Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng tổng hợp kỹ thuật tài nguyên nước cho hệ thống cấp nước hồ Núi Cốc bằng phương pháp kế toán nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.45 KB, 109 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI
0O0





NGUYỄN THANH TUẤN



ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TỔNG HỢP
KỸ THUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC CHO HỆ THỐNG
CẤP NƯỚC HỒ NÚI CỐC BẰNG PHƯƠNG PHÁP
KẾ TOÁN NƯỚC





Chuyên ngành : Kinh tế tài nguyên thiên nhiên và môi trường
Mã số : 60. 31. 16


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Nguyễn Trọng Hà






Hà Nội - 2012

LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin chân thành bảy tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS.Nguyễn
Trọng Hà, người đã hướng dẫn, vạch ra những định hướng khoa học để tác giả hoàn
thành luận văn này.
Xin cảm ơn Anh Nguyễn Công Thịnh, Phó giám đốc Công ty TNHH một
thành viên khai thác thuỷ lợi Thái Nguyên, Ban quản lý Hồ Núi Cốc đã tận tình
giúp đỡ tác giả để hoàn thành luận văn.
Xin cảm ơn các thầy cô giáo trong Trường Đại học Thủy lợi, Phòng đào tạo
Đại học và sau Đại học về sự giúp đỡ trong thời gian tác giả học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến những người thân trong
gia đình đã động viên trong suốt quá trình viết luận văn.
Hà Nội, ngày 09 tháng 06 năm 2012
TÁC GIẢ



Nguyễn Thanh Tuấn


LỜI CAM ĐOAN

Tên tôi là Nguyễn Thanh Tuấn. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Những nội dung và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực

và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào.

Hà Nội, ngày 09 tháng 06 năm 2012
TÁC GIẢ



Nguyễn Thanh Tuấn
















MỤC LỤC

6TChương 1 TỔNG QUAN VỀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NƯỚC CỦA
HỆ THỐNG TƯỚI
6T 1
6T1.1. Đánh giá hiệu quả sử dụng nước trên thế giới6T 1

6T1.1.1. Phương pháp đánh giá truyền thống6T 1
6T1.1.2 Phương pháp đánh giá theo chỉ tiêu6T 3
6T1.1.3 Phương pháp kế toán nước6T 4
6T1.2 Đánh giá hiệu quả sử dụng nước ở Việt Nam6T 8
6TChương 2 GIỚI THIỆU PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN NƯỚC6T 11
6T2.1. Khái quát về phương pháp kế toán nước6T 11
6T2.2. Các định nghĩa và các thành phần trong kế toán nước6T 19
6T2.2.1. Các định nghĩa6T 19
6T2.2.2. Các thành phần kế toán nước6T 21
6T2.2.3 Những vấn đề nghiên cứu Kế toán nước (WA)6T 27
6TChương 3 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NƯỚC CỦA HỆ THỐNG HỒ NÚI
CỐC BẰNG PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN NƯỚC
6T 30
6T3.1. Tổng quan của vùng nghiên cứu6T 30
6T3.1.1 Điều kiện tự nhiên6T 30
6T3.1.2. Tình hình dân sinh - kinh tế - xã hội6T 49
6T3.2. Đánh giá hiệu quả quản lý hệ thống thủy nông hồ Núi Cốc6T 51
6T3.3. Các thành phần kế toán nước cho hệ thống - năm 20096T 57
6T3.3.1 Tình hình sử dụng đất trong khu vực Hồ Núi Cốc6T 57
6T3.3.2 Cơ cấu các loại cây trồng trong khu vực Hồ Núi Cốc6T 57
6T3.3.3. Xác định lượng nhu cầu nước cho các loại cây trồng6T 59
6T3.3.4 Tính toán nhu cầu dùng nước cho nuôi trồng thủy sản6T 62
6T3.3.5 Tính toán nhu cầu dùng nước cho chăn nuôi6T 63
6T3.3.6 Tính toán nhu cầu dùng nước cho Sinh Hoạt6T 64
6T3.3.7. Tính toán nhu cầu dùng nước cho Thủy điện6T 64
6T3.3.8. Tính toán nhu cầu dùng nước cho Du lịch6T 65
6T3.3.9. Tính toán nhu cầu dùng nước cho Công Nghiệp6T 65
6T3.3.10. Tính toán nhu cầu dùng nước cho các cam kết khác6T 66
6T3.3.11. Tính lượng bốc hơi mặt thoáng6T 66
6T3.3.12. Tính lượng nước bốc hơi trên diện tích đất phi nông nghiệp6T 68

6T3.3.13 Lượng nước thất thoát do thẩm lậu, ngấm dưới đất và qua các công trình6T69
6T3.3.14 Lượng nước cần để sử dụng cho xử lý chất thải công nghiệp và du lịch6T
69
6T3.3.15 Tính toán lượng nước để thay đổi độ ẩm của đất6T 70
6T3.3.16 Thành phần kế toán nước Hồ Núi Cốc6T 70
6T3.3.17. Xác định các chỉ số kế toán nước Hồ Núi Cốc6T 75
6T3.4. Nhận xét, đánh giá và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tổng
hợp tài nguyên nước bền vững cho hệ thống thủy nông hồ Núi Cốc
6T 80
6T3.4.1. Phân tích kết quả chỉ số kế toán nước hệ thống thủy nông hồ Núi Cốc6T . 80
6T3.4.2 Nhận xét, đánh giá về hiệu quả tưới hệ thống thuỷ nông Hồ Núi Cốc6T 86
6T3.4.3 Đề xuất các giải pháp và kiến nghị áp dụng phương pháp Kế toán nước
cho hệ thống thủy nông hồ Núi Cốc
6T 86
6TKẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ6T 94



DANH MỤC HÌNH VẼ


Hình 2.1 Sơ đồ các thành phần nước trong Kế toán nước
Hình 3.1 : Bản đồ vị trí của hệ thống hồ Núi Cốc
Hình 3.2: Nhà máy thủy điện hồ Núi Cốc
Hình 3.3. Biểu đồ kế toán nước hệ thống thủy nông Hồ Núi Cốc






















DANH MỤC BẢNG BIÊU

Bảng 2.1 Đánh giá mức độ quan trọng của các thông số đánh giá hiệu quả hệ thống
thủy nông ở một số nước trong khu vực
Bảng 2.2: Các hợp phần WA các mức độ cánh đồng, dịch vụ và lưu vực
Bảng 2.3: Chỉ số mang tính vật lý trong kế toán nước
Bảng 2.4: Chỉ số sử dụng nước hữu ích
Bảng 2.5: Chỉ số hiệu suất sử dụng nước
Bảng 3.1: Nhiệt độ trạm Tân Cương
Bảng 3.2: Độ ẩm trạm Thái nguyên
Bảng 3.3: Một số đặc trưng của gió
Bảng 3.4 : Lượng mưa thực đo của trạm Thái Nguyên
Bảng 3-5 : Bốc hơi hàng năm của trạm Thái Nguyên
Bảng 3.6: Cơ cấu sử dụng đất

Bảng 3.7: Hiện trạng sử dụng đất vùng dự án hồ Núi Cốc
Bảng 3.8: Cơ cấu các loại cây trồng chính hệ thống thuỷ nông Hồ Núi Cốc
Bảng 3.9: Hệ số cây trồng Kc
Bảng 3.10: Tính toán lượng bốc hơi tiềm năng trên lưu vực
Bảng 3.11. Nhu cầu nước của các loại cây trồng năm 2009
Bảng 3.12. Bảng nhu cầu nước cho nuôi trồng thủy sản
Bảng 3.13. Bảng nhu cầu nước cho chăn nuôi
Bảng 3.14. Bảng thông số kỹ thuật cơ bản của Hồ Núi Cốc
Bảng 3.15. Bảng tính toán diện tích mặt thoáng kênh
Bảng 3.16. Lượng nước bốc hơi mặt thoáng trên lưu vực
Bảng 3.17. lượng bốc hơi trên đất phi nông nghiệp
Bảng 3.18 Lượng nước cần để sử dụng cho xử lý xả thải CN&DL
Bảng 3.19. Thành phần kế toán nước Hồ Núi Cốc
Bảng 3-20. Các chỉ số tiêu hao của hệ thống thuỷ nông Hồ Núi Cốc
Bảng 3-21: Chỉ số sử dụng nước hữu ích hệ thống thuỷ nông Hồ Núi Cốc
Bảng 3.22: Tổng giá trị của sản xuất nông nghiệp SGVP năm 2009

Bảng 3.23: Chỉ số hiệu suất nước của hệ thống thủy nông Hồ Núi Cốc
Bảng 3.24: Chỉ số hiệu suất nước ở lưu vực Bhakra của Ấn Độ
Bảng 3.25: Chỉ số hiệu suất nước ở tiểu lưu vực Christian của Pakistan
Bảng 3.26: Chỉ số hiệu suất nước ở tiểu lưu vực Kirindi Oya của SriLanka
Bảng 3.27: Chỉ số hiệu suất nước lưu vực sông Nile của Ai Cập
Bảng 3.28: Chỉ số hiệu suất nước ở Muda của Malaysia
Bảng 3.29: Chỉ số hiệu suất nước ở Alasehir của Thổ Nhĩ Kỳ
Bảng 3.30: Chỉ số hiệu suất nước ở lưu vực sông Hương của Việt Nam



















DANH MỤC VIẾT TẮT




CWR: Nhu cầu nước cho cây trồng cạn
GIS: Hệ thống thông tin địa lý
KCN: Khu công nghiệp
KHKT: Khoa học kỹ thuật
NTTS: Nuôi trồng thủy sản
RVS: Cấp nước tương đối
SGVP: Chỉ số tổng giá trị sản xuất nông nghiệp đã được chuẩn hóa
WA: Water Accounting – Kế toán nước






MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài
Do sự gia tăng dân số và tài nguyên nước giới hạn, cần phải tăng cường quản
lý tài nguyên nước tốt hơn. Điều này đặc biệt đúng khi tất cả hoặc gần như tất cả tài
nguyên nước trong lưu vực được phân phối cho các sự sử dụng khác nhau. Các
chiến lược quản lý tài nguyên nước phù hợp để đạt được hiệu quả cao hơn mà vẫn
duy trì và cải thiện môi trường phải được thiết lập. Sự lãng phí và sử dụng không
hữu ích cần phải được xem xét cẩn thận để nhận ra những tiềm năng tiết kiệm nước.
Những phương pháp phân phối nước hiệu quả mà giảm thiểu và giúp giải quyết các
xung đột phải được xây dựng và thực hiện. Để hỗ trợ việc hoàn thành những nhiệm
vụ này, các phương pháp đã được cải tiến để giải thích cho sự sử dụng tài nguyên
nước và hiệu suất sử dụng.
Ngày nay, khi cuộc sống ngày một phát triển thì nước không chỉ đơn thuần
dành cho tưới trong nông nghiệp mà nước còn đóng một vai trò quan trọng trong
các hoạt động khác của con người như giao thông thuỷ, cải tạo môi trường, du lịch,
thể thao lúc này tài nguyên nước luôn là mối quan tâm hàng đầu của các hộ dùng
nước. Các hoạt động kinh tế phát triển kéo theo việc gia tăng nhu cầu sử dụng nước,
trong khi tài nguyên nước lại có hạn thì vấn đề cấp thiết là phải biết cách dùng nước
thật hiệu quả. Như vậy tất cả nguồn nước trong lưu vực đều phải được phân định
cho các sử dụng nước khác nhau. Điều quan trọng là cần phải có một kế hoạch dùng
nước thật hợp lý. Sự lãng phí và sử dụng không hữu ích phải được xem xét cẩn thận
để nhận biết được tiềm năng và cơ hội tiết kiệm nước. Chúng ta cần phát triển và
thực hiện hiệu quả việc phân phối nước và giải quyết được những mâu thuẫn trong
dùng nước.
Phương pháp kế toán nước là một công cụ hữu ích trong việc đánh giá và nhận
biết nước được sử dụng có hiệu quả thế nào cũng như các hệ thống tưới được quản
lý như thế nào. Bằng việc kể đến tất cả các hình thức sử dụng nước trong lưu vực,
phương pháp này cho thấy các mục tiêu được đặt ra có đúng hay không, các cách



mà chúng ta đang làm có hợp lý hay không. Đây là một công cụ hữu ích trong việc
thiết lập một quá trình quản lý tổng hợp tài nguyên nước trong lưu vực. Kế toán
nước là một phương pháp đang được áp dụng ngày càng rộng rãi ở nhiều nước trên
thế giới
Hiện trạng quản lý của hệ thống phản ánh đúng thực trạng của hầu hết các
công trình thuỷ lợi hiện nay là đánh giá hiệu quả tưới mới chỉ dựa theo quan điểm
cấp nước và khả năng hoàn thành mục tiêu là chính. Các thành phần sử dụng nước
ngoài nông nghiệp của hệ thống có nhu cầu ngày càng tăng, ngày càng tạo ra sức ép
lớn đối với hệ thống do tính hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường. Tuy nhiên, sự
can thiệp trở lại trong quản lý hệ thống của các thành phần dùng nước này chưa
được nghiên cứu và tìm hiểu một cách thích đáng.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu phát triển phương pháp kế toán nước và áp dụng trong đánh giá
hiệu quả của hệ thống tưới hồ Núi Cốc theo quan điểm sử dụng tổng hợp tài nguyên
nước. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nước của hệ thống.
3. Phạm vi nghiên cứu
Tài nguyên nước trong hệ thống tưới hồ Núi Cốc không chỉ sử dụng cho tưới
tiêu cây trồng mà còn sử dụng cho nhiều đối tượng dùng nước khác nhau như cấp
nước để bảo vệ và phát triển hệ sinh thái tự nhiên, cấp nước cho sinh hoạt, nuôi
trồng thủy sản, bổ sung cho nước ngầm, Vì vậy, sử dụng phương pháp kế toán
nước phân tích sự tiêu hao nước, sử dụng nước và hiệu suất của nước sẽ phản ảnh
đầy đủ và toàn diện hơn tính đa mục tiêu, hiệu quả cấp nước của hệ thống.
Phạm vi nghiên cứu được tiến hành trên toàn bộ diện tích thuộc hệ thống
tưới hồ Núi Cốc.
1.4. Các phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được tiến hành dựa trên các tiếp cận truyền thống
của Việt Nam và Thế giới về đánh giá hiệu quả của hệ thống tưới.
Phương pháp nghiên cứu dựa trên việc phát triển Phương pháp kế toán nước để

áp dụng và đánh giá hiệu quả của hệ thống tưới hồ Núi Cốc. Dựa trên nguyên lý cân


bằng nước, các phân tích về quá trình tiêu hao có lợi hay không có lợi, định trước
hay không định trược, các chỉ số đánh giá hiệu quả và hiệu suất của hệ thống để đề
suất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nước trong hệ thống.
1.5. Những kết quả đạt được
Nghiên cứu sẽ hệ thống và đánh giá tổng hợp các phương pháp áp dụng đánh
giá hiệu quả của hệ thống tưới đang áp dụng ở trong nước và thế giới.
Giới thiệu nguyên lý, các thành phần, cách xác định chúng của phương pháp
kế toán nước, ý nghĩa kinh tế, xã hội và môi trường của phương pháp
Áp dụng phương pháp kế toán nước trong việc quản lý nước của hệ thống hồ
Núi Cốc để đề suất các giải pháp nâng cao hiệu quả của sử dụng nước bền vững
trong hệ thống.

















1
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NƯỚC
CỦA HỆ THỐNG TƯỚI

1.1. Đánh giá hiệu quả sử dụng nước trên thế giới
1.1.1. Phương pháp đánh giá truyền thống
Để đánh giá hiệu quả sử dụng nước trong việc tưới, đến nay, có nhiều phương
pháp luận, kỹ thuật và công cụ cũng như phương thức. Các phương pháp này khá
hữu dụng trong đánh giá sự hoạt động của các hệ thống tưới. Tuy nhiên, vẫn còn
một số hạn chế khi áp dụng những phương pháp này.
Oad và Podmore (1989) đã định nghĩa một đại lượng, gọi là “cấp nước tương
đối”. Đại lượng này là tỷ số giữa lượng cấp (gồm lượng nước tưới cộng với lượng
mưa) và yêu cầu (gồm bốc thoát hơi nước cộng với lượng nước rò rỉ và thấm sâu)
để đánh giá xem mức độ nước tưới lúa được quản lý tốt như thế nào dưới các mức
cấp khác nhau.
Molden và Gates (1990) đã định nghĩa các mục tiêu hệ thống phân nước tưới,
gồm độ chính xác, hiệu quả, độ tin cậy và sự công bằng của việc phân nước và đã
phát triển các phương pháp đo sự hoạt động bằng các thuật ngữ cho phép phân tích
hiệu quả của các hệ thống phân nước tưới phục vụ các mục đích đánh giá, quy
hoạch và thiết kế. Các phương pháp này cung cấp một sự đánh giá định lượng
không chỉ sự hoạt động của toàn hệ thống mà còn đánh giá xem sự hoạt động này có
thể bị hạn chế bởi sự kém cỏi của công trình và/hoặc của quản lý.
Sakthivadivel và đồng nghiệp (1993) đã thảo luận sự hữu ích và việc sử dụng
khái niệm “cấp nước tương đối – RWS” để đánh giá sự hoạt động của các hệ thống
tưới với sự đề cập đặc biệt đến các hệ thống tưới lúa. Về mặt khái niệm, khái niệm
này được định nghĩa là tỷ số giữa nước cấp với yêu cầu nước liên kết với các cây
trồng thực tế được sinh trưởng với các biện pháp canh tác thực tế được dùng và cho
một khu tưới thực tế.



2
Mặc dù những thuận lợi của khái niệm là tiện lợi cho phân tích và làm sáng tỏ
các khoảng thời gian và vị trí khác nhau, nhưng các giá trị RWS đối với các khoảng
thời gian dài hơn lại biểu lộ một vài sự mâu thuẫn. Đó là bởi vì khái niệm này
không xem xét sự trữ trên ruộng lúa trong mùa sinh trưởng của cây trồng.
Để khắc phục hạn chế này, khái niệm “Cấp nước tương đối luỹ tích – CRWS”
được giới thiệu. CRWS được định nghĩa là giá trị luỹ tích của phần nước cấp so với
yêu cầu được tính toán trong các khoảng thời gian ngắn (ví dụ tuần hoặc ngày) bắt
đầu từ một thời gian cụ thể trong mùa. Thuận lợi chính của CRWS so với RWS là
nó có thể được dùng để miêu tả sinh động tỷ lệ nước cấp với yêu cầu nước đầy ý
nghĩa cho cả mùa, trong khi đó RWS chỉ hữu dụng cho việc đánh giá tỷ lệ này cho
một giai đoạn cụ thể trong mùa.
Mặc dù có những thuận lợi như đã nói ở trên, nhưng những khái niệm này chỉ
có thể được dùng để đánh giá sự hoạt động của hệ thống tưới trong đó chỉ xem xét
đến nông nghiệp được tưới. Trong những trường hợp mà có nhiều loại hình sử dụng
nước khác như nước sinh hoạt và cây mọc hoang thì những khái niệm này bị hạn chế.
Murray – Rust và Snellen (1993) đã định nghĩa sự hoạt động, mục đích, mục
tiêu và các chỉ số hoạt động của một hệ thống tưới và gợi ý một khung đánh giá sự
hoạt động và phán đoán dựa trên các định nghĩa này.
Bos và đồng nghiệp (1993) đã cung cấp một khung mà những nhà quản lý tưới
có thể sử dụng để đánh giá hoạt động tưới dựa trên khung đánh giá do Murray-Rust
và Snellen (1993) đã gợi ý.
Có thể thấy rằng khung đánh giá và các chỉ số được gợi ý ở trên nhằm vào các
mục tiêu dự kiến đề ra và mức độ đạt được chúng trong quá trình hoạt động thực tế
của hệ thống tưới. Các chỉ số được nhận ra trong các loại hình khác nhau để chỉ ra
các khía cạnh đạt được từ sự hoạt động của hệ thống tưới theo một cách thực chi tiết
hơn. Phương thức này hữu ích cho việc đánh giá sự hoạt động ở mức độ hệ thống.
Tuy nhiên, có một số khó khăn. Chẳng hạn, những mục tiêu nào sẽ được lựa chọn
trong các quá trình đánh giá sự hoạt động của hệ thống cũng như những sự thay đổi

trong các mục tiêu sẽ dẫn tới việc cần phải xem xét lại. Hơn nữa, sự tiêu thụ nước


3
thực tế trong các hệ thống tưới không được chỉ ra một cách rõ ràng. Một số loại
hình sử dụng nước khác (từ thực vật tự nhiên trong khu tưới, từ các khu vườn, từ
sinh hoạt, công nghiệp, v.v.) không được kể đến trong cách đánh giá này. Vì vậy
hiệu quả sử dụng nước trong hệ thống tưới vẫn chưa được đánh giá đầy đủ hơn.
Bos (1997) tóm tắt các chỉ số hoạt động được dùng trong Chương trình nghiên
cứu về sự hoạt động tưới, trong đó có khoảng 40 chỉ số hoạt động đa nguyên tắc
được định lượng và khảo sát, dựa trên tập chỉ số hoạt động được Bos và đồng
nghiệp (1993) miêu tả. Các chỉ số này rất phù hợp cho sử dụng trong đánh giá sự
hoạt động tưới tiêu.
Các nghiên cứu trước đây và các chỉ số hiệu quả sử dụng nước được định
nghĩa vẫn quan tâm đến hiệu quả sử dụng nước liên quan đến các yếu tố dòng chảy,
đất và năng suất/sản lượng cây trồng (trong đó chủ yếu đề cập đến khả năng đáp
ứng tiêu chuẩn và mục tiêu đặt ra). Các chỉ số này khá có ý nghĩa đối với những
người quản lý hệ thống tưới - những người quan tâm đến việc vận hành hệ thống
hàng ngày. Tuy nhiên, những nghiên cứu trước đây chưa chú trọng vào mối liên
quan giữa nước, đất và giá trị đầu ra. Thực chất mà nói, đối với một hệ thống tưới,
hiệu quả sử dụng nước của nó phải được đánh giá ở khía cạnh giá trị kinh tế cho
một đơn vị nước và vấn đề này đã được R.Sakthivadivel và đồng nghiệp (1999)
nghiên cứu.
1.1.2 Phương pháp đánh giá theo chỉ tiêu
Tháng 5/1994 hội thảo vùng Châu A-Thái Bình Dương về "đánh giá hiệu quả
tưới trong nền nông nghiệp bền vững" tại Bangkok (Thái Lan) các chuyên gia đã
nhất trí về các thông số đánh giá hiệu quả tưới. Tuy rằng mỗi nước có các mục tiêu
khác nhau tùy theo điều kiện của hệ thống tưới khác nhau
Các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả tưới gồm:
1. Hệ thống phân phối nước (bao gồm công trình trên kênh)

- Hiệu quả vận chuyển nước ở các cấp kênh
- Hiệu quả phân phối nước
- Bồi lắng và cỏ rác


4
2. Hiệu quả tưới mặt ruộng
- Hệ số quay vòng đất
- Hiệu ích tưới
- Hiệu quả sử dụng nước
3. Hiệu quả môi trường trong hệ thống tưới
- Mức độ nhiễm mặn, kiềm hóa
- Chất lượng nước mặt, nước ngầm
- Ngập úng
- Cỏ dại trong kênh có nước đọng
4. Hiệu quả xã hội
- Lao động
- Sở hữu ruộng đất
- Giới trong hoạt động tưới
- Sự thỏa mãn của nông dân
5. Hiệu quả đa mục tiêu
Thường được vận dụng tất cả các các chỉ tiêu đánh giá nêu trên.
6. Hiệu quả về kinh tế
- Mở rộng diện tích gieo trồng
- Tăng năng suất
- Tăng sản lượng
- Tăng thu nhập
Tuy nhiên việc xác định một số thông số chưa rõ ràng (giới, sở hữu ruộng đất
), chưa có 1 quy định cụ thể nào cho việc xác định các thông số này vì vậy đây là
1 hạn chế trong việc đánh giá hiệu quả của hệ thống tưới

1.1.3 Phương pháp kế toán nước
Dân số đang tăng nhanh và tài nguyên nước đang hạn chế, đó là một yêu cầu
tăng cường quản lý tài nguyên nước tốt hơn trên toàn thế giới. Điều này đặc biệt
đúng khi tất cả hoặc gần như tất cả nguồn nước trong một lưu vực đã được phân


5
phối cho các sử dụng khác nhau. Những chiến dịch có hiệu quả đang giành được
nhiều số lượng trong khi duy trì hoặc cải thiện môi trường sẽ được thành hệ thống.
Nước thải và những sử dụng không sinh lợi cần phải được nghiên cứu cẩn thận để
nhận dạng những cơ hội tiết kiệm tiềm tàng. Những quy trình phân phối hiệu quả là
giảm thiểu và giúp giải quyết những xung đột cần được phân tích và thực hiện. Trợ
giúp trong khi hoàn thành nhiệm vụ này, những quy trình được cải thiện, Kế toán
cho sử dụng tài nguyên nước và hiệu suất được đề ra. Do kiểu và quy mô sử dụng
rất khác nhau, truyền đạt thông tin về nước của các nhà chuyên môn và không có
chuyên môn là hoàn toàn khó khăn, những quy định về chính sách thường được
thực hiện với một sự hiểu biết không rõ ràng về tầm quan trọng cho tất cả những
người dùng nước. Cạnh tranh do sự cung cấp nước hạn chế đang gia tăng, nó biến
thành sự gia tăng nghiêm trọng đối với sự truyền đạt rõ ràng về nước sẽ được sử
dụng ra sao và nguồn nước được phân phối ra sao với những tác động của các kiểu
sử dụng nước như hiện nay.
Hiện nay, một số quốc gia trên thế giới các nhà khoa học đã thực hiện đánh
giá hiệu quả sử dụng nước bằng phương pháp Kế toán nước và cho ra nhưng kết
quả đánh giá khá sát thực và giải thích được thực trạng sử dụng nước tại vùng
nghiên cứu. Ở Ấn Độ, năm 1989 đã xuất bản 2 tác phẩm “ tiêu chuẩn đo đạc quản lý
vận hành hệ thống tưới” và “ giám sát đánh giá hệ thống tưới”. Tiếp sau đó các
chuyên gia Ấn độ và IWMI đã đánh giá hệ thống tưới Sirsa có sự trợ giúp của công
nghệ viễn thám và các mô hình thủy lực, đánh giá hệ thống tưới Bhakra với sự trợ
giúp của công nghệ viễn thám và hệ thống thông tin địa lý (GIS). Để nâng cao hiệu
quả tưới nói chung và cụ thể là đảm bảo độ tin cậy trong việc phân phối nước cho

người sử dụng, nhiều hệ thống tưới ở Ấn Độ, cả các hệ thống đang hoạt động và hệ
thống mới xây dựng đã tiến hành nâng cao quản lý nước bằng cách quan trắc và
điều hành các công trình và các thông số từ xa. ở hầu hết các hệ thống đều chọn 1
đoạn kênh đang hoạt động làm mẫu để nghiên cứu và phân tích lợi ích do cải thiện
hệ thống quản lý nước và sau đó mở rộng cho vùng rộng hơn ( mô hình điểm)


6
Tại Trung Quốc, trong các năm 1993-1994 Trung quốc đã tiến hành đánh
giá 195 hệ thống tưới lớn với 3 mức đánh giá :
+ Mức 1: Đánh giá kết cấu công trình hoặc kênh mương
+ Mức 2: Đánh giá toàn bộ hệ thống
+ Mức 3: Đánh giá cải tạo nâng cấp hệ thống
Kết quả đánh giá cho thấy: 70% công trình đầu mối bị xuống cấp hoặc trong
tình trạng nguy hiểm, 16% mất khả năng làm việc, 10% bị bỏ hoang, chỉ có 4% làm
việc bình thường. Đối với kênh mương: 60% chuyển nước tốt, 21% xuống cấp
nghiêm trọng, 9% mất khả năng làm việc, 10% bị bỏ hoang. Đối với các trạm bơm:
36% mất khả năng làm việc, 32% xuống cấp hoặc trong tình trạng nguy hiểm
Tại Malaysia, từ những năm 1990 đã bắt đầu đánh giá ở 8 vùng trọng điểm
lúa với nội dung chính là đánh giá hiệu quả sử dụng nước. Trong quá trình đánh giá
các chỉ tiêu đã được sử dụng như: tỷ lệ cấp nước tương đối, hiệu quả tưới, chỉ tiêu
sử dụng nước, hệ số quay vòng đất IWMI đã có nghiên cứu ở Kerian năm 1991 cho
thấy chỉ số hiệu quả dùng nước từ 0,035-0,271 kg/m
P
3
P, trung bình 0,12 kg/mP
3
P, trong
khi đó theo tài liệu của FAO với hệ thống tưới lúa cho việc sử dụng nước có hiệu
quả chỉ số này nằm trong khoảng từ 0,7-1,1 kg/m

P
3
P. Để giúp chọn các thông số giám
sát đánh giá ở một số nước đã đưa ra các thống số và mức độ quan trọng như bảng
2.1: Theo tài liệu của FAO-1994, Với x- quan trọng; xx - rất quan trọng.
Bảng 2.1 Đánh giá mức độ quan trọng của các thông số đánh giá hiệu quả hệ thống
thủy nông ở một số nước trong khu vực


7

TT Thông số
Thái
lan
Việt
Nam
Lào Phillipin
Trung
Quốc
Indonesia Malaysia Ấn độ Myanmar Nepal Pakistan
Hàn
Quốc
Banglades Bhutan Srilanca
1
Sự thích hợp của hệ thống
tưới
xx
x
xx
xx







xx

xx

xx

- Tính công bằng
xx
x
xx
xx

xx

xx

x
xx
x
xx
xx
xx

- Hiệu suất

x
xx
xx
x
xx
xx
xx
x
x
xx
xx
xx
xx
x
xx

- Mức độ tin cậy
xx
xx
xx
x
x
xx

xx
x
x
xx
x
xx

x
xx
2
hiệu quả các công trình
xx
xx
x
xx
xx
xx
x
xx


x

xx
xx
x
3
Hiệu quả sử dụng nước mặt
ruộng
xx
x
xx
xx







xx
xx
xx

x

- Hiệu ích tưới
xx
x
xx
x
xx
xx
x
xx

x
xx
x
xx
x
x

- Hệ số quay vòng đất
xx
x
xx
xx


xx

xx
x
xx
xx
x
xx
x
x

- Sản phẩm
xx
x
xx
x
x
xx

xx
x
x
x
xx
xx
x
x
4
Môi trường



x
x


x



xx

xx

xx

- úng
xx
xx
x
x
xx
x

xx
x
x
xx
x
x


xx

- Thoái hóa đất
xx

x
x
xx
x

xx


xx
xx
x
x
x

- Nước ngầm
x
x
x
x
x
x

x
x

xx
xx
xx
xx

xx

- Tiêu nước
x
xx
x
xx
xx
xx

x

x
xx
x
xx
x
xx

- Cỏ dại
xx

x
x
x

x

xx
x
x
x
xx
xx
x
xx

- Sức khỏe cộng đồng
xx
xx
x
x
xx
xx

x
x
x
x
xx
x
x
x
5
xã hội
xx


x
xx


x




xx




- Sở hữu đất
x
xx
x
xx
x
xx
x
x

xx
xx
xx
xx
x

x

- Sự di chuyển chỗ ở của
nông dân
xx
x
x
x

x

x

x
xx
x
x
x
xx

- Sự thỏa mãn của nông dân
xx
xx
x
xx
x
xx

x
x

xx
x
xx
x
xx
xx

- Hội dùng nước
x
xx
xx
xx
xx
xx

xx
x
xx
xx
xx
x
xx
x
6
Sử dụng tổng hợp nguồn
nước
x

x
xx








xx




- Thủy sản
x
xx
x
xx
x


x

xx
xx
xx
x
x


- Nước trong thành phố

xx
x
x
x
xx
xx

xx
x

x
x
x
x
x

- Vận tải
x
x
x
x



x


x
x
x


x
7
Kinh tế
xx

xx
xx

xx




xx
xx




- tự túc tài chính
xx
xx
xx
xx
xx
xx

xx
xx

xx
xx
xx
xx
xx
xx

- Tỷ số B/C
xx
xx
xx
xx
x
xx

x

x
xx
xx
xx
x
x


8
1.2 Đánh giá hiệu quả sử dụng nước ở Việt Nam
Ở nước ta, nghiên cứu về hiệu quả sử dụng nước còn ít. Bắt đầu từ năm 2005
là nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Thế Quảng và PGS.TS Đoàn Doãn Tuấn thực
hiện. Nghiên cứu đã đưa ra phương pháp phân tích, đánh giá hiệu quả hoạt động của

hệ thống thuỷ nông dựa trên 29 chỉ số đánh giá có liên quan đến năng suất cây
trồng, nước, đất và năng suất lao động, nguồn nước cấp, kinh tế, môi trường, cơ sở
hạ tầng và các cấp quản lý thuỷ nông chính thức và cộng đồng. Mặc dù phương
pháp này đã đề cập đến nhiều khía cạnh ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống thuỷ
nông nhưng nó vẫn chủ yếu là so sánh hiệu quả hoạt động thực tế với mục tiêu đặt
ra cho hệ thống và vì vậy nó chỉ có ý nghĩa nhiều đối với những người quản lý vận
hành hệ thống mà không có ý nghĩa nhiều đối với những nhà quản lý và lập chính
sách dài hạn và có tính chiến lược.
GS. Bùi Hiếu và Trần Quốc Lập (năm 2005) đã thực hiện một nghiên cứu về
“Công trình thuỷ lợi phục vụ phát triển các ngành kinh tế khác nông nghiệp của các
tỉnh Trung du miền núi phía Bắc Việt Nam”. Nghiên cứu tập trung vào đánh giá
hiệu quả các công trình thuỷ lợi phục vụ các ngành kinh tế như thuỷ sản, sinh hoạt,
công nghiệp, phát điện, giao thông và lâm nghiệp. Tuy nhiên, nghiên cứu mới dừng
lại ở mức điều tra khảo sát và đánh giá thực trạng của các hệ thống thuỷ lợi phục vụ
đa mục tiêu.
Năm 2006, các tác giả Dương Thị Kim Thư, Đoàn Doãn Tuấn, Hoàng Thái
Đại đã nghiên cứu đánh giá hiệu quả tưới công trình thủy lợi Nam Thạch Hãn bằng
các bộ chỉ tiêu phản ánh về năng suất, kinh tế và thể chế tổ chức quản lý hệ thống.
Năm 2011 các tác giả Thái Thị Khánh Chi, Hoàng Thái Đại đã nghiên cứu đánh giá
hiệu quả hệ thống thủy nông Bắc Đuống- Bắc Ninh bằng các chỉ tiêu về hiệu ích
tưới nước, chỉ diện tích tưới nước trạng thái công trình, chỉ tiêu về sản lượng và
hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp
Nhận xét chung về các nghiên cứu hiệu quả hệ thống thuỷ lợi nước ta hiện nay:
Các nghiên cứu đánh giá hiệu quả tưới trong nước đã đề cập được nhiều yếu
tố ảnh hưởng đến hiệu quả tưới của hệ thống thủy nông. Trên cơ sở các chỉ tiêu


9
đánh giá hiệu quả hệ thống tưới của các nước và các tổ chức nghiên cứu thủy lợi
trên thế giới, các tác giả đã cập nhật và bổ sung một số chỉ tiêu đánh giá phù hợp

với tình hình tại Việt Nam, đưa ra được một số chỉ tiêu định lượng cụ thể để xác
định hiệu quả của 1 hệ thống tưới và so sánh với hệ thống khác, qua đó giúp chúng
ta có một cách đánh giá tổng quát hơn về hiệu quả mà hệ thống thủy lợi đem lại
Tuy nhiên các nghiên cứu đều tập trung vào đánh giá hiệu quả hệ thống tưới
dựa trên các bộ chỉ tiêu nhằm xác định hiệu quả của hệ thống theo các mục tiêu thiết
kế ban đầu như diện tích tưới, hệ số sử dụng nước, số công trình, năng lực công
trình và tập trung vào một số loại đối tượng sử dụng nước xác định từ khi thiết kế hệ
thống (đối tượng sử dụng nước chủ yếu là phục vụ sản xuất nông nghiệp như lúa,
màu ).
Ở một số nghiên cứu có bổ sung thêm một số chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả
của hệ thống mà khi thiết kế chưa được xác định như chỉ tiêu về công bằng trong
phân phối nước tưới, sản lượng trên công lao động, tổng giá trị nông sản trên một
đơn vị diện tích được tưới vv tuy nhiên để xác định được các chỉ tiêu này lại cũng
phải dựa vào các chỉ tiêu đã được xác định từ khi thiết kế hệ thống, ví dụ chỉ tiêu về
sự công bằng trong phân phối nước được xác định bằng tỷ số giữa diện tích tưới đạt
được bình quân của 25% diện tích tưới đầu kênh trên diện tích tưới đạt được bình
quân của 25% diện tích tưới cuối kênh, trong đó diện tích tưới là mục tiêu đã xác
định từ khi thiết kế hệ thống. Ở một số chỉ tiêu khác cách xác định cũng dựa vào các
mục tiêu thiết kế ban đầu bằng cách tương tự như vậy. Do đó có thể nói việc bổ
sung thêm 1 số chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả tưới của hệ thống là những chỉ tiêu
gián tiếp, được xác định từ các mục tiêu thiết kế ban đầu của hệ thống.
Trong khi đó trong hệ thống thủy lợi có nhiều đối tượng dùng nước của hệ
thống mà không có trong mục tiêu thiết kế ban đầu (như nuôi trồng thủy sản, nước
sinh hoạt, công nghiệp, du lịch, môi trường, giao thông vv ) vì vậy các kết quả đánh
giá hiệu quả của hệ thống chưa phản ánh hết hiệu quả thực tế mà hệ thống đem lại.
Đồng thời với rất nhiều các bộ chỉ tiêu được đưa ra để đánh giá hiệu quả của
hệ thống sẽ dẫn đến việc đánh giá hiệu quả của 1 hệ thống rất phức tạp và để so


10

sánh hiệu quả giữa các hệ thống với nhau là rất khó khăn. Thậm chí ở một số chỉ
tiêu nếu nhận xét theo những tiêu chí đặt ra sẽ là lãng phí nước, ví dụ như chỉ tiêu
hệ số sử dụng nước tương đối, hay chỉ tiêu về hiệu suất cung cấp nước của nguồn,
các chỉ tiêu này được xác định là tỷ số giữa lượng nước cung cấp tại đầu mối trên
lượng nước cần tại mặt ruộng, nếu chỉ tiêu này đạt 1 là hiệu quả tưới tốt nhất, nó
cho thấy nguồn nước cung cấp đủ cho yêu cầu tưới nước mặt ruộng, chỉ tiêu này <1
thể hiện công trình đầu mối không cung cấp đủ nước, nếu >1 cho thấy có sự thừa
nước (lãng phí nước). Ở hệ thống Nam Thạch hãn chỉ tiêu này là 2, do đó nếu xét về
các tiêu chí đánh giá trên thì ở hệ thống này đã lãng phí tới 50% lượng nước lấy vào
đầu mối. Tuy nhiên vì chưa đề cập đến hết các đối tượng dùng nước trong hệ thống
nên việc đánh giá tình trạng thừa nước như trên là chưa đảm bảo chính xác do trong
50% lượng nước bị lãng phí đó tuy không cung cấp nhu cầu nước cho cây trồng
nhưng có thể mang lại những hiệu ích về môi trường, về nuôi trồng thủy sản, về
cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân trong vùng vv
Mặt khác các nghiên cứu chưa thể hiện sự liên hệ của hệ thống được đánh
giá với hệ thống xung quanh. Trong thực tế hệ thống thủy lợi thường có mối liên hệ
chặt chẽ với xung quanh như các cam kết về cung cấp nước cho hạ du để đảm bảo
dòng chảy môi trường, giao thông hoặc cho 1 nhu cầu nước thực tế nào đó. Vì vậy,
các kết quả đánh giá cũng chưa phản ánh hết được các nhu cầu nước cũng như các
tổn thất nước mà một hệ thống thủy lợi gặp phải
Để hạn chế được phần nào các tồn tại như trên trong đánh giá hiệu quả tưới
của hệ thống thủy lợi cần phải có những nghiên cứu thêm về phương pháp đánh giá
hiệu quả hệ thống thủy lợi. Phương pháp kế toán nước hiện nay được xem là một
trong những phương pháp phổ biến để đánh giá hiệu quả hệ thống tưới và đưa ra
được các khuyến nghị cho việc nâng cao hiệu quả của hệ thống thủy lợi. Phương
pháp này hiện nay được nhiều nước trên thế giới áp dụng và hạn chế được những
tồn tại của các phương pháp nêu trên.
Cho đến nay, nghiên cứu áp dụng về kế toán nước cho quản lý tài nguyên
nước ở Việt Nam hầu như chưa có.



11
Chương 2
GIỚI THIỆU PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN NƯỚC

2.1. Khái quát về phương pháp kế toán nước
Tưới là hoạt đông sử dụng nước lớn, những phân tích trong tưới nước có tác
động sâu sắc đến sử dụng nước của lưu vực và mức độ sẵn có của nước. Đúng vậy,
kế hoạch và việc thực hiện những can thiệp của tưới thường tiến hành ở nơi thiếu sự
xem xét đến những sử dụng khác. Một trong những lý do chính của nhìn nhận hạn
chế này là không thỏa đáng về mô tả về nước tưới sẽ sử dụng ra sao. Hiệu quả tưới
hầu như thường được sử dụng với thuật ngữ mô tả nước được sử dụng tốt ra sao.
Nhưng những gia tăng về hiệu quả tưới thường không đồng thời với những gia tăng
sản phẩm trên toàn lưu vực nhờ có nước.
Để giải quyết những vướng mắc đó, Molden.D (1997) đã phát triển một khung
khái niệm “Kế toán nước – Water Accounting” và cung cấp các thuật ngữ và
phương pháp chung để miêu tả tình trạng sử dụng nguồn nước và kết quả của các
hành động liên quan tới tài nguyên nước. Điều cực kỳ quan trọng trong khung này
là việc giới thiệu các định nghĩa kế toán nước, đặc biệt là các định nghĩa về các loại
tiêu hao nước và các chỉ số. Đây là cơ sở chủ yếu cho việc xây dựng và phát triển
phương pháp luận về kế toán nước - một phương pháp xem xét đến tất cả các đối
tượng dùng nước. Phương thức cơ bản mà phương pháp này dựa vào là phương
pháp cân bằng nước.
Lượng dòng chảy vào = Lượng dòng chảy ra + sự thay đổi lượng trữ.
Cân bằng nước xem xét các dòng chảy vào và các dòng chảy ra từ lưu vực,
tiểu lưu vực và các mức độ khác như hệ thống tưới hoặc cánh đồng tưới. Bước khởi
đầu trong việc cân bằng nước là nhận dạng vùng xem xét bằng việc chỉ ra các biên
không gian và thời gian của vùng xem xét.
Chẳng hạn, một vùng xem xét có thể là một hệ thống tưới được giới hạn bởi
các công trình đầu mối và diện tích thiết kế, và được giới hạn theo thời gian là mùa

sinh trưởng cụ thể. Sự bảo toàn khối lượng yêu cầu đối với phạm vi trong giai đoạn


12
xem xét, các dòng chảy vào bằng các dòng chảy ra cộng với bất kỳ sự thay đổi trữ
nào trong phạm vi đó.
Phương pháp này có thể được áp dụng để phân tích sử dụng nước ở 3 mức độ
khác nhau: Vĩ mô (lưu vực, tiểu lưu vực), vừa (khu tưới, khu cấp nước dân sinh),
hoặc vi mô (một khu ruộng, một hộ gia đình, ). Phương pháp này giúp chúng ta
hiểu biết hơn về các loại hình sử dụng nước hiện tại, giúp cải thiện kênh liên lạc
trong các nhà chuyên môn với nhà khoa học và kênh liên lạc với các nhà phi chuyên
môn và cải thiện cơ sở cho sự phân phối nước giữa các loại hình sử dụng. Một tác
dụng quan trọng nữa đó là thông qua kết quả kế toán nước, có thể nhận ra những cơ
hội cho tiết kiệm nước và gia tăng năng suất nước. Nghệ thuật của kế toán nước là
cần phải phân loại các thành phần cân bằng nước thành các loại sử dụng nước mà
phản ánh hậu quả sự can thiệp của con người vào chu kỳ thủy văn. Kế toán nước
tổng hợp các thông tin cân bằng nước với các loại sử dụng nước.
Tưới nước trong bối cảnh của một lưu vực có sự thống nhất của một số nhà
nghiên cứu, Bagley(1965) đã chú ý rằng sự không thích hợp trong thừa nhận những
đặc tính của đường ranh giới khi mô tả hiệu quả tưới có thể dẫn tới những kết luận
đúng và lưu ý rằng tổn thất nước dẫn đến hiệu quả thấp là không thất thoát đối với
hệ thống lớn. Trong lĩnh vực quyền sử dụng nước, ở đó thường có sự khác biệt rõ
ràng giữa tiêu dùng và sự chệch hướng từ một chu trình thủy văn (Wrigh 1964),
Bos(1979) đã đưa ra nhận biết về những hướng khác nhau của dòng chảy vào và ra
của một dự án tưới, nước được nhận biết rõ ràng khi trở lại trong lưu vực và là
nguồn sẵn có cho sử dụng cuối lưu vực. Willardson (1985) đã chú rằng hiệu quả của
1 cánh đồng tưới độc lập là ít quan trọng đến thủy văn của một lưu vực, ngoại trừ
khi xem xét chất lượng nước, và kết luận rằng “lưu vực rộng tác động làm tăng hiệu
quả tưới có thể là sự phủ định rất tốt về tính xác thực”. Bos và Wolters (1989) đã
chỉ ra rằng lượng nước thoát ra từ 1 dự án tưới do không dùng hết, nó không nhất

thiết là lượng tổn thất của lưu vực sông, vì hầu hết nó được sử dụng lại ở hạ lưu. Nó
đã chỉ ra rằng nước tái sử dụng cao thực sự làm tăng hiệu quả nói chung (Wolters và
Bos 1990). Van Vuren(1993) đã liệt kê những sử dụng khác nhau của hiệu quả tưới


13
và đã chỉ ra những tình trạng khi những hiệu quả thấp hơn là có thể chấp nhận được.
Palacios-velez (1994) đồng ý rằng “ nước có thất thoát không phải là lãng phí”.
Trong khi những công việc này được thừa nhận những điểm yếu khi sử dụng
những giới hạn hiệu quả và những tác động của phạm vi phân tích từ cánh đồng tới
khu tưới và tới lưu vực, một sự lựa chọn có nghĩa về mô tả sử dụng nguồn nước đã
không được mô tả. Công việc tại cùng thời gian, những thay thế được đề xuất để mô
tả sự sử dụng nước trong lưu vực bởi Keller (1995) với hiệu quả thực sự, và bởi
Willardson et al (1994) với việc sử dụng những thành phần. Gần đây, được làm bởi
Seckler (1992,93,96), Keller (1992), Keller etal (1996) và Perry (1996b) mô tả
nhiều về việc xem xét có thống nhất với mô tả tưới trong lưu vực. Tại thời gian này,
một khung chung có yêu cầu mô tả sử dụng nước trong lưu vực. Công việc này
được phân tích từ một quan điểm tưới nhưng chúng ta có thể hiểu rõ hơn những tác
động của những can thiệp tưới cho một phạm vi lưu vực. Nó được phân tích với
cách chung để mô tả bất kỳ sự sử dụng tài nguyên nước để làm tăng sự truyền thông
giữa những người đang hành nghề trong các lĩnh vực tài nguyên nước khác nhau.
Kế toán nước là một thủ tục của phân tích những sử dụng, tiêu hao, và hiệu
suất của nước, và trong bối cảnh lưu vực. Nó là một phương pháp luận được khuyến
khích do tiện dụng trong đánh giá những tác động của cánh đồng ở mức có những
sự can thiệp nông nghiệp trong bối cảnh của lưu vực, hiệu suất của nông nghiệp có
trước, và sự phân phối phối nước giữa nguồn sử dụng trong một lưu vực. Nó có
được sự phát triển như một trong những hoạt động của hệ thống là sáng kiến rộng
lớn trong quản lý nước (SWIM) của CCIAR. Mục tiêu của pha đầu tiên của SWIM,
dự án kế toán nước là phát triển những thủ tục kế toán nước theo tiêu chuẩn hóa.
Những mục đích cụ thể của dự án là:

Phát triển và chính thức hóa những tiêu chuẩn kế toán cho sự theo dõi tiêu
hao nước trong lưu vực.
Phát triển cùng với những trung tâm hàng hóa chính, một thủ tục kế toán cho
tình trạng quy định, và những thay đổi về đo lường bên trong, có thể xác định được
đầu ra trên đơn vị nước thực sự được tiêu hao với các cách trồng khác nhau.

×