Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Dòng họ của người hmông trắng ở xã sà phìn, huyện đồng văn, tỉnh hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.45 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
SẦM THỊ DƯƠNG
DÒNG HỌ CỦA NGƯỜI HMÔNG TRẮNG Ở XÃ SÀ PHÌN,
HUYỆN ĐỒNG VĂN, TỈNH HÀ GIANG
Chuyên ngành: Dân tộc học
Mã số: 60 22 70
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ DÂN TỘC HỌC
HÀ NỘI - 2014
Công trình được hoàn thành tại: Học viện khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS: PHẠM QUANG HOAN
Phản biện 1: :

Phản biện 2:

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp tại:
Học viện Khoa học xã hội vào hồi giờ ngày tháng năm 2014.
Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên địa bàn tỉnh Hà Giang có ba nhóm Hmông cư trú gồm Hmông
Trắng, Hmông Hoa và Hmông Xanh, trong đó đông nhất là nhóm Hmông
Trắng. Với dân số 244.277 người, chiếm 31% dân số, người Hmông có dân số
đông nhất tỉnh, cư trú tập trung ở 4 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh và
Quản Bạ. Người Hmông ở Hà Giang là một những trong chủ nhân văn hóa của
vùng đất cao nguyên đá Đồng Văn, đồng thời văn hóa tộc người Hmông góp
phần tạo nên sự đa dạng văn hóa của các dân tộc ở tỉnh Hà Giang.
Dòng họ của người Hmông mang những đặc thù riêng, đặc biệt là tính
cố kết dòng họ đã làm nên bản sắc văn hóa của tộc người này. Sự cố kết dòng
họ liên/xuyên biên giới, liên/xuyên quốc gia vừa thể hiện mặt tích cực nhưng


cũng chứa đựng những hạn chế nhất định. Nghiên cứu về dòng họ người
Hmông góp phần cung cấp cơ sở khoa học giúp cấp ủy, chính quyền địa
phương vận dụng hài hòa giữa luật tục và pháp luật, giữa tính tự quản bằng
luật tục với tính phổ biến bằng pháp luật, kết hợp giữa truyền thống và hiện
đại, thông qua việc xây dựng các quy ước trong từng thôn bản nhằm thực hiện
tốt các hoạt động tự quản tại cơ sở, triển khai có hiệu quả các chính sách của
Đảng và Nhà nước tại địa phương.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, Việt Nam đang đứng trước
nhiều khó khăn và thách thức, các thế lực thù địch triệt để thực hiện âm mưu
“Diễn biến hòa bình” nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta thông qua việc
lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền Vùng người Hmông
là một trong những mục tiêu mà các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng
tâm lý dân tộc, điều kiện kinh tế khó khăn, sự cả tin và thiếu hiểu biết của
một bộ phận đồng bào để xúi giục họ đi ngược lại các chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước như: di cư tự do, theo đạo trái phép, mưu
đồ xây dựng Vương quốc Hmông Vì vậy, việc nghiên cứu về dòng họ
người Hmông càng trở nên cấp thiết, không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn
có giá trị thực tiễn sâu sắc.
Tóm lại, dòng họ là một trong những thiết chế cơ bản và quan trọng
nhất của cộng đồng người Hmông cả trong xã hội truyền thống và hiện nay.
Nghiên cứu về dòng họ của người Hmông, tìm ra những mối quan hệ chính
chi phối trong dòng họ, vai trò và bản sắc của dòng họ làm cơ sở khoa học và
thực tiễn để xây dựng chính sách dân tộc, góp phần giúp đồng bào phát triển
kinh tế, xóa đói giảm nghèo, bảo tồn văn hóa, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, đảm bảo an ninh biên giới, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xuất phát từ những lý do trên đây, tôi chọn vấn đề: Dòng họ của người
Hmông Trắng ở xã Sà Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang làm đề tài
luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu

- Tìm hiểu đặc điểm, mối quan hệ và vai trò của dòng họ người Hmông
Trắng ở xã Sà Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.
- Nêu nên những mặt tích cực và hạn chế trong quan hệ dòng họ người
Hmông, từ đó đề xuất cho công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa,
đồng thời kiến nghị một số giải pháp trong tổ chức thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng, Nhà nước đối với vùng đồng bào dân tộc Hmông.
3. Đối tượng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Dòng họ của người Hmông Trắng ở xã Sà
Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu sâu về 5 dòng họ:
Vương, Sùng, Vừ, Lầu, Ly.
- Địa bàn nghiên cứu: xã Sà Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.
4. Nguồn tư liệu của luận văn
Tư liệu chủ yếu của luận văn được thu thập từ nghiên cứu điền dã tại xã
Sà Phìn, ngoài ra còn kế thừa tài liệu đã được công bố của các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước, kế thừa từ các đề tài nghiên cứu khoa học về dòng họ
Hmông, các số liệu báo cáo của Trung ương và địa phương liên quan đến đề tài.
5. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu cung cấp tư liệu mới về dòng họ người Hmông,
giúp các cơ quan chức năng có thêm cơ sở thực tiễn tham khảo trong xây
dựng và cụ thể hóa chính sách dân tộc, đồng thời góp phần giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa tộc người Hmông, bảo tồn sự đa dạng văn hóa cổ truyền
của các dân tộc Việt Nam.
6. Nội dung, bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
chính của luận văn có 3 chương sau:
Chương I: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết, phương
pháp và khái quát về địa bàn nghiên cứu
Chương II: Các mối quan hệ dòng họ của người Hmông Trắng ở xã Sà Phìn
Chương III: Vai trò của dòng họ người Hmông Trắng ở xã Sà Phìn

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,
PHƯƠNG PHÁP VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Từ thế kỷ XVII, các nhà khoa học Phương Tây đã bắt đầu nghiên cứu về
dòng họ, những người đi đầu đặt nền móng nghiên cứu về dòng họ phải nói
đến Bacophen, Mac Lennan và L.Morgan. Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của
họ là một số tộc người sinh sống ngoài các nước Phương Tây.
Luận văn giới thiệu tổng quan về một số công trình nghiên cứu cơ bản
mang tính lý thuyết gồm: Bức khảm văn hóa Châu Á của Grant Evans; Nhân
học - một quan điểm về tình trạng nhân sinh, của Emily A.Schultz và Robert
H.Lavenda; Nhập môn lý thuyết nhân học của Robert Layton; Một số vấn đề
lý thuyết và phương pháp nghiên cứu nhân học. Bên cạnh đó tác giả luận văn
cũng khái quát một số nghiên cứu về người Hmông gồm Lịch sử người Mèo
của F.M. Savina; Những đặc điểm của thuật saman của người Mèo Trắng ở
Đông Dương của Guy Morechand; Một làng người Hmông Xanh ở Thượng
Lào của Jacques Lemoine; Các vấn đề dân tộc Hmông hiện nay: 10 điểm
chính của Gary Lee và Nick Tapp.
1.1.2. Nghiên cứu của các tác giả trong nước
Do vị trí đặc biệt của tộc người Hmông trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam, nên vấn đề người Hmông đã được nhiều nhà khoa học, các tổ chức trính
trị, xã hội quan tâm nghiên cứu trên nhiều chiều cạnh. Có rất nhiều công trình
nghiên cứu giới thiệu về người Hmông, dòng họ người Hmông cũng như các
vấn đề khác liên quan đến tộc người này. Tiêu biểu có các tác giả như: Phạm
Quang Hoan, Nguyễn Ngọc Thanh, Vương Duy Quang, Nguyễn Văn Minh,
Nguyễn Văn Thắng, Cư Hoà Vần, Hoàng Nam, Trần Hữu Sơn,
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài cho thấy rằng, vấn đề người
Hmông và dòng họ người Hmông ở Việt Nam đã được nghiên cứu khá chi
tiết và tổng thể. Tuy nhiên, các nghiên cứu về dòng họ người Hmông ở Hà

Giang còn rất hiếm cũng như chưa có một khảo cứu điểm chuyên biệt nào về
dòng họ của người Hmông trên địa bàn một xã. Luận văn đi sâu tìm hiểu về
dòng họ người Hmông Trắng ở xã Sà Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
Luận văn làm rõ nội hàm hai khái niệm cơ bản đó là dòng họ và quan
hệ dòng họ.
Theo Vương Duy Quang, dòng họ người Hmông được hiểu như sau:
xét trên hệ thống thân tộc, khái niệm dòng họ của người Hmông bao gồm
những người đàn ông thuộc các thế hệ khác nhau sinh ra từ một ông tổ và vợ
con của họ. Cụ thể hơn, đó là tất cả những người theo trực hệ tính từ chắt của
Ego (xinhz nzưr). Để diễn tả hình tượng từ một ông tổ sinh ra ấy, đồng bào
dùng thuật ngữ iz trôngs Hmôngz - “cùng một cây người”. Theo tiếng Hmông
trôngs có nghĩa là cây, ở đây hàm ý chỉ một cộng đồng. Từ trôngs lại phân ra
thành nhỏ hơn.
Tác giả luận văn cho rằng mỗi dòng họ Hmông được xem như một đơn
vị cố kết cộng đồng huyết thống theo dòng cha. Tiêu chuẩn để nhận ra dòng
họ là các vị tổ tiên mà dòng họ thờ phụng. Ông tổ là người đã chết mà người
già ở thế hệ cao nhất trong phả hệ còn nhớ.
Quan hệ dòng họ Hmông là một thực thể vừa mang tính sinh học vừa
mang tính xã hội, kết nối những con người - các thành viên trong dòng họ với
nhau và các mối quan hệ này cũng biến đổi qua thời gian.
1.2.1. Lý thuyết nghiên cứu
Luận văn tiếp cận nghiến cứu thông qua hai lý thuyết là lý thuyết chức
năng cấu trúc và lý thuyết tiếp biến văn hóa. Việc sử dụng hai lý thuyết trên
để tiếp cận nghiên cứu về dòng họ người Hmông, là sự tương hỗ “vừa đủ” để
giải thích một cách biện chứng sự tồn tại và biến đổi của thiết chế dòng họ -
một nét đặc trưng văn hóa của tộc người này. Lý thuyết chức năng cấu trúc
có giá trị trong việc nghiên cứu và giải thích sự tồn tại lâu bền của các thiết
chế xã hội, nhưng lại ít có giá trị cho việc nghiên cứu và giải thích sự biến

đổi của chúng. Ngược lại, lý thuyết tiếp biến văn hóa lại cho phép giải thích
quá trình biến đổi văn hóa, trong đó có thiết chế dòng họ của người Hmông ở
xã Sà Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu
Để cập nhật và có đầy đủ tư liệu thực tế, tác giả luận văn đã tiến hành
điền dã dân tộc học tại địa bàn nghiên cứu với các kỹ thuật như quan sát tham
dự, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm, chụp ảnh, vẽ sơ đồ và xây dựng phả hệ
của các dòng họ Điền dã dân tộc học cũng là phương pháp chủ đạo mà đề tài
đã sử dụng, ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như:
Phương pháp tổng quan, phân tích tài liệu; phương pháp chuyên gia, phương
pháp so sánh,… để làm sáng tỏ các vấn đề dòng họ của người Hmông.
1.3. Khái quát về người Hmông ở xã Sà Phìn
1.3.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Nằm trên quốc lộ 4C - con đường Hạnh Phúc nối liền Hà Giang - Đồng
Văn, xã Sà Phìn nằm ở phía Tây Bắc huyện Đồng Văn, phía Bắc giáp Trung
Quốc, phía Nam giáp xã Lũng Táo, phía Đông giáp xã Sính Lủng và phía Tây
giáp xã Sảng Tủng. Xã có chiều dài tuyến đường biên giới 5,493 km, với 5 cột
mốc chính và 1 cột mốc phụ. Toàn xã có 11 thôn, trong đó có 2 thôn biên giới.
Tổng diện tích tự nhiên là 1.830 ha.
1.3.2. Lịch sử tộc người, dân số và sự phân bố dân cư
Người Hmông di cư vào Việt Nam giai đoạn sớm nhất cách ngày nay
trên 350 năm (14 đời), đó là nhóm người Hmông đầu tiên từ Quý Châu
xuống Vân Nam, Trung Quốc rồi vào vùng đất Mèo Vạc, Đồng Văn của tỉnh
Hà Giang. Giai đoạn thứ hai cách ngày nay khoảng 200 năm (10 đời). Giai
đoạn thứ 3 cách đây khoảng 150 năm (khoảng 6 -7) đời. Những nhận định
trên cũng tương đồng với tài liệu điền dã ghi chép về gia phả các dòng họ
người Hmông tại địa bàn đề tài nghiên cứu, dòng họ đến xã Sà Phìn sớm nhất
đã được 9 - 10 đời (họ Vương, Sùng, Ly) và muộn nhất được 6 - 7 đời (họ
Lầu, Vừ).
Đồng Văn là huyện có tỷ lệ người Hmông đông nhất tỉnh, với dân số

chiếm 87,12% dân số toàn huyện (60.893/69.823 người). Sà Phìn là một trong
những xã của huyện Đồng Văn có 100% dân số là người Hmông Trắng, với
tổng dân số 2.804 khẩu/574 hộ, trong đó có 1.405 nữ và 1.399 nam.
1.3.3. Một số đặc điểm về kinh tế
Luận văn giới thiệu khái quát các đặc điểm kinh tế cơ bản về trồng trọt,
chăn nuôi, nghề thủ công, kinh tế khai thác tự nhiên, các hoạt động trao
đổi, mua bán của người Hmông ở xã Sà Phìn.
1.3.4. Một số đặc điểm xã hội
Luận văn giới thiệu khái quát về đặc điểm làng bản, các loại hình gia
đình và các mối quan hệ trong gia đình của người Hmông ở xã Sà Phìn.
1.3.5. Một số đặc điểm văn hóa
Tác giả luận văn khái quát về một số đặc điểm văn hóa vật chất của
người Hmông ở xã Sà Phìn gồm nhà cửa, trang phục, đồ dùng sinh hoạt, ăn
uống của người Hmông ở xã Sà Phìn.
Tiểu kết chương 1
Với mục đích cung cấp cái nhìn tổng thể cho toàn luận văn, chương 1 giới
thiệu những nghiên cứu về người Hmông và dòng họ người Hmông; đồng thời
nêu rõ các lý thuyết nghiên cứu được đề tài áp dụng, gồm lý thuyết chức năng
cấu trúc và lý thuyết tiếp biến văn hóa, sự tương hỗ bổ trợ giữa hai lý thuyết đã
giúp đề tài có cách tiếp cận khoa học và đầy đủ hơn khi lý giải các vấn đề về
dòng họ người Hmông ở xã Sà Phìn. Phương pháp nghiên cứu chính của luận
văn là điền dã dân tộc học, đã giúp thu thập được nguồn tư liệu mới phong phú,
góp phần làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu.
Chương 2
CÁC MỐI QUAN HỆ CỦA DÒNG HỌ
NGƯỜI HMÔNG TRẮNG Ở XÃ SÀ PHÌN
2.1. Đặc điểm dòng họ
2.1.1. Quan niệm về dòng họ của người Hmông
Dòng họ của người Hmông là quan hệ có tính chất đặc biệt, vừa mang
nét chung khi xét về cách xác định thân tộc bằng huyết thống, vừa có tính đặc

thù tộc người ở nguyên tắc“thôngx xênhv, thôngx đangz”(cùng họ, cùng ma).
Đồng bào có câu:“cái ăn cái ở thì theo người khác được, còn cúng ma thì
không theo người khác được”. Vì thế dù đi bất cứ nơi đâu, người Hmông vẫn
giữ được tục làm ma của dòng họ. Để nhận nhau làm anh em, ngoài điểm
chung cùng tên họ, nhất định phải có chung cách cúng ma thì mới có cùng
ông tổ chung.
Khi hai người đàn ông Hmông gặp nhau, để biết có phải là anh em hay
không, trước hết phải hỏi tên họ, ví dụ: cùng họ Vàng, thì sẽ hỏi tiếp là Vàng
Hmông, Vàng Hmông Hán hay Vàng giả? (Vàng Hmông là nguyên gốc người
Hmông không học cách làm ma của người Hán; Vàng Hmông Hán tức đã học
một số cách làm ma của người Hán; Vàng giả tức là đổi họ theo họ Vàng). Đi
quan tài (mul tôngl= đi kiệu) hay đi cáng (mul nênhl = đi ngựa)? Làm ma tươi
đuổi ma giặc Hán mấy lần, số lượng người tham gia là bao nhiêu? Mộ xếp đá
không, xếp như thế nào, có cửa không? Làm ma lợn (buô đangz trôngs), ma
bò (nhux đaz) số lượng bát cúng là bao nhiêu? Cách sắp xếp bát cúng và các
bước tiến hành như thế nào? Nếu tất cả các điểm đều trùng khớp nhau thì họ là
anh em, có nghĩa là cùng một ông tổ sinh ra.
2.1.2. Quá trình hình thành dòng họ
Qua nghiên cứu 5 dòng họ người Hmông ở xã Sà Phìn gồm Vương,
Sùng, Lầu, Ly, Vừ và lập cây phả hệ của từng dòng họ, cho thấy họ Vương và
họ Sùng đến vùng đất Sà Phìn sớm hơn cả, họ Vừ và họ Lầu đến muộn nhất.
Xét từ cây phả hệ các dòng họ, qua lời kể của các cụ già và các bài cúng có thể
xác định được thời điểm các dòng họ người Hmông đến xã Sà Phìn khoảng
trên 200 năm.
2.1.3. Các dấu hiệu nhận biết dòng họ
2.1.3.1. Các kiêng kỵ liên quan đến truyền thuyết
Các dòng họ người Hmông ở xã Sà Phìn có những kiêng kỵ gắn liền
với truyền thuyết tộc họ, nội dung cốt truyện có nét tương đồng với dòng họ
người Hmông nói chung. Điển hình nhất là câu truyện của họ Giàng
(Dương), liên quan đến kiêng kỵ đàn ông trong dòng họ không được ăn tim

các con vật.
Họ Sùng kiêng không giết hại con gấu, vì có liên quan đến câu chuyện
kể rằng ông bố họ Sùng sau khi chết đã hóa kiếp thành loài gấu, cho nên
dòng họ Sùng coi con gấu là vật tổ của mình và lấy tên họ là “Sùng”, theo
tiếng Hmông Sùng nghĩa là con gấu.
Họ Vừ nhận con lợn là tổ tiên.
Họ Lầu kiêng ăn thịt hổ.
Họ Ly kiêng ăn lá lách các con vật.
2.1.3.2. Tập tục trong tang ma
Mỗi dòng họ người Hmông có cách làm ma riêng, sự khác nhau cơ bản ở
các thủ tục sau: cách đặt người chết “đi dọc” hay “đi ngược” hoặc nói cách
khác là đi quan tài hay đi cáng? Đi quan tài là Hmông Hán, tức đã học một số
phong tục làm ma của người Hán như: người chết cho vào quan tài từ trong
nhà, quan tài đặt dọc, đầu hướng về bàn thờ, mộ chôn theo hướng Đông - Tây
(gọi là đi dọc). Tùy theo mỗi dòng họ lại có cách xếp đá ở mộ khác nhau, có
cửa hoặc không có cửa. Còn đi cáng (mul nênhl = đi ngựa), là đặt người chết
lên cáng để ngang dưới bàn thờ, hạ quan tài xuống huyệt mới cho người chết
vào quan tài, mộ chôn theo hướng Bắc - Nam (gọi là đi ngược), mộ không xếp
đá mà đắp đất, có dòng họ rào cây tre xung quanh mộ.
Qua nghiên cứu 5 dòng họ tại xã Sà Phìn cho thấy có 4 dòng họ là Hmông
Hán và một dòng họ là Hmông, cụ thể như sau: các họ Vương, Sùng, Ly (thôn
Há Hơ), Lầu đã học cách làm ma theo người Hán từ việc cho người chết vào
quan tài tại nhà đến cách đặt hướng mộ và mộ xếp đá. Họ Vừ ở thôn Lỳ Chá
Tủng chỉ học cách mộ xếp đá. Riêng họ Ly ở thôn Lũng Thầu là họ Hmông.
2.1.3.3. Tập tục trong các nghi lễ cúng ma của gia đình
* Xử ca (ma tổ tiên): Lễ cúng xử ca được tiến hành vào 30 tết, chủ nhà
bắt một con gà trống đẹp, cắt tiết, rồi vẩy chút tiết gà lên giấy bản, sau đó lấy
một ít lông cổ gà dán vào chỗ tiết vẩy, tháo tấm giấy bản cũ ra và dán tấm mới
lên. Nơi thờ xử ca ở gian nhà giữa, phía bức tường hậu. Trong truyền thống
người Hmông không có bàn thờ, chỗ cắm hương là ống tre gài lên tường phía

dưới xử ca. Khi cúng kê một cái bàn dưới xử ca và đặt đồ cúng lên, hiện nay
một số gia đình có dùng bàn đặt bát hương. Nhìn vào nơi thờ xử ca người ta có
thể phân biệt dòng họ có mộ xếp đá hoặc không xếp đá (dòng họ có mộ xếp đá
thường dùng bàn thờ và được trang trí nhiều giấy mầu do học theo người Hán,
còn dòng họ mộ không xếp đá thì không dùng bàn thờ và giấy trang trí dùng
duy nhất loại giấy bản mầu trắng đục).
* Ma lợn (Buô đar trôngs) là ma phù hộ cho sức khỏe, giữ hồn con cái,
vợ chồng và phát triển chăn nuôi. Khi người vợ sinh đứa con đầu lòng thì phải
lập nơi thờ cúng buô đangz trôngs, khi gia đình có người ốm đau, nếu chủ nhà
cầu xin buô đangz trôngs phù hộ cho khỏi bệnh và hứa nếu khỏi thì sẽ có lễ
cúng tạ ơn vào ngày này, tháng này thì nhất định phải làm lễ cúng ma lợn. Lễ
cúng buô đangz trôngs của các dòng họ thường vào mồng 2 tết âm lịch, riêng
họ Vàng, họ Sùng cúng gà, họ Ly (thôn Há Hơ) thì có thể cúng vào mồng 2
âm lịch của bất cứ tháng nào trong năm. Lễ cúng ma lợn được tiến hành vào
ban đêm, chủ nhà dắt một con lợn nhỏ (phải là lợn cái) đến bếp lò, phía
giường ngủ vợ chồng chủ nhà, làm lễ cúng giao lợn, sau đó tiến hành mổ lợn
luôn tại đây. Mỗi dòng họ người Hmông có cách cúng buô đangz trôngs khác
nhau.
* Ma bò (nhux đaz): Người Hmông làm ma bò để thể hiện lòng hiếu
nghĩa, sự trả ơn của con cái đền đáp công lao của cha mẹ, lần lượt các con
trai, khi có điều kiện sẽ làm lễ này. Bố hoặc mẹ chết được 1 hoặc 3 - 5 - 7
năm sau, gia đình có điều kiện sẽ tổ chức và có thể làm liền các bước cúng
luôn. Trong lễ nhux đaz của các dòng họ người Hmông, ngoài sự khác nhau
về số lượng bát thịt bò cúng, về cơ bản là giống nhau ở đồ lễ cúng phải có
trứng gà, gà trống, lợn, bò; khi cúng bò thường có các lá đựng thức ăn cúng
ma chúng sinh, ma rừng núi (để không tranh phần ma nhà), phải có áo dài và
áo hoa đá nhux đaz, khèn, trống, cành tul sil làm nhà mới, làm nhà gỗ giả (có
dòng họ làm quan tài giả) cho người được cúng, địa điểm làm lễ thường ở
ngã ba đường.
2.2. Tổ chức và quản lý của dòng họ

Tổ chức dòng họ của người Hmông được quản lý bằng luật tục tộc họ
và được điều hành bởi những người đứng đầu dòng họ, bao gồm trưởng họ,
bà cô và người cầm quyền ma, quyền khách, đó là những người theo dõi, đề
xuất, giải quyết những vấn đề liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần và
tâm linh của dòng họ cũng như các công việc có liên quan tới cộng đồng xã
hội chung (đối ngoại).
2.2.1. Những người có uy tín trong dòng họ
* Trưởng họ (Uô thơưx = đứng đầu) hay (Hâur pâul = cái gốc): là
người đàn ông đứng tuổi (khoảng ngoài 40 tuổi, không nhất thiết phải là
người già), có phẩm chất đạo đức tốt, gia đình mẫu mực, kinh tế khá giả có
thể giúp được anh em, am hiểu phong tục tập quán, hiểu đường lý, đường lẽ,
giải quyết mọi công việc phải vì quyền lợi chung, công bằng, không bênh
vực ai, lời nói mọi người đều kính nể và nghe theo, mới trở thành người đứng
đầu dòng họ “cầm quyền người”.
* Người “cầm quyền ma, quyền khách” (cho đar khuô), đó là người
am hiểu tường tận nghi lễ, cách thức làm ma của dòng họ và trực tiếp phụ
trách những phần việc liên quan đến tín ngưỡng của dòng họ mình. Cho đar
khuô còn được coi như một “cố vấn” của trưởng họ trong việc quyết định
những hành động liên quan đến đối ngoại. Cho đar khuô không do bầu bán,
cũng không bị phế bỏ và có thể cha truyền con nối. Có thể nói, nếu coi
trưởng họ là người đảm nhận chức năng “hành chính” thì cho đar khuô chính
là người đảm nhận chức năng tín ngưỡng của dòng họ.
* Bà cô (Fâux): là chị hoặc em gái của thế hệ cha chú trọng dòng họ
(thuộc cành trên), tháo vát, giỏi giao tiếp, có đời sống gia đình hạnh phúc,
khá giả. Bà cô cũng không do bầu chọn, dựa vào tố chất nổi trội hơn của các
chị em bên bố mà hội đồng người già trong dòng họ suy tôn. Bà cô có trách
nhiệm giám sát mọi thành viên trong việc thực hiện các quy định liên quan
đến luật tục của dòng họ. Đồng thời, bà có quyền quyết định tất cả các vấn đề
liên quan đến phong tục tập quán của dòng họ, mọi tập tục muốn “cai” hoặc
“mở” đều phải mời bà cô về “chửi qua” (tsơưv đuô), người trong dòng họ vi

phạm, làm sai phong tục muốn sửa lại đều phải nhờ đến bà cô.
* Bậc cha chú: là hội đồng những người cao tuổi trong dòng họ, thường
là những người có độ tuổi ngoài 50 trở đi (phải là những người đã được đặt tên
già), am hiểu phong tục tập quán. Hầu hết các công việc lớn trong dòng họ
trước khi trưởng họ đưa ra quyết định đều phải thông qua ý kiến của hội đồng
người cao tuổi, điều này thể hiện tính cộng đồng rất mạnh của dòng họ người
Hmông. Ý kiến của hội đồng người cao tuổi là ý chí của cả dòng họ, trưởng họ
phải nghe theo và đại diện thực hiện.
* Ông cậu: là anh hoặc em trai của mẹ, ông cậu cũng được chọn trên cơ
sở như bà cô, đó phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, biết giao tiếp, hiểu
phong tục tập quán và được hội đồng người già trong dòng họ nhất trí chọn lựa.
Ông cậu chủ yếu có vai trò trong đám cưới cháu gái, từ khi cháu gái được người
ta hỏi rồi cuới, ông cậu đều được mời tham gia trong thành phần chính của nhà
gái để bàn về sính lễ thách cưới, thời gian cưới, tổ chức lễ cưới như thế nào
đều phải có ý kiến tham gia của ông cậu.
* Thầy cúng: người Hmông phân biệt thầy cúng thành hai loại gồm: thầy
cúng bói và trừ ma tà, chữa bệnh (txir nênhz) và thầy cúng nghi lễ tang ma (txir
đangz, chính là cho đaz khuô).
2.2.2. Quan hệ của những người có uy tín trong dòng họ với trưởng
thôn/ bản
Trước đây, hầu hết trưởng thôn của người Hmông đều là trưởng họ của
một dòng họ nào đó trong thôn. Trường hợp thôn có duy nhất một họ thì
đương nhiên trưởng thôn phải là trưởng dòng họ đó. Đối với những thôn có
nhiều dòng họ thì trưởng thôn thường là trưởng của dòng họ có số dân đông
hơn và có uy tín hơn các dòng họ khác. Trong truyền thống cho đến hiện nay,
người có uy tín trong dòng họ người Hmông luôn có liên hệ chặt chẽ với
trưởng thôn, bản.
2.3. Các mối quan hệ dòng họ
2.3.1. Quan hệ dòng họ trong hoạt động kinh tế
Từ truyền thống đến hiện nay, dòng họ của người Hmông không đóng

vai trò là đơn vị quản lý kinh tế, nhưng ít nhiều nó cũng có chức năng điều
tiết một số mối quan hệ kinh tế nhất định giữa các hộ gia đình trong dòng họ
như trong lao động sản xuất, quản lý về đất đai, phân chia tài sản, thừa kế…
2.3.1.1. Trong lao động sản xuất
Mỗi gia đình người Hmông là một đơn vị kinh tế độc lập, tự cung tự
cấp, tự sản xuất để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Tuy nhiên trong
quá trình lao động sản xuất, các thành viên trong dòng họ luôn trợ giúp nhau,
thể hiện tính cộng đồng chặt chẽ.
2.3.1.2. Trong quản lý đất đai
Theo luật tục Hmông, đất đai canh tác luôn thuộc quyền sở hữu của từng
gia đình. Nói cách khác, khi một dòng họ di cư đến một vùng nào đó, các gia
đình tự khai phá nương rẫy và có quyền sở hữu toàn bộ đất đai ấy. Tuy nhiên,
yếu tố sở hữu đó phần nào vẫn chịu sự chi phối bởi mối quan hệ dòng họ.
Toàn bộ đất đai mà các hộ gia đình khai phá được trên danh nghĩa đều là tài sản
chung của dòng họ. Dòng họ không trực tiếp tham gia vào quản lý sản xuất của
từng hộ gia đình mà tham gia quản lý đất đai. Trưởng họ là người đứng ra giải
quyết mọi vấn đề liên quan đến đất đai, khi có tranh chấp, mâu thuẫn giữa các
hộ gia đình trong dòng họ hoặc khi có người khác đến lấn chiếm. Trường hợp
trong một bản làng có nhiều dòng họ chung sống thì trưởng bản sẽ là người đại
diện cho các dòng họ quản lý đất đai toàn bản.
2.3.1.3. Chia tài sản và thừa kế
Dòng họ người Hmông không có sở hữu chung, nên không có tài sản
chung. Tuy nhiên, khi các gia đình chia tài sản cho con cái, nhất thiết phải có
sự tham dự của dòng họ (trưởng họ và hội đồng người già); ngoài ra còn có
đại diện của một số dòng họ khác trong thôn và trưởng thôn, để giám sát và
góp ý việc phân chia đảm bảo công bằng, đồng thời làm chứng, phòng sau
này nếu có tranh chấp, thì sẽ tham gia giải quyết. Các con trai mới được bố
mẹ chia của cải, con gái chỉ được bộ quần áo, đồ trang sức và ít quà tặng là
đồ dùng gia đình khi đi lấy chồng.
Trong phân chia tài sản, con trai trưởng và con trai út được nhiều hơn

các anh em, vì con trưởng có nghĩa vụ thờ cúng tổ tiên, con út do ở cùng bố
mẹ nên được hưởng phần của bố mẹ, các con trai thứ được chia bằng nhau.
2.3.2. Quan hệ dòng họ trong đời sống xã hội
2.3.2.1. Cư trú
Làng Hmông (Jaol) thường có từ vài đến vài chục nóc nhà, ở một địa
điểm hay nhiều điểm gần nhau, chung một họ hay một vài họ, có chung một
thổ thần và những phong tục, tập quán, quy ước. Nếu Jaol là người cùng một
dòng họ thì đứng đầu dòng họ cũng tức là đứng đầu làng. Nếu Jaol gồm
nhiều dòng họ thì trưởng dòng họ đông người sẽ đứng đầu, hoặc luân phiên
nhau (từ họ đông người nhất đến ít người nhất) đứng đầu Jaol. Đó là quan hệ
nhằm thực hiện những quy ước về canh tác, chăn nuôi, giúp đỡ lẫn nhau
trong các công việc và nghĩa vụ khác. Quan hệ này có phần lỏng lẻo. Chặt
chẽ hơn cả là quan hệ đồng tộc, cùng họ, “những người cùng tổ tiên”, những
người “cùng ma”. Khảo sát tại 11 thôn ở xã Sà Phìn cho thấy rõ tập quán cư
trú theo dòng họ của người Hmông, có thôn chỉ có một dòng họ, hoặc nhiều
lắm cũng khoảng 3 đến 4 dòng họ cộng cư.
2.3.2.2. Di chuyển cư
Các cuộc di chuyển cư của người Hmông diễn ra ở quy mô khác nhau,
những cuộc di cư lớn có quy mô cả bản làng và dòng họ, nhỏ lẻ hơn là nhóm họ
hay hộ gia đình. Trường hợp cả bản làng di cư, trưởng bản phải họp các dòng
họ để bàn bạc thống nhất, nếu trưởng các dòng họ nhất trí thì tất cả các hộ
dân phải nghe theo. Nếu vài hộ đi riêng lẻ thì phải báo cáo với dòng họ và
được trưởng họ nhất trí mới được di cư. Trước khi đi (nếu đi xa) sẽ được
trưởng họ, hội đồng người già và cho đar khuô dặn dò kỹ lưỡng cách làm ma
theo phong tục, nếu chưa rõ phải hỏi, các anh em trong họ sẽ đến cho chút
tiền, bạc và động viên.
Người Hmông không muốn sống du cư, đồng bào có câu tục ngữ nhắc
nhở truyền đời: “Muôx khiêr pluôs, pluôs khiêr tuôs” (giàu chạy nghèo,
nghèo chạy chết) hay“Traos khiêr kruôr, zuôr khiêr nquôr”(béo chạy khổ,
gầy chạy đổ).

2.3.2.3. Hôn nhân và gia đình
Đối với đồng bào Hmông, hôn nhân là việc chung của dòng họ. Tất cả
mọi quyền hành trong hôn nhân thuộc về người già, người cao tuổi, đặc biệt
là bà cô, ông cậu. Sự thành công của cuộc hôn nhân phụ thuộc vào việc dòng
họ có tán thành hay không. Trước kia trai, gái người Hmông không thể bảo
vệ tình yêu để đi đến hôn nhân dù thực sự yêu nhau nếu gia đình, họ hàng
không đồng ý, ngược lại có khi chẳng biết mặt mà được họ tộc tán thành, ép
buộc thì cũng nên vợ nên chồng.
2.3.3. Quan hệ dòng họ trong bảo tồn và phát huy bản sắc
Luật tục tộc họ là công cụ quan trọng nhất để dòng họ người Hmông
quản lý, điều hành các mối quan hệ trong đời sống cũng như trong bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa tộc người. Mọi hoạt động của thành viên trong sinh
hoạt hàng ngày của gia đình, dòng họ, làng bản đều được đặt trong “khuôn
mẫu” mà luật tục quy định và cá nhân luôn ý thức, tự giác thực hành đúng
với vị trí của mình trong mối quan hệ dòng họ. Như vậy, việc các thành viên
thực hiện luật tục là cơ sở để dòng họ người Hmông bảo tồn, phát huy bản
sắc văn hóa tộc người, mà biểu hiện rõ nhất là trong các nghi lễ của dòng họ
và các sinh hoạt chung của gia đình.
2.3.3.1. Các nghi lễ của dòng họ
Luận văn tập trung giới thiệu hai nghi lễ chính đó là lễ cúng thần lửa
(thi su) và lễ hội gầu tào (tsang taox = cầu tự).
2.3.3.2. Quan hệ dòng họ trong những sinh hoạt chung của các gia đình
Cùng với các nghi lễ của dòng họ, những sinh hoạt chung của gia đình
như cưới xin, ma chay, cúng tế, làm nhà… cũng là dịp để các thành viên dòng
họ thực hành tập tục. Trong mỗi hoạt động, các thành viên phải ứng xử theo
đúng vị trí, vai vế của mình đặt trong mối quan hệ dòng họ.
2.3.3.3. Quan hệ giữa các dòng họ
Trong địa vực cư trú, giữa các dòng họ người Hmông thiết lập nhiều
mối quan hệ đan xen ở các mức độ đậm, nhạt và chiều hướng khác nhau,
hoặc thân thiện qua quan hệ thông gia, nhập họ; hoặc chỉ là quan hệ láng

giềng “nhạt” do giữa hai họ có mâu thuẫn nảy sinh hoặc tiềm ẩn.
Tiểu kết chương 2
Sự nhận diện dòng họ theo “ma” là đặc điểm chính của dòng họ người
Hmông. Căn cứ các tập tục trong tang ma và nghi lễ cúng ma của gia đình và
từng dòng họ, người Hmông nhận ra anh em cùng ông tổ, họ có thể sống chết vì
nhau mặc dù chưa một lần gặp gỡ. Đặc điểm này là sự khác biệt cơ bản mang
tính bản sắc trong nhận diện dòng họ của tộc người Hmông khi so sánh với
nhiều dân tộc khác ở Việt Nam.
Dòng họ người Hmông dùng luật tục tộc họ để quản lý các thành viên.
Các sinh hoạt dòng họ từ ma chay đến cúng tế, cưới xin và các quan hệ
trong sản xuất, kinh tế, cư trú, giáo dục… được quy định khá chặt chẽ.
Trong thế giới đa vai trò, mỗi thành viên dòng họ người Hmông luôn phải
linh hoạt để đảm nhiệm đặt trong nghĩa vụ và quyền lợi. Luật tục dòng họ là
điều cốt lõi của xã hội Hmông và các mối quan hệ dòng họ là cơ sở để
người Hmông bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa tộc người
trong đời sống xã hội đương đại cũng như trong bức tranh đa tộc người, đa
văn hóa của Việt Nam nói chung, của tỉnh Hà Giang nói riêng.
Chương 3
VAI TRÒ CỦA DÒNG HỌ NGƯỜI HMÔNG TRẮNG
Ở XÃ SÀ PHÌN
3.1. Vai trò của dòng họ trong quản lý xã hội
3.1.1. Vai trò của dòng họ trong việc kiểm soát các mối quan hệ giữa
các thành viên trong dòng họ và giữa các dòng họ trong địa bàn cư trú
Mọi ứng xử của cá nhân đều nằm trong quy chuẩn của luật tục dòng họ
và mọi mối quan hệ của các thành viên được điều chỉnh bởi luật tục tộc họ.
Điều đó cho thấy vai trò quản lý xã hội của dòng họ người Hmông rất mạnh.
Thông qua luật tục, những người đứng đầu dòng họ: trưởng họ, cho đar
khuô, bà cô và các bậc cha chú quản lý thành viên trong dòng họ mình. Ngày
nay, bên cạnh những quy định của pháp luật, quy ước, luật tục dòng họ vẫn
còn nguyên giá trị, trong cộng đồng từng dòng họ vẫn duy trì những quy định

riêng và các thành viên tự giác tuân thủ.
3.1.2. Vai trò của dòng họ trong tổ chức di chuyển cư
Trong di chuyển cư, dòng họ đóng vai trò hết sức quan trọng, việc
quyết định chuyển cư trong truyền thống do dòng họ quyết định. Hiện nay, sự
ràng buộc của dòng họ trong di chuyển cư không còn mạnh mẽ như trước kia,
quyền quyết định di chuyển cư là của hộ gia đình. Tuy nhiên, do tâm lý cư trú
theo dòng họ, đồng tộc và tập quán du canh du cư nên bộ phận dòng họ người
Hmông ở Hà Giang vẫn lôi kéo anh em di cư tự do.
3.1.3. Vai trò của dòng họ trong hạn chế các tệ nạn xã hội
Trong truyền thống, để hạn chế các tệ nạn xã hội dòng họ dùng luật tục
tộc họ và làng bản để quản lý cộng đồng với những quy định cụ thể. Hiện nay,
làng bản người Hmông được quản lý bằng quy ước và luật pháp của Nhà nước.
3.1.4. Vai trò của dòng họ trong việc giữ gìn và chuyển đổi tín
ngưỡng, tôn giáo
Trước năm 2007, Hà Giang là một trong những địa bàn nóng về tình hình
theo và truyền đạo trái pháp luật, đặc biệt là đạo Tin Lành của một bộ phận
đồng bào dân tộc thiểu số (chủ yếu là Hmông, Dao). Từ năm 2007 đến nay,
thông qua việc quán triệt thực hiện Thông báo 160 và Chỉ thị số 01/2005/CT-
TTg của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh đã chỉ đạo ngành chức năng (Ban Tôn
giáo) và các đơn vị liên quan, giải quyết nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của bộ
phận nhân dân bằng cách cấp giấy chứng nhận đăng ký sinh hoạt đạo Tin Lành
theo điểm nhóm, phân biệt rõ nhu cầu tôn giáo chính đáng với việc lợi dụng đạo
Tin Lành để chống phá Đảng, Nhà nước. Đồng thời quản lý chặt chẽ hoạt động
của các điểm nhóm, tình hình hoạt động của đạo Tin Lành diễn ra ổn định hơn.
Trên địa bàn huyện Đồng Văn có 2 điểm nhóm ở xã Lũng Phìn và Thài
Phìn Tủng, với 70 khẩu/15 hộ. Đối với xã Sà Phìn, đồng bào Hmông không bị
ảnh hưởng của đạo Tin Lành và các tôn giáo khác, các dòng họ người Hmông
nơi đây vẫn giữ gìn và thực hành các tín ngưỡng truyền thống. Quá trình
nghiên cứu tại cơ sở chúng tôi thấy rằng các dòng họ người Hmông ở xã Sà
Phìn rất ý thức trong việc giữ gìn tín ngưỡng truyền thống.

3.1.5. Vai trò của dòng họ trong quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên
Hương ước mỗi thôn đều quy định rõ ràng việc bảo vệ các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và các công trình công cộng như rừng, nguồn nước…
3.2. Phát huy các giá trị dòng họ
3.2.1. Trong xây dựng nông thôn mới
Chương trình xây dựng nông thôn mới là một chính sách mang tính tổng
thể, chiến lược, toàn diện và bền vững với 19 tiêu chí để tạo sự phát triển
mang tính đột phá làm thay đổi diện mạo vùng nông thôn. Đây là chính sách
đúng đắn, hợp lòng dân, được cộng đồng người Hmông ở xã Sà Phìn nhiệt tình
ủng hộ và tích cực tham gia. Tuy chương trình mới khởi động triển khai nhưng
bước đầu đã tạo nên những thay đổi nhất định trong nhận thức cũng như đời
sống của đồng bào Hmông nơi đây. Với những kết quả ban đầu mà xã Sà Phìn
đạt được có sự đóng góp to lớn của các dòng họ người Hmông.
3.2.2. Trong việc xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở
Hiện nay, Đảng bộ xã Sà Phìn có 16 chi bộ trực thuộc với 163 đảng
viên, trong đó có 143 đảng viên chính thức và 20 đảng viên dự bị; đảng viên
nữ là 39 đồng chí, nam 124 đồng chí, Ban chấp hành 15 đồng chí, Ban
Thường vụ 6 đồng chí. Thành phần dân tộc của đảng viên như sau: Hmông
117 đảng viên, Kinh 22 đảng viên, Tày 17 đảng viên, Dao 1 đảng viên, Giấy
2 đảng viên, Nùng 2 đảng viên. Trong 16 bí thư chi bộ có 13 người là dân tộc
Hmông, 2 người Kinh và 1 người Dao. Số đảng viên là các dân tộc Kinh,
Tày, Dao, Giấy, Nùng đều thuộc 5 chi bộ cơ quan.
Hệ thống cán bộ chủ chốt xã ở Đảng ủy, Hội đồng nhân nhân, Ủy ban
nhân dân và khối đoàn thể có 25 cán bộ. Thành phần dân tộc như sau:
Hmông 18 người, Kinh 3 người, Tày 2 người, Giấy 1 người, trong đó Bí thư
Đảng ủy xã, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, Chủ tịch Hội đồng nhân dân và
đại diện khối đoàn thể 100% là người Hmông.
Kết quả công tác xây dựng hệ thống chính trị trên đây có sự đóng góp
to lớn của từng dòng họ người Hmông, đặc biệt là các dòng họ lớn. Trong số
25 cán bộ chủ chốt, số cán bộ họ Sùng có 7 người, họ Vàng có 5 người, họ

Ly có 4 người, họ Vừ, họ Lầu và họ Tráng mỗi họ 1 người, 6 vị trí còn lại là
các dân tộc Kinh, Tày, Giấy. Như vậy, tỷ lệ cán bộ là người Hmông chiếm
76% trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
3.2.3. Trong việc thực hiện chính sách dân tộc
Thông qua các chương trình, chính sách dân tộc đã có 6/11 thôn có
đường bê tông, 2 hồ treo và hầu hết các thôn bản đều có công trình nước tập
trung, 100% số hộ gia đình có bể chứa nước. Cơ bản xóa bỏ được nhà tạm
(năm 2013 xóa được 59 nhà). Đất được khai hoang mở rộng diện tích, người
dân được phổ biến, chuyển giao khoa học kỹ thuật trong sản xuất, áp dụng các
mô hình giống cây trồng, vật nuôi mới cho năng suất, chất lượng cho các hộ
gia đình Hmông, từng bước nâng cao thu nhập. Sự thành công của các chương
trình, chính sách dân tộc trên địa bàn xã Sà Phìn có sự đóng to lớn của vai trò
dòng họ - những người có uy tín trong dòng họ người Hmông.
3.2.4. Công tác phát huy vai trò của người có uy tín
Trên địa bàn xã Sà Phìn hiện nay có 11 người có uy tín, trong đó họ
Sùng 4 người, họ Vàng 4 người, họ Vừ 2 người và họ Lầu /1 người. Để phát
huy vai trò của lực lượng người có uy tín, xã đã cơ cấu bố trí họ tham gia vào
các tổ chức đoàn thể thôn, các tổ hòa giải, tranh thủ ý kiến của người có uy
tín trong việc giải quyết và triển khai các công việc tại thôn bản và địa
phương. Đồng thời thực hiện đầy đủ chế độ, chính sách về cung cấp thông
tin, động viên hỗ trợ vật chất, tinh thần, khen thưởng, thăm quan học tập kinh
nghiệm…
Tiểu kết chương 3
Dòng họ người Hmông không chỉ phản ánh lịch sử tộc người mà còn
chứa đựng các giá trị văn hóa, xã hội. Các quy ước của luật tục tộc họ đã ràng
buộc, cố kết các thành viên thông qua các mối quan hệ dòng họ. Cùng với việc
làm rõ đặc điểm dòng họ, các mối quan hệ và vai trò của dòng họ, luận văn
phân tích làm rõ vai trò và các giá trị của dòng họ người Hmông ở Hà Giang
nói chung và người Hmông Trắng ở xã Sà Phìn nói riêng.
Ngày nay, mặc dù nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, nhưng luật tục

tộc họ Hmông không vì thế mà mất đi, ngược lại, Đảng và Nhà nước ta đã vận
dụng hài hòa luật tục Hmông bằng quy ước trên cơ sở quy định của pháp luật để
quản lý xã hội Hmông ngày càng hữu hiệu. Các quy định của tộc họ Hmông
gắn liền với nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của mỗi thành viên trong đời
sống, đồng bào Hmông tự nguyện tuân theo và thực hành nghiêm túc.
KẾT LUẬN
Thiết chế xã hội quan trọng nhất của người Hmông chính là dòng họ - đó
là mạng lưới quan hệ mở, người dòng họ sống ở đâu thì lề luật dòng họ vươn
tới đó. Như vậy, sự cố kết tộc người - giá trị cốt lõi xuyên suốt của xã hội
Hmông là dòng họ.
Luật tục tộc họ Hmông là sự tổng hòa giá trị văn hóa, lịch sử, tập quán tộc
người mà đồng bào vẫn nói rằng đó là đường lý, đường lẽ, đường làm, đường
ăn. Việc vận dụng luật tục và tổ chức dòng họ người Hmông vào quản lý xã hội
luôn được cấp ủy, chính quyền cơ sở ở Hà Giang, trong đó có xã Sà Phìn chú
trọng. Quá trình vận động đồng bào thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội… muốn thành
công trước hết phải thông qua tổ chức dòng họ mà trực tiếp là những người
đứng đầu dòng họ.
Bên cạnh những ưu điểm, dòng họ người Hmông cũng có những hạn
chế. Sự cố kết dòng họ đã gây nên tính cục bộ dòng họ, cục bộ địa phương
trong việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
Nhà nước. Các tập tục trong hôn nhân, cưới xin, tang ma cũng đặt ra nhiều
điều đáng suy nghĩ. Tâm lý dòng họ lớn, họ có đông người, có nhiều đàn ông -
tính chất của xã hội phụ quyền mạnh là nguyên nhân của bất bình đẳng giới và
vấn đề thực hiện chính sách Dân số - kế hoạch hóa gia đình ở vùng đồng bào
dân tộc Hmông.
Nghiên dòng họ người Hmông để thấy được những ưu điểm và hạn chế,
từ đó có định hướng đúng đắn cho công tác đối với vùng đồng bào dân tộc
Hmông là cần thiết. Để tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác vùng đồng bào dân
tộc Hmông, từ góc độ tiếp cận nghiên cứu Dân tộc học và với tư cách là cán

bộ làm công tác dân tộc của tỉnh Hà Giang, từ kết quả nghiên cứu về dòng họ

×