiềm năng của các cán bộ y tế, nhân viên Công tác xã hội, cha mẹ đi chăm sóc con cái cùng một
lúc có thể đảm nhận nhiều vai trò khác nhau trong việc điều trị, hỗ trợ các bệnh nhi. Có thể vừa
là bác sĩ, nhân viên y tế, điều dưỡng tiêm thuốc, chữa bệnh với tấm lòng và trách nhiệm “lương y
như từ mẫu” vừa là một người mẹ, người cô động viên, trấn an tâm lý sợ hãi trong thời gian điều
trị bệnh tại bệnh viện, vừa tham gia vào các hoạt động Công tác xã hội nhằm hỗ trợ các bệnh nhi,
gia đình bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn như: tham gia lớp dạy học cho trẻ bị ung thư, phát cơm
từ thiện, tham gia các hoạt động cộng đồng vì bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn, mắc bệnh hiểm
nghèo.
1.3. Lý luận về Công tác xã hội với bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn
Công tác xã hội với mục đích thực hiện sự điều chỉnh xã hội giúp thân chủ vượt qua
hoàn cảnh để hoà nhập và phát triển, do vậy cũng có một vai trò quan trọng trong việc tạo nên
sức khoẻ cho mỗi người. Các yếu tố ảnh hưởng đến sức khoẻ bao gồm: hoàn cảnh và điều kiện
sống (mức sống, vệ sinh, môi trường…); trình độ học vấn và văn hoá; bùng nổ dân số - gia tăng
nhu cầu chăm sóc sức khỏ; trình độ phát triển khoa học, kỹ thuật…

Các giải pháp nhằm tăng cường chăm sóc sức khỏe gồm có: nâng cao nhận thức của
người dân về chăm sóc sức khỏe; khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào những hoạt
động chăm sóc sức khỏe; tôn trọng sự tự quyết và tự lực của cộng đồng đối với các hoạt động
chăm sóc sức khỏe; phổ cập các kỹ thuật thích hợp, thích ứng với khả năng chi trả của người
dân để tăng khả năng tiếp cận cho tất cả mọi người.
Cả 4 giải pháp này đều cần có sự ứng dụng của Công tác xã hội. Song Công tác xã hội
có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo dựng mối quan hệ hài hoà giữa tinh thần và thể
chất của người bệnh, giữa người bệnh với người thân, giữa người bệnh với những người xung
quanh, giữa người bệnh với cơ sở y tế… Để làm được điều này, người làm Công tác xã hội
phải tìm hiểu đặc điểm tâm lý, xã hội của bệnh nhân, hoàn cảnh thực tế mà họ đang phải đối
mặt cùng những mong muốn của họ. Từ đó tìm ra sự hỗ trợ thích hợp dành cho thân chủ. Vì lẽ
đó, trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe thì bệnh viện là nơi cần có sự xuất hiện của Công tác xã
hội.
Lịch sử của Công tác xã hội bệnh viện trên thế giới ra đời kể từ thời điểm chuyển giao
của thế kỷ 20. Những vấn đề được quan tâm sớm nhất của chuyên ngành này là làm cho những
dịch vụ chăm sóc y tế sẵn sàng đáp ứng cho người nghèo và cải thiện các điều kiện xã hội gây
ra bệnh nhiễm trùng như bệnh lao. Khi vai trò của ngành Công tác xã hội được mở rộng, các
nhân viên Công tác xã hội đã nhập các chuyên môn y tế khác vào lĩnh vựccung cấp các dịch vụ
chất lượng cao.
Ngày nay, các nhân viên Công tác xã hội có mặt trong mọi bộ phận của hệ thống chăm
sóc y tế. Vào năm 1977, NASW xuất bản bộ “Tiêu chuẩn cho các dịch vụ xã hội Bệnh viện”.
Năm 1980, bộ “Tiêu chuẩn cho ngành Công tác xã hội trong các cơ sở chăm sóc y tế” được
xây dựng và thay thế bộ tiêu chuẩn bệnh viện. Giữa năm 1981 và 1982, Hội đồng Quản trị của
NASW đã phê duyệt những tiêu chuẩn mới, và ba tiểu mục đã được xây dựng, phê duyệt và bổ
sung vào bộ tiêu chuẩn chăm sóc y tế.
Mục tiêu của Công tác xã hội trong bệnh viện là giúp bệnh nhân nhận biết và vượt qua
những khó khăn của bản thân và môi trường sống tác động đến sức khỏe hay bệnh tật của họ
hoặc khắc phục những yếu tố làm cho họ không sử dụng được có hiệu quả các dịch vụ y tế trợ
giúp họ. Nhiệm vụ của nhân viên Công tác xã hội trong bệnh viện là trợ giúp những người có
bệnh về tình cảm, tâm thần và thể lực. Thông qua mối quan hệ với bệnh nhân, nhân viên Công

tác xã hội giúp họ hoặc gia đình xác định những khó khăn, tìm cách để vượt qua các khó khăn
đó và giúp họ sử dụng có hiệu quả sự trợ giúp như các nguồn thông tin, dịch vụ hỗ trợ đời
sống…
Trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, Liên Hợp Quốc đó Công bố rằng,
trẻ em có quyền được hỗ trợ và chăm sóc đặc biệt. Điều 41 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em quy định:“Trong công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em phải coi trọng việc phòng ngừa,
ngăn chặn trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt; kịp thời giải quyết, giảm nhẹ hoàn cảnh đặc biệt
của trẻ em; kiên trì trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt phục hồi sức khỏe, tinh thần và giáo
dục đạo đức; phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi để trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc
biệt”. [2.5]
Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em số 25/2004/QH11 quy định trẻ em dưới 6 tuổi
được chăm sóc sức khỏe ban đầu, miễn phí tại các cơ sở y tế công lập. Quyền được chăm sóc y
tế là một quyền cơ bản của con người, đặc biệt khi trẻ em là thế hệ tương lai của một quốc gia.
Có thể nói Công tác xã hội trong bệnh viện nói chung và Công tác xã hội đối với bệnh
nhi có hoàn cảnh khó khăn là một lĩnh vực khá mới mẻ ở nước ta. Thế nhưng Công tác xã hội
bệnh viện đã và đang khẳng định được vai trò quan trọng của nó bằng hàng loạt những hoạt
động cụ thể từ chính sách cho đến thực tiễn đó là sự thành lập các Phòng Công tác xã hội trong
bệnh viện từ trung ương đến tuyến tỉnh ở nước ta.
Hiện nay Việt Nam chúng ta trẻ em chiếm tới 1/4 dân số đây là một trong nhóm đối
tượng đặc thù của Công tác xã hội, được coi như những “công dân đặc biệt” của xã hội, được
chăm sóc và dành cho những ưu tiên, cũng như tạo môi trường lành mạnh để phát triển toàn
diện về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Các chương trình chăm sóc sức khỏe cho trẻ em ngày càng
được quan tâm, đa số trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm đầy đủ 6 loại vacxin cơ bản; 100% trẻ em
dưới 6 tuổi được cấp thẻ BHYT và khám chữa bệnh miễn phí; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới
5 tuổi giảm từ 25% (2005) xuống 15,4% (2013).
Trong điều kiện kinh tế của nước ta còn có sự chện lệch khá lớn giữa các vùng miền do
các nguyên nhân chủ quan và khách quan nên mức sống, cơ hội tiếp cận một cách toàn diện về
giáo dục, y tế, văn hóa, vui chơi giải trí… của trẻ em cũng khác nhau. Theo đánh giá chung
những gia đình có thu nhập hoặc chi tiêu càng cao thì càng có khả năng đảm bảo một cuộc
sống đầy đủ hơn về vật chất và tinh thần và ngược lại. Tuy nhiên, trong thực tế trẻ em chưa tạo

ra được thu nhập cũng như không tự quyết định được chi tiêu mà hoàn toàn phụ thuộc vào môi
trường sống, sự bao cấp của gia đình và sự bảo trợ của xã hội Tại các bệnh viện hiện nay có
rất nhiều bệnh nhi hoàn cảnh khó khăn, bất hạnh, có nhiều trường hợp bệnh nặng, có khả năng
chữa trị nhưng do hoàn cảnh gia đình khó khăn không có tiền thuốc thang nên phải xin về, có
những bệnh nhi quãng thời gian tuổi thơ là không gian gắn với bệnh viện.
Công tác xã hội trong bệnh viện nói chung và đối với bệnh nhi có hoàn cảnh khó khă nói
riêng có vai trò vô cùng quan trọng. Công tác xã hội như là cầu nối để các bệnh nhi không may
mắn khi vừa mang trong mình các căn bệnh bẩm sinh, hiểm nghèo lại vừa sống trong gia đình
khó khăn thêm niềm hy vọng chữa bệnh. Chức năng của nhân viên Công tác xã hội tại bệnh
viện là giúp các bệnh nhi và gia đình họ hiểu một căn bệnh cụ thể, chẩn đoán và khuyên nhủ về
các quyết định cần thiết. Đồng thời nhân viên Công tác xã hội cũng là thành viên quan trọng
của nhóm điều trị, làm việc cùng bác sĩ, điều dưỡng và các nhân viên y tế khác; giúp những nhà
cung cấp dịch vụ y tế hiểu hơn về các khía cạnh xã hội và tình cảm của người bệnh.
Trong thực tiễn tại các bệnh viện, người bệnh không chỉ cần có các kỹ thuật y học cao
siêu mà dịch vụ chăm sóc sinh hoạt, dinh dưỡng và đặc biệt chăm sóc tinh thần để yên tâm chữa
bệnh cũng hết sức quan trong, có thể chiếm đến 50% công việc đưa đến sự hài lòng cho người
bệnh.
Vì vậy, Công tác xã hội đối với bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn có những hoạt động
chuyên nghiệp sử sụng các phương pháp của Công tác xã hội kết hợp với các phương pháp liên
ngành khác đó là:
Thứ nhất, Công tác xã hội hỗ trợ các vấn đề về tâm lý cho bệnh nhi, gia đình bệnh nhi và các y
bác sỹ trong bệnh viện
“Sức khỏe là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái về thể chất, tâm thần và xã hội chứ
không phải chỉ là không có bệnh hay tật” (WHO, 1946). Như vậy sức khỏe cần có đủ cả ba yếu
tố: sảng khoái về thể chất, sảng khoái về tâm thần và sảng khoái về xã hội. Một người có bệnh
đến bệnh viện thì thể chất của họ đang có vấn đề, nhưng nỗi lo âu và sợ hãi của họ còn lớn hơn,
bởi không biết chuyện gì sẽ xảy ra, bên cạnh đó là những xáo trộn về công ăn việc làm, về các
mối quan hệ, chuyện tiền bạc, đi lại, ăn ở… Cho nên nhìn người bệnh mà chỉ thấy có bệnh,
không thấy có người là một thiếu sót lớn Các nghiên cứu cho thấy, đa số bệnh nhân đến bác sĩ
là có vấn đề stress đằng sau những bệnh chứng. Bác sĩ chỉ quan tâm chữa cái đau trước mắt. Có

thể nói bác sĩ chỉ chữa được cái đau mà không chữa được cái khổ, chữa được cái bệnh mà
không chữa được cái hoạn.
Cho nên nhân viên Công tác xã hội trong bệnh viện là rất cần thiết, góp phần tích cực
trong việc giúp đỡ toàn diện người bệnh nhờ quan tâm đến những vấn đề tâm lý - xã hội của họ
bên cạnh người thầy thuốc chữa bệnh, người bệnh đã có thể thấy yên tâm, bởi người bệnh có
thể nói với họ những điều chưa dám nói, vì họ biết lắng nghe, biết tôn trọng, biết thấu cảm giúp
người bệnh có thể nhìn rõ để có những quyết định đúng, xung đột sẽ giảm, nỗi lo sợ vơi đi,
lòng tự tin vươn lên.
Đối với bệnh nhi: Theo các nghiên cứu ngành Tâm lý học bất kì đứa trẻ nào, khi phải
nằm viện đều có nỗi đau thể xác bệnh tật và nỗi khổ về tâm lý vì nhiều lý do khác nhau như:
Phải xa cách những người thân trong gia đình lâu nay trẻ được tiếp xúc, chăm sóc và yêu
thương hằng ngày như ông, bà, bố, mẹ, anh chị…Trẻ bị tách khỏi một không gian với loài vật,
đồ vật quen thuộc như các con vật trong gia đình, đồ chơi hay các vật dụng khác… của trẻ. Bắt
buộc phải tuân thủ một nhịp thời gian khác như giờ này tiêm, uống thuốc, lúc khác lấy máu xét
nghiệm…Ngoài những khó khăn khách quan trên, không thể không tính đến những đặc điểm
tâm lý chủ quan như:
Trẻ em đang trong quá trình phát triển và trưởng thành nên nhận thức vấn đề còn chưa rõ
ràng sự việc mình đang bị bệnh và việc điều trị tại bệnh viện.
Cùng một biểu hiện lâm sàng, ở tuổi này là rối nhiễu tâm lý, tuổi khác lại là bình
thường.
Cho đến trước 3-5 tuổi, trẻ chưa nhận thức rõ về sơ đồ cơ thể mình, vì vậy có thể gặp
khó khăn trong sự cảm nhận bản thân cũng như mô tả triệu chứng bệnh. Do có nhiều huyễn
tưởng, trẻ nằm viện có thể lẫn lộn giữa thực và hư. Dẫn đến sự thay đổi quá trình đầu tư tâm
lực, sự gắn bó và khả năng đồng nhất hoá.[56.11]
Ví dụ trẻ dưới 1 tuổi, nằm viện lâu ngày (thường trên 3 tháng) thì khả năng gắn bó và
đồng nhất hoá với người thường xuyên chăm sóc nó trở nên khá bền vững. Nếu người mẹ vắng
mặt trong khoảng thời gian này thì sự đồng nhất với mẹ sau khi ra viện có thể gặp khó khăn.
Trẻ nằm viện, dù không nói được thành lời nhưng đã có nhận thức về cái chết tất nhiên khác
nhau theo độ tuổi và mức độ nặng của bệnh
Từ những điểm trên thì bệnh nhi khi nằm viện thường có những đặc trưng tâm lý sau:

Hiện tượng thoái lùi
Tức là tâm lý của trẻ trở về thời kì nhỏ hơn. Ví dụ: trẻ 6 tuổi luôn đòi mẹ bế, quấy khóc,
đòi bón cơm như trẻ 1-2 tuổi. Hiện tượng thoái lùi do trẻ đứng trước một hoàn cảnh mới, một
thử thách mới. Mức độ thoái lùi tuỳ thuộc đặc tính nhân cách từng trẻ
Sang chấn tâm lý
Tuỳ loại bệnh (cấp tính, mãn tính), mức độ nặng nhẹ, đặc điểm nhân cách, thái độ ứng
xử của nhân viên y tế và gia đình trong qúa trình chăm chữa, sang chấn tâm lý sẽ xảy ra theo
những thang bậc khác nhau. Nó có thể đi suốt cuộc đời đứa bé, tạo thành tiền căn cho những
rối nhiễu sau này.
Khó khăn tái thích nghi
Nhất là trẻ bị bệnh mãn tính, nằm viện lâu ngày và nếu khoa phòng thiếu cán bộ chuyên
môn (nhà tâm lý, nhân viên xã hội v.v…) thì khi ra viện, trẻ khó tái thích nghi với cuộc sống
ngoài bệnh viện. Thường có hai khả năng:
-Thụ động, buông trôi, thiếu năng lượng sống, không muốn vươn lên
- Hoặc hung hãn, phá phách, gây rối
Ngoài ra, theo nghiên cứu y học tâm lý những đứa trẻ khi bị bệnh phải nằm viện khoảng
một thời gian dài xa nhà chúng thường có những biểu hiện của một loại bệnh rối loạn tâm thần
được bác sĩ René Spitz mô tả lần đầu tiên năm 1946 với tên là trầm cảm vắng mẹ (anaclitic
depression) xảy ra ở trẻ nhỏ khi vắng mẹ quá 3 tháng trong thời gian từ 6 đến 12 tháng tuổi.
Sau đó nhà phân tâm John Bowlby tiếp tục nghiên cứu và đề cập đến khẳng định rằng nỗi nhớ
nhà dai dẳng là nguồn cơn của tình trạng căng thẳng, buồn bã hoặc rối loạn tâm lý ở trẻ em xảy
ra ở một số nơi như bệnh viện.
Trong đó, trẻ càng ít tuổi thì càng có xu hướng nhớ nhà nhiều hơn. theo thống kê, những trẻ
em điều trị dài ngày trong bệnh viện chịu đựng chứng nhớ nhà nặng nề và phức tạp hơn so với những
trẻ khác ở các môi trường năng động hơn. Điều này đã được các nhà khoa học trong lĩnh vực Y học
nghiên cứu rất chuyên sâu và có các cách điều trị khác nhau như sử dụng các loại thuốc men, phương
pháp tâm lý, giáo dục, can thiệp môi trường…
Như vậy, bệnh nhân là trẻ em có hoàn cảnh khó khăn vừa là đối tượng của lĩnh vực y tế
vừa là đối tượng của Công tác xã hội. Tâm lý trẻ nằm viện là một vấn đề phức tạp. Việc chữa
trị chỉ có thể đạt hiệu quả tối đa nếu nhân viên y tế hiểu biết về quá trình phát triển tâm lý vận

động của đứa trẻ theo lứa tuổi, hiều tâm lý gia đình, động viên gia đình trong một nỗ lực chung
để việc chăm chữa con em họ có hiệu quả tối đa.
Đối với gia đình bệnh nhi: Tâm lý chung của phụ huynh bệnh nhi là lo lắng, căng thẳng và
mệt mỏi vì nhiều nguyên nhân khác nhau: về bệnh tình của con trước và sau phẫu thuật, về tiền
chữa bệnh cho con, về chỗ ăn ở, các loại giấy tờ thủ tục, mâu thuẫn với y bác sỹ, về những đứa
con và người thân ở nhà cần sự chăm sóc, công việc…
Với những lời thăm hỏi ân cần, những lời khuyên hữu ích, nhân viên Công tác xã hội sẽ
giúp bệnh nhi và gia đình giảm bớt cảm giác đau đớn, không bị rơi vào cảm giác bị bỏ rơi, xa
lánh. Một nụ cười, một cái nắm tay ấm áp, một ánh nhìn trìu mến… thật giá trị trong cuộc sống
và nó thật sự có ý nghĩa rất lớn đối với bệnh nhi. Có lẽ khi là bệnh nhân, ai cũng cần ở người
thầy thuốc sự trợ giúp về tâm lý, đó là sự gần gũi, động viên và chia sẻ, sự tận tình chăm sóc giúp
đỡ. Đó là một “liều thuốc” vô giá đối với người bệnh và gia đình bệnh nhân.
Đối với y bác sỹ tại bệnh viện: Áp lực công việc một ngày có bác sỹ khám tới vài chục thậm
chí tới hơn 100 bệnh nhân. Quá tải, bác sỹ không đủ thời gian, sức lực để tư vấn và trả lời
những thắc mắc của người bệnh xung quanh căn bệnh của họ. Nếu không có sự cảm thông, mối
giao tiếp ấy đôi khi dẫn đến những xung đột đáng tiếc. Chính họ cũng có nhu cầu cần sự hỗ trợ
của Công tác xã hội.
Thứ hai, Công tác xã hội là cầu nối giữa người bệnh có hoàn cảnh khó khăn và các nhà hảo
tâm thiện nguyện
Là cha mẹ ai cũng mong muốn con cái khi sinh ra có một cơ thể khỏe mạnh và hoàn
toàn bình thường về trí tuệ cũng như thể chất. Tuy nhiên có rất nhiều đứa trẻ khi sinh ra đã
không có được những may mắn ấy vì trong mình mang các căn bệnh hiểm nghèo bẩm sinh
hoặc do lây nhiễm. Bản thân một đứa trẻ đang mắc bệnh thì bản thân đứa trẻ cũng như gia đình
đã gặp rất nhiều khó khăn. Đa số những trường hợp nằm viện vì các căn bệnh hiểm nghèo
thuộc các gia đình nghèo ở các vùng kinh tế khó khăn như ở miền núi, các hộ gia đình dân tộc
thiểu số vì điều kiện khám chữa bệnh không thuận lợi cộng thêm hiểu biết của người dân về
các căn bệnh còn hạn chế.
Bất kỳ gia đình nào trong chúng ta khi có người thân phải nằm viện vì các lý do khác
nhau có thể điều trị trong thời gian ngắn hoặc phải phẫu thuật hay cần phải theo dõi trong thời
gian dài vì những biến chứng của các căn bệnh khác nhau đều có chung tâm lý bất an, lo lắng

với hàng trăm sự khó khăn. Tất cả mọi người đều quan tâm đến tình trạng bệnh tật của bệnh
nhân, điều kiện về cơ sở vật chất của bệnh viện, chuyên môn và tay nghề của bác sỹ chưa kể
đến những nhu cầu tối thiểu như ăn uống nghỉ ngơi của người thân đi chăm sóc, các vấn đề tế
nhị như phong bì cảm ơn bác sỹ, giấy tờ thủ tục…đặc biệt đối với những gia đình khó khăn thì
vấn đề lớn nhất là kinh phí chữa trị.
Với tâm lý chung “còn nước còn tát” mạng người mới là quan trọng dù cho con mình
chỉ có chút hy vọng mong manh cũng vẫn có mong muốn bác sỹ tìm cách cứu sống cho dù phải
vay mượn, cầm cố tài sản để có tiền viện phí. Hiện nay rất nhiều bệnh nhi mắc bệnh hiểm
nghèo phải điều trị và tái điều trị tại bệnh viện có hoàn cảnh khó khăn cần sự trợ giúp của Công
tác xã hội. Công tác xã hội ở Việt Nam được hình thành trên cơ sở tình cảm tốt đẹp giữa con
người và con người, tình làng nghĩa xóm, truyền thống Á đông
Đồng thời, việc chăm lo bảo vệ sức khỏe của nhân dân nói chung, các cháu thiếu nhi nói
riêng luôn được Đảng, Nhà nước dành sự quan tâm đặc biệt. Do điều kiện kinh tế nước ta còn
nhiều khó khăn nên rất cần sự chung tay, chung sức của toàn xã hội cùng với nhà nước góp sức
vào sự nghiệp này.Vì vậy vai trò của Công tác xã hội trong bệnh viện chính là đầu mối trong
thực hiện tuyên truyền, vận động sự tham gia, ủng hộ từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể hỗ
trợ người bệnh có hoàn cảnh khó khăn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo.
Hiện nay có rất nhiều các tổ chức thiện nguyện tại các bệnh viện trước khi có quyết định
thành lập Phòng Công tác xã hội trong bệnh viện thì các tổ chức, mô hình này hoạt động mang
tính chất tự phát của một số cá nhân, tổ chức hoặc doanh nghiệp vì mang tính tự phát nên sự
bền vững của các hoạt động không cao. Tất cả các mô hình hiện đang triển khai tại các bệnh
viện vẫn chưa thực hiện đúng và đầy đủ chức năng Công tác xã hội trong bệnh viện. Đội ngũ
cán bộ tham gia hoạt động chủ yếu xuất phát từ tấm lòng từ thiện và kinh nghiệm của bản thân,
chưa được đào tạo bồi dưỡng về kiến thức, kỹ năng Công tác xã hội nên thiếu tính chuyên
nghiệp, hiệu quả hoạt động chưa cao.
Công tác xã hội khi được công nhận là một đơn vị trực thuộc bệnh viện có tư cách pháp
lý, có sự quản lý và điều hành của cơ quan Nhà nước, hoạt động chuyên nghiệp về mặt thời
gian, nhân sự, tài chính một cách công khai minh bạch dựa trên nhu cầu thiết thực của bệnh
nhân. Bằng các hoạt động như: Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ để giúp cải thiện đời
sống tinh thần của nhân viên y tế và người bệnh; tổ chức các sự kiện, hội nghị, hội thảo,

chương trình gây quỹ của bệnh viện, tổ chức các buổi sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, ca nhạc
phục vụ cho người bệnh nhất là với đối với bệnh nhân nhi vào những ngày lễ, ngày Tết như Tết
Trung thu, Tết Thiếu nhi 1.6… Và Công tác xã hội bệnh viện cũng có chức năng tiếp nhận,
phân phối nguồn kinh phí, quà tặng, phương tiện được hỗ trợ từ những tổ chức, doanh nghiệp,
tập thể và cá nhân tới những bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn kịp thời .
Thứ ba, Công tác xã hội trong việc hỗ trợ thông tin cho người bệnh và người nhà về tình trạng
bệnh tật và các dịch vụ y tế, các quy định của bệnh viện
Như chúng ta đã biết trong thế kỷ vừa qua, sự tiến bộ của y khoa học đã vượt quá sức
tưởng tượng.Những khám phá mới về cấu tạo cơ thể đã giúp hiểu rõ hơn về các bộ phận của
con người với muôn ngàn chức năng. Thêm vào đó là rất nhiều phát minh đã làm sáng tỏ về
căn nguyên, diễn tiến, cách chẩn đoán cũng như điều trị các loại bệnh. Tin tức về y khoa trở
nên phong phú hơn nhưng cũng phức tạp, khó hiểu với các từ ngữ mới về bệnh tật, các danh từ
kỹ thuật về phương thức chẩn đoán khám chữa bệnh cũng như danh tính các tác nhân gây bệnh.
Nguồn cung cấp tin tức dữ kiện y khoa học cũng nhiều và dưới các hình thức khác nhau. Trước
các kiến thức mới này, một người dân ở mức học vấn cao đôi khi còn cảm thấy mơ hồ về các
loại bệnh thường gặp như về triệu trứng, nguyên nhân, cách phòng tránh và điều trị Đặc biệt
là đối với những người tuổi cao, nhóm dân thiểu số, những người có căn bản giáo dục giới hạn,
lợi tức thấp hoặc đang ở trong tình trạng sức khỏe suy kém đang phải nằm viện lại càng khó
khăn hơn trong việc tiếp cận các thông tin y học về căn bệnh đó.
Nhân viên Công tác xã hội sẽ giải thích cặn kẽ hơn về căn bệnh mà bệnh nhi mắc phải,
những cách điều trị, sự tiến bộ cũng như những giới hạn của y học…Nhìn chung hiện nay tất cả
các bệnh viện ở nước ta đặc biệt là các bệnh viện lớn mặc dù đã có nhiều quy chế về tiếp đón
người bệnh, khám bệnh, làm hồ sơ bệnh án mà các bệnh viện đã triển khai nhưng quy trình
khám bệnh vẫn còn nảy sinh nhiều vấn đề chẳng hạn như người bệnh phải đi photo giấy tờ
hoặc nộp phí quá nhiều lần. Nơi bệnh nhân lấy máu và xét nghiệm, nơi trả kết quả lại lòng
vòng, không tiếp giáp nhau đi lại mất nhiều thời gian. Với quy trình khám bệnh lâm sàng có xét
nghiệm, chẩn đoán hình ảnh và thăm dò chức năng qua 12 bước làm bệnh nhân phải chờ đợi
rất lâu mà thời gian khám của bệnh nhân có khi chỉ vài phút. Mặc dù đây là những vấn đề nổi
cộm của ngành y tế nói chung tuy nhiên nếu có sự can thiệp của Công tác xã hội trong kỹ năng
giao tiếp, hướng dẫn người nhà bệnh nhân làm các thủ tục hành chính trong bệnh viện thì tâm

lý của người nhà bệnh nhân giảm căng thẳng.
Thứ tư, Công tác xã hội bệnh viện có vai trò đào tạo nghiệp vụ và nâng cao nhận thức
về Công tác xã hội cho đội ngũ y bác sỹ.
Công tác xã hội bệnh viện là một lĩnh vực có nhiều đặc thù mà đòi hỏi nhân viên Công
tác xã hội cần có nhiều kỹ năng, kiến thức liên ngành để tiếp cận với từng thân chủ. Đối tượng
làm việc ở đây là những bệnh nhi những người đang gặp khó khăn về thể chất có thể là đau đớn
do bệnh và khủng hoảng tâm lý do môi trường bệnh viện, đối tượng quan trọng khác là người
nhà bệnh nhi. Hàng ngày nhân viên Công tác xã hội còn phải trao đổi, tiếp xúc với bác sỹ, y tá

×