Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Một số giải pháp phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.17 KB, 73 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
I. Quan niệm về TMĐT và lợi ích của nó
1. Khái niệm TMĐT
2. Đặc trưng của TMĐT
3. Lợi ích của TMĐT
II. Hình thức hoạt động TMĐT
1.Giao dịch TMĐT
2. Các loại giao dịch TMĐT
3. Hình thức hoạt động của TMĐT
III. Cơ sở đảm bảo hoạt động của TMĐT ở nước ta
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG TMĐT Ở VIỆT NAM
I. Môi trường phát triển TMĐT
1.Nhận thức và nguồn nhân lực cho TMĐT
1.1.Nhận thức xã hội đối với TMĐT
1.2.Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho TMĐT
2.Chính sách và pháp luật cho phát triển TMĐT
2.1. Sự cần thiết phải xây dựng khung pháp lý cho việc triển khai
TMĐT
2.2. Các yêu cầu pháp lý cho việc phát triển TMĐT
2.3.Một số chính sách liên quan tới TMĐT
2.4.Pháp luật
3.Hạ tầng công nghệ và dịch vụ hỗ trợ TMĐT
3.1.Công nghệ thông tin (CNTT)
3.2. Viễn thông và Internet
3.3. Thanh toàn điện tử
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
II. Một số loại hình kinh doanh dịch vụ trực tuyến


1.Tình hình phát triển chung
1.1. Mở ra một hướng đi mới cho các doang nghiệp (DN)
1.2. Phát triển sôi động nhưng thiếu cân đối
1.3. Định hướng phát triển
2. Các dịch vụ công
3. Quảng cáo trực tuyến
4. Giải trí trực tuyến
5. Đào tạo trực tuyến
6. Các loại hình kinh doanh giá trị giá trị gia tăng trực tuyến khác
6.1. Báo điện tử khẳng định vị thế
6.2. Dịch vụ gia tăng cho mạng điện thoại di động
III. Tình hình ứng dụng TMĐT trong DN
1.Tình hình ứng dụng TMĐT trong DN
2.Tình hình kinh doanh TMĐT
2.1. B2B
2.2. B2C và C2C
3.Ứng dụng TMĐT với DN xuất khẩu
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TMĐT Ở VIỆT
NAM (VN)
I.Phương hướng phát triển TMĐT ở VN
II.Một số giải pháp cho phát triển TMĐT ở VN
KẾT LUẬN
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Vào cuối thế kỷ XX, sự phát triển và hoàn thiện của kỹ thuật số đã được
áp dụng trước hết vào máy tính điện tử, tiếp đó sang các lĩnh vực khác
(điện thoại di động, thẻ tín dụng ...). Số hoá và mạng hoá đã là tiền đề cho
sự ra đời của nền kinh tế mới - nền kinh tế số (còn gọi là nền kinh tế tri
thức, nền kinh tế dựa trên tri thức,...). Việc mua bán hàng hóa và dịch vụ

thông qua các phương tiện điện tử, Internet và các mạng viễn thông khác
đã xuất hiện, đó chính là “Thương mại điện tử” (TMĐT). TMĐT là hoạt
động thương mại sử dụng phương thức truyền số liệu điện tử để thực hiện
hoặc xử lý quá trình kinh doanh. Trong nhiều thập kỷ nay các công ty đã
sử dụng rất nhiều công cụ truyền thông điện tử để chỉ dẫn các giao dịch
kinh doanh khác nhau. Ngân hàng dùng EFTs để chuyển tiền của khách
hàng trên khắp thế giới, các doanh nghiệp thì sử dụng EDI để đặt hàng và
gửi các hoá đơn, những người bán lẻ dùng quảng cáo trên TV để thu thập
các đơn đặt hàng bằng điện thoại... Một số người dùng cụm từ thương
mại Internet để định nghĩa cho TMĐT, nghĩa là dùng Internet hoặc Web
như là bộ phận trung gian trong việc chuyển giao số liệu của nó. Ngay từ
khi cụm từ này còn là quá mới thì đôi khi các doanh nghiệp và người dân
thường dùng nó theo nhiều nghĩa khác nhau. Thí dụ như IBM đã định
nghĩa TMĐT là quá trình thay đổi kinh doanh chủ yếu qua việc sử dụng
các công nghệ Internet. Vai trò quan trọng của TMĐT là phải hiểu được
cách làm cho các công ty sử dụng nó chấp nhận sự thay đổi.
Tuy mới xuất hiện và chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong thương mại song
TMĐT đã mang lại những lợi ích to lớn cho doanh nghiệp, chính phủ,
người tiêu dùng và xã hội. Thương mại điện tử đã vượt ra khỏi lĩnh vực
thương mại, ngày càng tác động đến các lĩnh vực khác và hứa hẹn mang
lại những thay đổi to lớn và sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội loài người.
Thương mại điện tử ngày càng được sự quan tâm của Chính phủ, Doanh
nghiệp và người tiêu dùng và đang trở thành một công cụ hữu hiệu trong
quá trình toàn cầu hoá và trong xây dựng nền kinh tế số. Thât khó mà
hình dung ra xã hội tương lai nếu không có TMĐT.
Bên cạnh đó, TMĐT cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết để khai
thác các lợi ích của TMĐT như vấn đề an toàn, an ninh cho các giao dịch
trên mạng, các vấn đề về bảo vệ bí mật, tính riêng tư, các vấn đề về
CNTT và truyền thông, cơ sở hạ tầng, các vấn đề về nhân lực, chuyển đổi
mô hình kinh doanh, các vấn đề về quản lý, thay đổi tập quán, thói quen

trong kinh doanh…
Phát triển TMĐT đang là vấn đề đặt ra cho nước ta khi tham gia Tổ chức
thương mại thế giới WTO. TMĐT vừa là cơ hội, vừa là công cụ hữu hiệu
bảo đảm sự bình đẳng và bứt phá của Doanh nghiệp VN trong tiến trình
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hội nhập kinh tế quốc tế. Thương mại điện đang là một cấu chuyện dài và
nóng tại Việt Nam, Việt Nam vừa gia nhập WTO, nền kinh tế toàn cầu,
việc buôn bán giao thương giữa các nước, các khu vực khác nhau trên thế
giới, và như vậy vị trí địa lý sẽ được xóa nhòa khi internet phát triển như
hiên nay. Bạn có thể chỉ với chiếc máy tính, cần điền vào một số thống
số, vài ngày sau bạn đã có một sản phẩm vừa ý, và điều đương nhiên các
công ty nước ngoài cũng nhảy vào Viêt Nam sẽ tạo nên cuộc cạnh tranh
hết sức gay gắt, làm gì để chúng ta cạnh tranh được, với thời đại CNTT
phát triển như hiện nay chỉ có các công ty nào đủ nhanh nhạy thì mới có
thể bắt kịp với xu hướng, và cái xu hướng ấy tất sẽ xảy ra, đó là thưong
mại điện tử trong tương lai không xa.
Trước những thực trạng như vậy, em lựa chọn đề tài nghiên cứu “THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TMĐT Ở VIỆT NAM” để viết
đề án môn học Kinh tế Thương mại. Em làm đề án này dưới sự giúp đỡ
của các thầy cô giáo trong khoa Thương mại, đặc biệt là của thầy Nguyễn
Thanh Phong. Bài viết của em còn nhiều thiếu sót mong các thầy cô
thông cảm và giúp đỡ em hoàn thiện đề án này. Em xin chân thành cảm
ơn !
Đề án này gồm ba chương:
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM


4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TMĐT
I. Quan niệm về TMĐT và lợi ích của nó
Hiện nay, TMĐT đang phát triển nhanh chóng trên toàn thế giới, đặc biệt
là ở những nước công nghiệp phát triển. Sự phát triển của TMĐT một
mặt là kết quả của xu hướng tất yếu quá trình “số hoá” toàn bộ hoạt động
của con người. Mặt khác , là kết quả của các nỗ lực chủ quan của từng
nước, đặc biệt là vấn đề tạo môi trường pháp lý, chủ trương chính sách
cho kinh tế “số hoá” nói chung và TMĐT nói riêng.
1. Khái niệm TMĐT
Trước khi tìm hiểu khái niệm TMĐT chúng ta cùng phải thống nhất về
thuật ngữ Thương mại. Thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng
(theo UNCITRAL) để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang
tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang
tính thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch thương
mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận
phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê
dài hạn; xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư; cấp
vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên
doanh các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh;
chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường không,
đường sắt hoặc đường bộ.
Ủy ban Châu Âu định nghĩa: TMĐT được hiểu là việc thực hiện hoạt
động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và
truyền dữ liệu điện tử dưới dạng text, âm thanh và hình ảnh. TMĐT gồm
nhiều hành vi gồm hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ qua phương
tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền
điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá thương mại,
hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị trực tiếp

tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng. TMĐT được thực hiện
đối với cả thương mại hàng hóa (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết bị y
tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp
thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động dịch vụ truyền thống
(như chăm sóc sức khỏe, giáo dục) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu
thị ảo). Tổ chức Thương mại Thế giới định nghĩa: TMĐT bao gồm việc
sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và
thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình
các sản phẩm được giao nhận cũng như những thông tin số hóa thông qua
mạng Internet.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy, có thể thấy rằng phạm vi của TMĐT rất rộng, bao quát hầu hết
các lĩnh vực hoạt động kinh tế, việc mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là
một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của TMĐT. Trong xã hội hiện đại,
TMĐT đang trở thành một cuộc cách mạng làm thay đổi cách thức mua
sắm của con người. Nói một cách vắn tắt, chính các hoạt động thương
mại thông qua mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ TMĐT
Theo ước tính, TMĐT có trên 1300 lĩnh vực ứng dụng, trong đó buôn bán
hàng hoá chỉ là một lĩnh vực ứng dụng.
2. Đặc trưng của TMĐT: So với các hoạt động thương mại truyền thống,
TMĐT có các đặc trưng sau:
_Các bên tiến hành giao dịch trong TMĐT không tiếp xúc trực tiếp với
nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước. Trong thương mại truyền
thống, các bên thường gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành giao dịch. Các
giao dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc vật lý như chuyển tiền,
séc, hóa đơn, vận đơn, gửi báo cáo. Các phương tiện viễn thông như: fax,
telex,.. chỉ được dùng để trao đổi số liệu kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử
dụng các phương tiện điện tử trong thương mại truyền thống chỉ để
truyền tải thông tin một cách trực tiếp giữa hai đối tác của cùng một giao

dịch. TMĐT cho phép mọi người cùng tham gia từ các vùng xa xôi hẻo
lánh đến các khu vực đô thị lớn, tạo điều kiện cho tất cả mọi người ở
khắp mọi nơi đều có cơ hội tham gia vào thị trường giao dịch toàn cầu và
không đòi hỏi nhất thiết phải có mối quan hệ với nhau.
_Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại của
khái niệm biên giới quốc gia, còn TMĐT được thực hiện trong một thị
trường không có biên giới (thị trường thống nhất toàn cầu). TMĐT trực
tiếp tác động tới môi trường cạnh tranh toàn cầu. TMĐT càng phát triển,
thì máy tính cá nhân trở thành cửa sổ cho doanh nghiệp hướng ra thị
trường trên khắp thế giới. Với TMĐT, một công ty dù mới thành lập đã
có thể kinh doanh ở Nhật Bản, Đức hay Mỹ…, mà không hề phải bước ra
khỏi nhà, một công việc trước kia phải mất nhiều năm mới thực hiện
được.
_Trong hoạt động giao dịch TMĐT đều có sự tham gia của ít nhất 3 chủ
thể, trong đó có một bên không thể thiếu được là người cung cấp dịch vụ
mạng, các cơ quan chứng thực. Trong TMĐT, ngoài các chủ thể tham gia
quan hệ giao dịch giống như giao dịch thương mại truyền thống đã xuất
hiện một bên thứ 3, đó là nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng
thực… là những người tạo môi trường cho các giao dịch TMĐT. Nhà
cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực có nhiệm vụ chuyển đi,
lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch TMĐT, đồng thời
họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch TMĐT.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
_Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương
tiện để trao đổi dữ liệu, còn đối với TMĐT thì mạng lưới thông tin chính
là thị trường. Thông qua TMĐT, nhiều loại hình kinh doanh mới được
hình thành. Ví dụ: các dịch vụ gia tăng giá trị trên mạng máy tính hình
thành nên các nhà trung gian ảo làm các dịch vụ môi giới cho giới kinh
doanh và tiêu dùng; các siêu thị ảo được hình thành để cung cấp hàng hóa

và dịch vụ trên mạng máy tính.
3. Lợi ích của TMĐT
Lợi ích của TMĐT rất to lớn, bao quát và tiềm tàng thể hiện ở một số mặt
chính sau :
* Lợi ích đối với các tổ chức :
- Mở rộng thị trường: Với chi phí đầu tư nhỏ hơn nhiều so với thương
mại truyền thống, các công ty có thể mở rộng thị trường, tìm kiếm, tiếp
cận người cung cấp, khách hàng và đối tác trên khắp thế giới. Việc mở
rộng mạng lưới nhà cung cấp, khách hàng cũng cho phép các tổ chức có
thể mua với giá thấp hơn và bán được nhiêu sản phẩm hơn.
- Giảm chi phí sản xuất: Giảm chi phí giấy tờ, giảm chi phí chia xẻ thông
tin, chi phí in ấn, gửi văn bản truyền thống.
- Cải thiện hệ thống phân phối: Giảm lượng hàng lưu kho và độ trễ trong
phân phối hàng. Hệ thống cửa hàng giới thiệu sản phẩm được thay thế
hoặc hỗ trợ bởi các showroom trên mạng, ví dụ ngành sản xuất ô tô (Ví
dụ như Ford Motor) tiết kiệm được chi phí hàng tỷ USD từ giảm chi phí
lưu kho.
- Vượt giới hạn về thời gian: Việc tự động hóa các giao dịch thông qua
Web và Internet giúp hoạt động kinh doanh được thực hiện 24/7/365 mà
không mất thêm nhiều chi phí biến đổi.
- Sản xuất hàng theo yêu cầu: Còn được biết đến dưới tên gọi “Chiến
lược kéo”, lôi kéo khách hàng đến với doanh nghiệp bằng khả năng đáp
ứng mọi nhu cầu của khách hàng. Một ví dụ thành công điển hình là Dell
Computer Corp.
- Mô hình kinh doanh mới: Các mô hình kinh doanh mới với những lợi
thế và giá trị mới cho khách hàng. Mô hình của Amazon.com, mua hàng
theo nhóm hay đấu giá nông sản qua mạng đến các sàn giao dịch B2B là
điển hình của những thành công này.
- Tăng tốc độ tung sản phẩm ra thị trường: Với lợi thế về thông tin và khả
năng phối hợp giữa các doanh nghiệp làm tăng hiệu quả sản xuất và giảm

thời gian tung sản phẩm ra thị trường.
- Giảm chi phí thông tin liên lạc:
- Giảm chi phí mua sắm: Thông qua giảm các chi phí quản lý hành chính
(80%); giảm giá mua hàng (5-15%)
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Củng cố quan hệ khách hàng: Thông qua việc giao tiếp thuận tiện qua
mạng, quan hệ với trung gian và khách hàng được củng cố dễ dàng hơn.
Đồng thời việc cá biệt hóa sản phẩm và dịch vụ cũng góp phần thắt chặt
quan hệ với khách hàng và củng cố lòng trung thành.
- Thông tin cập nhật: Mọi thông tin trên web như sản phẩm, dịch vụ, giá
cả... đều có thể được cập nhật nhanh chóng và kịp thời.
- Chi phí đăng ký kinh doanh: Một số nước và khu vực khuyến khích
bằng cách giảm hoặc không thu phí đăng ký kinh doanh qua mạng. Thực
tế, việc thu nếu triển khai cũng gặp rất nhiều khó khăn do đặc thù của
Internet.
- Các lợi ích khác: Nâng cao uy tín, hình ảnh doanh nghiệp; cải thiện chất
lượng dịch vụ khách hàng; đối tác kinh doanh mới; đơn giản hóa và
chuẩn hóa các quy trình giao dịch; tăng năng suất, giảm chi phí giấy tờ;
tăng khả năng tiếp cận thông tin và giảm chi phí vận chuyển; tăng sự linh
hoạt trong giao dịch và hoạt động kinh doanh.
* Lợi ích đối với người tiêu dùng
- Vượt giới hạn về không gian và thời gian: Thương mại điện tử cho phép
khách hàng mua sắm mọi nơi, mọi lúc đối với các cửa hàng trên khắp thế
giới
- Nhiều lựa chọn về sản phẩm và dịch vụ: Thương mại điện tử cho phép
người mua có nhiều lựa chọn hơn vì tiếp cận được nhiều nhà cung cấp
hơn
- Giá thấp hơn: Do thông tin thuận tiện, dễ dàng và phong phú hơn nên
khách hàng có thể so sánh giá cả giữa các nhà cung cấp thuận tiện hơn và

từ đó tìm được mức giá phù hợp nhất
- Giao hàng nhanh hơn với các hàng hóa số hóa được: Đối với các sản
phẩm số hóa được như phim, nhạc, sách, phần mềm.... việc giao hàng
được thực hiện dễ dàng thông qua Internet
- Thông tin phong phú, thuận tiện và chất lượng cao hơn: Khách hàng có
thể dễ dàng tìm được thông tin nhanh chóng và dễ dàng thông qua các
công cụ tìm kiếm (search engines); đồng thời các thông tin đa phương
tiện (âm thanh, hình ảnh)
- Đấu giá: Mô hình đấu giá trực tuyến ra đời cho phép mọi người đều có
thể tham gia mua và bán trên các sàn đấu giá và đồng thời có thể tìm, sưu
tầm những món hàng mình quan tâm tại mọi nơi trên thế giới.
- Cộng đồng thương mại điện tử: Môi trường kinh doanh TMĐT cho
phép mọi người tham gia có thể phối hợp, chia xẻ thông tin và kinh
nghiệm hiệu quả và nhanh chóng.
- “Đáp ứng mọi nhu cầu”: Khả năng tự động hóa cho phép chấp nhận các
đơn hàng khác nhau từ mọi khách hàng
- Thuế: Trong giai đoạn đầu của TMĐT, nhiều nước khuyến khích bằng
cách miến thuế đối với các giao dịch trên mạng
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
* Lợi ích đối với xã hội
- Hoạt động trực tuyến: Thương mại điện tử tạo ra môi trường để làm
việc, mua sắm, giao dịch... từ xa nên giảm việc đi lại, ô nhiễm, tai nạn
- Nâng cao mức sống: Nhiều hàng hóa, nhiều nhà cung cấp tạo áp lực
giảm giá do đó khả năng mua sắm của khách hàng cao hơn, nâng cao
mức sống của mọi người
- Lợi ích cho các nước nghèo: Những nước nghèo có thể tiếp cận với các
sản phẩm, dịch vụ từ các nước phát triển hơn thông qua Internet và
TMĐT. Đồng thời cũng có thể học tập được kinh nghiệm, kỹ năng... được
đào tạo qua mạng.

- Dịch vụ công được cung cấp thuận tiện hơn: Các dịch vụ công cộng như
y tế, giáo dục, các dịch vụ công của chính phủ... được thực hiện qua mạng
với chi phí thấp hơn, thuận tiện hơn. Cấp các loại giấy phép qua mạng, tư
vấn y tế.... là các ví dụ thành công điển hình
II. Hình thức hoạt động TMĐT
1.Giao dịch TMĐT
Giao dịch TMĐT (electronic commerce transaction) với chữ “thương
mại” được hiểu với đầy đủ các nội dung đã ghi trong đạo luật mẫu về
TMĐT của Liên hợp quốc, gồm 4 kiểu giao dịch :
_Người với người : qua điện thoại, máy Fax và thư điện tử(electronic
mail) ;
_Người với máy tính điện tử :trực tiếp hoặc qua các mẫu biểu điện tử
(electronic form) và qua “võng thị toàn cầu” (World Wide Web);
_Máy tính điện tử với máy tính điện tử : qua trao đổi dữ liệu điện tử (EDI
: electronic Data interchange), thẻ thông minh(smart card), các dữ liệu mã
hoá bằng vạch (barcoded data, cũng gọi là dữ liệu mã vạch );
_Máy tính điện tử với người : qua thư tín do máy tự động sản ra, máy Fax
và thư điện tử.
2. Các loại giao dịch TMĐT
Có ba chủ thể tham gia giao dịch TMĐT, đó là Doanh nghiệp (B) giữ vai
trò động lực phát triển TMĐT, Người tiêu dùng (C) giữ vai trò quyết định
thành công của TMĐT và Chính phủ (G) giữ vai trò định hướng, điều tiết
và quản lý. Các giao dịch TMĐT có thể được thực hiện giữa các bên khác
nhau như sau:
_Giữa các doanh nghiệp (loại hình B2B): Trong các giao dịch B2B, cả
người bán và người mua đều là các tổ chức kinh doanh, có thể hiểu đơn
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giản là TMĐT giữa các doanh nghiệp với nhau. Mô hình này hỗ trợ rất
nhiều cho các doanh nghiệp trong nước trong việc kinh doanh với các

doanh nghiệp nước ngoài dựa trên các lợi ích mà nó đem lại. Mô hình này
chiếm 80% doanh số TMĐT toàn cầu. Một trong những mô hình điển
hình đã thành công trong hoạt động theo mô hình B2B là Alibaba.com
của Trung Quốc.
_Giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng (loại hình B2C): Trong B2C, là
thương mại giữa các doanh nghiệp và người tiêu dùng liên quan đến việc
khách hàng thu thập thông tin, mua hàng hóa hữu hình (như sách, các sản
phẩm tiêu dùng, …) hoặc sản phẩm thông tin hoặc hàng hóa về nguyên
liệu điện tử hoặc nội dung số hóa như phần mềm, sách điện tử và các
thông tin, nhận sách qua mạng điện tử. Một trong những nhà kinh doanh
thành công trên thế giới theo mô hình này là Amazon.com với việc kinh
doanh bán lẻ qua mạng các sản phẩm như sách, đồ chơi, đĩa nhạc, sản
phẩm điện tử, phần mềm và các sản phẩm gia đình.
_Giữa những người tiêu dùng (loại hình C2C): Trong C2C, là mối quan
hệ thương mại giữa các cá nhân và người tiêu dùng với nhau. Đây cũng
được coi là mô hình kinh doanh có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng và
ngày càng phổ biến. Hình thái dễ nhận ra nhất của mô hình này là các
website bán đấu giá trực tuyến, rao vặt trên mạng. Một trong những thành
công vang dội của mô hình này là trang web đấu giá eBay.
_Giữa Chính phủ và những đối tượng khác (loại hình G2C): Trong
trường hợp này, Chính phủ cung cấp các dịch vụ cho các công dân thông
qua các giao dịch TMĐT.
_Các cấp chính quyền có thể làm việc với nhau hoặc với các doanh
nghiệp (loại hình G2B): Đây là loại hình TMĐT giữa doanh nghiệp và
Chính phủ, được hiểu chung là thương mại giữa các doanh nghiệp khối
hành chính công. Nó bao hàm việc sử dụng Internet cho mua bán công,
thủ tục cấp phép và các hoạt động có liên quan tới chính phủ. Hình thái
này của thương mại có hai đặc tính: thứ nhất, khu vực hành chính công có
vai trò dẫn đầu trong việc thiết lập TMĐT; thứ hai, người ta cho rằng khu
vực này có nhu cầu lớn nhất trong việc biến các hệ thống mua bán trở nên

hiệu quả hơn.
2.Hình thức hoạt động của TMĐT
a. Thư điện tử (email) : Thư điện tử, hay email (từ chữ electronic mail) là
một hệ thống chuyển nhận thư từ qua các mạng máy tính. Email là một
phương tiện thông tin rất nhanh. Một mẫu thông tin (thư từ) có thể được
gửi đi ở dạng mã hoá hay dạng thông thường và được chuyển qua các
mạng máy tính, đặc biệt là mạng Internet. Nó có thể chuyển mẫu thông
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tin từ một máy nguồn tới một hay rất nhiều máy nhận trong cùng lúc.
Ngày nay, email chẳng những có thể truyền gửi được chữ mà còn truyền
được các dạng thông tin khác như hình ảnh, âm thanh, phim,…
b. Thanh toán điện tử (electronic payment) là việc thanh toán tiền thông
qua thông điệp điện tử (electronic message) thay cho việc giao tay tiền
mặt. Ngày nay, với sự phát triển của TMĐT, thanh toán điện tử đã mở
rộng bao gồm : trao đổi dữ liệu điện tử tài chính (Financial Electronic
Data Interchange - FEDI), tiền mặt Internet (Internet Cash), túi tiền điện
tử (electronic purse), thẻ thông minh (smart card), giao dịch ngân hàng số
hoá (digital banking)
* Hiện nay hình thức thanh toán điện tử được áp dụng trong rất nhiều lĩnh
vực như:
_Bán lẻ điện tử: Bán lẻ điện tử là bán trực tiếp các sản phẩm thông qua
các cửa hàng điện tử hay các khu siêu thị điện tử, thường được thiết kế
xung quanh một khuôn mẫu ca-ta-lô cửa hàng điện tử. Có thể thấy hàng
trăm nghìn các cửa hàng điện tử trên Internet, mỗi quầy đều có tên riêng
và cổng (portal) TMĐT của mình. Giống như hình thức mua hàng bằng
cách đặt hàng qua điện thoại, TMĐT cho phép mua hàng từ nhà và thực
hiện công việc này 24h mỗi ngày và 7 ngày mỗi tuần. Bán lẻ điện tử cung
cấp một lượng phong phú các sản phẩm và dịch vụ, kể cả các mặt hàng
độc đáo nhất, thường là với mức giá thấp hơn. Hơn nữa chỉ trong vài

giây, người mua hàng có thể nhận được các thông tin chi tiết về sản phẩm
và có thể dễ dàng tìm kiếm và so sánh các sản phẩm và giá của các đối
thủ cạnh tranh
_Ngân hàng trực tuyến: Các giao dịch ngân hàng được thực hiện trực
tuyến. Hệ thống thanh toán của một ngân hàng lớn gồm nhiều hệ thống
nhỏ:
+Thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng qua điện thoại, tại các điểm
bán lẻ, các ki-ốt, giao dịch cá nhân tại các gia đình, giao dịch tại trụ sở
khách hàng, giao dịch qua Internet, chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng,
thông tin hỏi đáp,…
+Thanh toán giữa ngân hàng với các đại lý thanh toán (nhà hàng, siêu thị,
…).
. Thanh toán nội bộ một ngân hàng
. Thanh toán liên ngân hàng
c. Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic data interchange –EDI) : là việc
trao đổi các dữ liệu dưới dạng “Có cấu trúc” (structure form) từ máy tính
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
điện tử này sang máy tính điện tử khác, giữa các công ty hay tổ chức đã
thoả thuận buôn bán với nhau theo cách này một cách tự động mà không
cần có sự can thiệp của con người. EDI sử dụng rộng rãi trên thế giới, chủ
yếu phục vụ cho mua và phân phối hàng (gửi đơn hàng, các xác nhận, các
tài liệu gửi hàng, hoá đơn...), người ta cũng dùng cho các mục đích khác,
như thanh toán tiền khám bệnh, trao đổi các kết quả xét nghiệm... EDI
chủ yếu được thực hiện qua mạng ngoại bộ (Extranet).
d. Giao gửi số hoá các dung liệu (digital delivery of content) : dung liệu
(content) là phần của hàng hoá với tính cách là nội dung của nó, nói cách
khác, dung liệu chính là nội dung của hàng hoá chứ không phải kà bản
thân nội dung. Ví dụ : tin tức, sách báo, các chương trình phần mềm, các
yw kiến tư vấn, vé máy bay, hợp đồng bảo hiểm...Ngày nay dung liệu

được số hoá và truyền gửi qua mạng, gọi là “giao gửi số hoá” (digital
delivery).
e.Bán lẻ hàng hoá hữu hình (Retail of tangible goods) : Hiện nay danh
mục các hàng hoá bán lẻ qua mạng đã mở rộng hơn rất nhiều, từ hoa tới
quần áo, ô tô và xuất hiện một hoạt động gọi là mua hàng điện tử hay
mua hàng trên mạng. Để thực hiện việc mua và bán hàng, khách hàng chỉ
việc tìm đến trang web của cửa hàng, xem hàng hóa được trưng bày
thông qua hình ảnh hiển thị trên màn hình, xác nhận việc mua và trả tiền
bằng thanh toán điện tử. Người mua chọn hàng rồi đặt vào giỏ mua hàng
giống như đi siêu thị, nhưng ở đây là các thao tác được thực hiện trên
trang web. Sau khi đã chọn đúng mặt hàng, số lượng cần, màu sắc ưng ý,
người mua thực hiện thao tác thanh toán. Tổng giá trị hàng hóa sẽ hiện
lên trang web với đầy đủ chi tiết đơn hàng của khách hàng. Vì là hàng
hóa hữu hình nên tất yếu sau đó cửa hàng phải dùng tới các phương tiện
gửi hàng theo kiểu truyền thống để đưa hàng đến tay người tiêu dùng.
Khách hàng có thể lựa chọn phương thức thanh toán trả cho người giao
hàng hoặc trả qua thẻ tín dụng.
Xu hướng trong những năm tới, TMĐT chủ yếu được ứng dụng trong
lĩnh vực tài chính ngân hàng,tiếp đến là du lịch, kinh doanh bán lẻ và
quảng cáo, trong lĩnh vực buôn bán hàng hoá hữu hình khác còn rất hạn
chế.
f. Chính phủ điện tử
Khi TMĐT phát triển chín muồi và các công cụ và ứng dụng của nó được
hoàn thiện hơn thì có sự chú ý nhiều hơn đến việc sử dụng nó để áp dụng
vào hoạt động của các tổ chức công cộng và các cấp chính quyền. Chính
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phủ điện tử là việc sử dụng công nghệ Internet nói chung và đặc biệt là
TMĐT để đưa thông tin và các dịch vụ công đến cho người dân, các đối
tác kinh doanh và các nhà cung cấp, và những người làm việc trong

ngành công cộng. Nó khá hiệu quả để tiến hành các giao dịch kinh doanh
với các công dân và các doanh nghiệp và trong nội bộ các cơ quan chính
phủ.
Chính phủ điện tử cung cấp nhiều lợi ích: Nâng cao hiệu quả và tính hữu
hiệu của các chức năng của chính phủ, bảo gồm cả việc cung cấp các dịch
vụ công cộng. Nó cho phép các cấp chính quyền trở nên minh bạch hơn
đối với công chúng và các doanh nghiệp bằng việc cung cấp truy cập đến
nhiều thông tin của Chính phủ hơn. Chính phủ điện tử tạo nhiều cơ hội
hơn để các công dân phản hồi đến các cơ quan của Chính phủ và tham gia
vào các tổ chức và quá trình dân chủ. Các ứng dụng của chính phủ điện tử
có thể chia thành ba loại chính: Chính phủ và công dân (G2C), Chính phủ
và các doanh nghiệp (G2B), và Nội bộ Chính phủ (G2G).
III. Cơ sở đảm bảo hoạt động TMĐT ở nước ta
Theo chuyên gia trung tâm thương mại quốc tế (ITC) thì không nên nhìn
nhận TMĐT đơn thuần chỉ là việc dùng phương tiện điện tử để thực hiện
các hành vi thương mại truyền thống mà nên hiểu rằng một khi chấp nhận
TMĐT thì toàn bộ hình thái hoạt động của một nước sẽ thay đổi, cả hệ
thống giáo dục, tâp quán làm việc và các quan hệ quốc tế...Những yêu
cầu của TMĐT rất ngiêm ngặt, bao gồm tổng thể nhiều vấn đề phức tạp
đan xen nhau trong mối quan hệ hữu cơ.
_Trước hết là hạ tầng cơ sở công nghệ : TMĐT là hệ quả tất yếu của sự
phát triển kỹ thuật số hoá và công nghệ thông tin mà trước hết là kỹ thuật
máy tính điện tử. Vì thế, TMĐT thực sự có vai trò và hiệu quả đích thực
khi đã có một hạ tầng cơ sở thông tin vững chắc. Hạ tầng cơ sở công nghệ
ấy bao gồm các chuẩn của DN, của cả nước và sự liên kết của các chuẩn
ấy với các chuẩn quốc tế, kỹ thuật ứng dụng và thiết bi ứng dụng và
không vhỉ là của riêng từng DN mà phải là một hệ thống quốc gia với tư
cách như một phân hệ của hệ thống công nghệ thông tin khu vực và toàn
cầu (trên nền tảng của Internet hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là bao gồm cả
các phân mạng, hệ thống liên lạc viễn thông toàn cầu), hệ thống ấy phải

tới được từng cá nhân trong hệ thống thương mại (cho tới từng cá nhân
người tiêu dùng).
_Thứ hai, yêu cầu cơ sở nguồn nhân lực : ứng dụng TMĐT làm nảy sinh
hai đòi hỏi lớn về nhân lực.
+Một là,mọi người đều phải quen thuộc và phải có khả năng thành thạo
hoạt động trên mạng.
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+Hai là, có một đội ngũ chuyên gia tin học mạnh, thường xuyên bắt kịp
các công nghệ thông tin mới, phát triển để phục vụ cho kinh tế số hoá nói
chung và TMĐT nói riêng (hiện nay đã ở mức đổi mới hàng tuần), cũng
như có khả năng thiết kế các chương trình phần mềm đáp ứng nhu cầu
hoạt động của một nền kinh tế số hoá, tránh bị động, lệ thuộc hoàn toàn
với nước khác.
Vì vậy, TMĐT sẽ dẫn tới sự thay đổi căn bản trong hệ thống giáo dục và
đào tạo.
_Thứ ba, tạo lập môi trường kinh tế và pháp lý : ở mỗi nước, TMĐT chỉ
có thể được tiến hành khi tính pháp lý của nó được thừa nhận, biểu hiện
cụ thể bằng sự thừa nhận pháp lý giá trị của các giao dịch điện tử, chữ ký
điện tử, chữ ký số hoá, các thanh toán điện tử...Ngoài ra, nó còn đòi hỏi
phải có một môi trường kinh tế đã tiêu chuẩn hoá ở mức cao với các khía
cạnh của TMĐT được phản ánh đầy đủ trong hệ thống nội luật.
_Thứ tư, yêu cầu bảo vệ sở hữu trí tuệ : trong việc truyền gửi các dữ liệu
qua mạng nổi lên vấn đè sở hữu chất xám và bản quyền của các thông tin.
So với việc bảo vệ sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế vật thể thì vấn đề này
phức tạp hơn nhiều.
_Thứ năm, yêu cầu bảo vệ người tiêu dùng : bảo vệ người tiêu dùng là
yêu cầu ngày càng được đề cao trong hoạt động thương mại. Hơn nữa
trong TMĐT, thông tin về hàng hoá đều là thông tin số hoá, nên người
mua không có điều kiện “nếm thử” hay “dùng thử” hàng hoá trước khi

mua. Khả năng rơi vào “thị trường chanh quả” sẽ càng gia tăng, chưa kể
tới khả năng nhầm lẫn các cơ sở dữ liệu, bị lừa gạt bởi các thông tin và
các tổ chức phi pháp có mặt trên mạng. Bởi vậy, người mua chịu rủi ro
lớn hơn so với thương mại giao dịch vật thể. Điều này làm nảy sinh nhu
cầu phải có một trung gian bảo đảm chất lượng hoạt động hữu hiệu và ít
tốn kém.
_Thứ sáu, yêu cầu bảo mật và an toàn : giao dịch thương mại qua TMĐT,
trong đó mọi dữ liệu (kể cả chữ ký) đều ở dạng số hoá đặt ra yêu cầu
nghiêm ngặt về tính bảo mật, an toàn, tránh mất tiền, lừa gạt, thay đổi
thông tin, xâm nhập dữ liệu...Hệ thống bảo mật an toàn được thiết kế trên
cơ cở kỹ thuật mã hoá hiện đại và một cơ chế an ninh hữu hiệu (nhất là
các hệ thống có liên quan đến an ninh quốc gia). Ngoài ra, TMĐT chỉ có
thể thực hiện trên thực tế và có hiệu quả khi đã tồn tại một hệ thống thanh
toán tài chính ở mức độ phát triển đủ cao, cho phép tiến hành thanh toán
tự động. Những tác động văn hoá, xã hội của Internet và vấn đề lệ thuộc
công nghệ cũng cần được tính đến khi áp dụng TMĐT.
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II . THỰC TRẠNG TMĐT Ở VN
Sự phát triển của thương mại điện tử (TMĐT) trên thế giới đã làm thay
đổi cách thức kinh doanh, giao dịch truyền thống và đem lại những lợi ích
to lớn cho xã hội. Với Việt Nam, TMĐT tuy còn khá mới mẻ, nhưng đã
hé mở nhiều triển vọng sáng sủa, đặc biệt là sau khi Việt Nam chính thức
trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới cuối năm
2006. Chúng ta đã chứng kiến những bước ngoặt đối với TMĐT Việt
Nam trong năm 2007. Đứng trước sự phát triển đó, TrustVn tạm phác
thảo ra một số nét tiêu biểu đối với TMĐT Việt Nam năm nay:
- Thanh toán trực tuyến đã được triển khai tại Việt Nam
- Các tập đoàn thương mại điện tử hàng đầu thế giới triển khai các dịch
vụ tại thị trường Việt Nam

- Hệ thống các nghị định hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử đã được ban
hành đầy đủ
- Gần một nửa số tỉnh/thành phố đã có kế hoạch phát triển thương mại
điện tử tới 2010
- Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (Vecom) thành lập
I Môi trường phát triển TMĐT
1. Nhận thức và nguồn lực cho TMĐT .
“Nhận thức thấp” : Đó là một trong những đánh giá của Vụ TMĐT về
nguyên nhân khiến TMĐT tại Việt Nam kém phát triển. Theo Vụ TMĐT,
có 4 nguyên nhân chính dẫn đến sự yếu kém này: nhận thức của người
dân và DN về TMĐT còn thấp; Hệ thống thanh toán điện tử chưa phát
triển; Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện; Môi trường xã hội và kinh
doanh chưa tương thích và nhân lực CNTT, hạ tầng CNTT viễn thông
không đáp ứng được yêu cầu. Chính vì chưa nhận thức hết tiềm năng phát
triển của TMĐT, nhiều DN đã bỏ phí cơ hội tăng doanh số bán hàng mà
không phải bỏ ra hàng loạt chi phí như: quảng cáo, tiếp thị, nhân công,
trưng bày sản phẩm… nhờ ưu thế sẵn có của mạng Internet.
1.1 Nhận thức xã hội đối với TMĐT
Các doanh nghiệp đã bắt đầu ý thức được tầm quan trọng của con người
và xã hội khi bắt tay vào triển khai TMĐT. Tuy nhiên, thay đổi nhận thức
xã hội về một phương thức sản xuất kinh doanh mới là một quá trình lâu
dài và phức tạp, đòi hỏi sự tham gia của mọi thành phần từ các cơ quan
nhà nước, phương tiện truyền thông, tổ chức xã hội cho đến bản thân
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
doanh nghiệp và người tiêu dùng. Sự thay đổi nhận thức của các nhóm
đối tượng khác nhau có thể diễn ra với nhịp độ khác nhau, nhưng nhìn
chung nhận thức xã hội về TMĐT đến nay đã có nhiều chuyển biến tích
cực.
a.Nhận thức của người tiêu dùng

Ở Việt Nam trên 99% các khoản chi tiêu tiêu dùng cá nhân vẫn được
thanh toán bằng tiền mặt, điều này ở một số nước đang phát triển ở khu
vực như Singapore không xẩy ra, thanh toán tiền mặt chỉ dùng cho tiêu
dùng nhỏ lẻ, chính vì vậy nên thị trường thẻ nước này rất phát triển.
Thực tế thói quen thanh toán tiền mặt trong đời sống, sinh hoạt là một
nguyên nhân quan trọng khiến thanh toán thẻ sau hơn 14 năm ra đời ở
Việt Nam vẫn chưa phát triển hiệu quả như mong đợi.
Nhìn chung, hạ tầng thanh toán thẻ tại thị trường VN chưa ổn định. Hiện
nay, có 2 cách thanh toán qua thẻ: một là thẻ do các ngân hàng phát hành
và các ngân hàng đặt những trạm rút tiền tự động (ATM). Tuy nhiên,
cách thanh toán này thường hay bị gián đoạn kết nối và tính bảo mật chưa
được bảo đảm. Ngoài ra, giao dịch giữa hai ngân hàng còn rất hạn chế
như thanh toán hay dịch vụ chuyển khoản… Cách thứ 2 là thanh toán qua
thẻ Master Card/Visa/American Express… nhưng giao dịch cũng rất
chậm và chi phí còn cao cũng như không thông dụng.
Tuy nhiên từ 2006 đến nay nhận thức của người dân và DN đã có những
chuyển biến khả quan hơn. Đó là xác định đúng thanh toán điện tử là một
trong những cách huy động vốn nhàn rồi hiệu quả nhất với bất kỳ chính
phủ nào. Bước tiến mới từ cuối năm 2006 : Trả lương qua tài khoản, cũng
như khuyến khích các giao dịch qua ngân hàng nhằm tăng lượng tiền lưu
chuyển trong các ngân hàng, tạo nguồn vốn dồi dào cho đầu tư, kinh
doanh... tất cả đều cho mục đích phát triển nền kinh tế. Chưa kể đến số
tiền khổng lồ nếu được thanh toán bằng thẻ cho các hợp đồng giao dịch,
buôn bán, và nhu cầu mua sắm của người dân. Hiện nay theo thống kê
của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, số lượng thanh toán bằng tiền mặt
giảm xuống hàng năm khoảng 17%/năm.
Bên cạnh chuyển biến về thói quen dùng tiền mặt, tập quán tiêu dùng
trong xă hội cũng đang có những bước thay đổi lớn cùng với sự tăng
trưởng nhanh của hàm lượng thông tin trong nền kinh tế. Người tiêu dùng
hiện đại, đặc biệt giới trẻ và những người có thu nhập cao, ngày càng hiểu

biết và được tiếp cận nhiều thông tin hơn, do đó nhu cầu tiêu dùng cũng
trở nên tinh tế hơn. Trong bối cảnh đó, thương mại điện tử đem lại một
giải pháp tư tưởng để người tiêu dùng tìm hiểu thông tin và mở rộng
phạm vi lựa chọn hàng hóa dịch vụ. Một tỷ lệ ngày cao người dùng
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Internet Việt Nam đang bắt đầu tham gia vào thương mại điện tử, từ
những bước đơn giản ban đầu như tra cứu thông tin sản phẩm, tìm hiểu
về dịch vụ, cho đến tiêu thụ dịch vụ trực tiếp trên Internet (như chơi trò
chơi trực tuyến, tải nhạc, tải phần mềm, v.v…)
b.Nhận thức của DN
Hầu hết các doanh nghiệp (DN) Việt Nam chưa dám nghĩ tới việc xây
dựng website từ khi thành lập, hoặc trước khi ra đời, mà thường là sau
khi hoạt động rất nhiều năm mới "lò dò" đi hỏi: Nếu tôi muốn có một 'cái'
thì mất bao nhiêu, liệu có làm được không?
Theo thống kê của Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC), Việt Nam có
khoảng 80 triệu người, tính đến tháng 8/2004 số người biết sử dụng
Internet là 5.341.943, tỷ lệ này đạt 6,55%. Tổng số DN tại Việt Nam có
khoảng 120.000, số lượng trang web mà các DN Việt Nam đăng ký để
phục vụ cho hoạt động kinh doanh là 10.362, khoảng 8,63%, trong đó số
tên miền .vn (như .com.vn, .net.vn,...) đã tăng từ 2.300 (năm 2002) lên
5.510 (năm 2003) và 9.037 (năm 2004).
(i) Khoảng 46,2% các doanh nghiệp được khảo sát đã có website, trong
số này phần lớn (68,7%) là các doanh nghiệp kinh doanh thương mại-
dịch vụ, phần còn lại là các doanh nghiệp sản xuất.
(ii) Khoảng 87,6% số doanh nghiệp có website cho biết đối tượng chính
mà doanh nghiệp muốn hướng tới thông qua website là các doanh nghiệp
khác, hướng tới người tiêu dùng là 65,7%. Như vậy, có khả năng hình
thức giao dịch B2B sẽ chiếm ưu thế hơn hình thức B2C.
(iii) Khoảng 32,8% số website có các tính năng hỗ trợ giao dịch thương

mại điện tử (như cho phép khách hàng gửi yêu cầu, đặt hàng trực tuyến,
v.v..).
Có nhiều cách lý giải cho con số ít ỏi các DN tiếp xúc với thương mại
điện tử (TMĐT) đã được đưa ra. Nào thiếu lực lượng có tay nghề để đáp
ứng nhu cầu của công nghệ cao; thiếu vốn đầu tư xây dựng hạ tầng công
nghệ cao; môi trường chính sách, pháp lý chưa hoàn thiện, còn nhiều bất
cập và hầu như chưa hỗ trợ để xúc tiến phát triển TMĐT... Nhưng ít ai
nghĩ rằng nguyên nhân lớn nhất và quan trọng nhất là do nhận thức của
xã hội về TMĐT, đặc biệt là chính các DN chưa chịu hoặc chưa biết cách
triển khai.
Hiện ở Việt Nam chỉ có một số ít DN đang nỗ lực biến TMĐT trở
thành công cụ chính trong hoạt động kinh doanh của mình, như: VEC,
VASC, VDC, VNET,... hay sử dụng TMĐT để tiến hành hoạt động xúc
tiến thương mại, hỗ trợ các DN Việt Nam thâm nhập thị trường Australia
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
như Công ty VBD. Những nỗ lực này đều xuất phát từ một điểm là họ có
sự nhận thức thấu đáo hơn các DN khác về TMĐT.
Theo các chuyên gia, điều quan trọng nhất trong việc phát triển TMĐT ở
Việt Nam hiện nay xuất phát từ các doanh nghiệp. Đây là lực lượng nòng
cốt ứng dụng và phát triển TMĐT.
c. Nhận thức về vấn đề an ninh, an toàn mạng
Hoạt động thương mại điện tử diễn ra trong một không gian kinh tế khác
biệt so với các phương thức kinh doanh truyền thống, và môi trường
thương mại điện tử cũng có những rủi ro rất đặc thù. Để tham gia thương
mại điện tử một cách thật sự hiệu quả, các bên cần có nhận thức đúng đắn
về những rủi ro này, đồng thời trang bị những hiểu biết phù hợp nhằm tự
bảo vệ m
́
nh trong môi trường đó. Nhiều vụ lừa đảo và vi phạm liên quan

đến thương mại điện tử trong năm qua được thực hiện một phần cũng do
nhận thức của người tiêu dùng về các vấn đề này chưa được thấu đáo.
Bên cạnh đó, còn có các hành vi gây rối của các cá nhân trên môi trường
mạng như phát tán virus và tấn công website. Các hành vi này có tác
động xã hội rất lớn, gây ảnh hưởng tiêu cực tới tâm lý của người tiêu
dùng và phá hoại tính ổn định trong môi trường TMĐT. Mặt khác, tốc
độ lây lan và diện ảnh hưởng của những hành vi này cũng cho thấy nhận
thức của xã hội về các biện pháp tự bảo vệ khi tham gia môi trường kinh
doanh trực tuyến còn rất thấp.
Theo tổng kết của Bkis, năm 2007 nổi lên một số vấn đề về an ninh mạng
như: nhiều website chưa bảo đảm an ninh, nhất là website của các công ty
chứng khoán, mật khẩu là điểm yếu của người sử dụng máy tính, các hình
thức lừa đảo qua mạng ngày càng tăng.
Theo ông Nguyễn Tử Quảng, Giám đốc Trung tâm Bkis, năm 2006,
Trung tâm đã tiến hành khảo sát và phát hiện ra lỗ hổng nguy hiểm tại
140 website của các cơ quan, doanh nghiệp. Vào đầu năm và cuối năm,
Trung tâm đã hai lần tiến hành khảo sát các website đang hoạt động của
các công ty chứng khoán Việt Nam. Trong lần khảo sát vào tháng 3/2007,
có 12/22 website (chiếm tới 54%) tồn tại lỗ hổng nghiêm trọng có thể bị
hacker lợi dụng tấn công chiếm quyền kiểm soát. Lần khảo sát lại vào
cuối năm, kết quả cho thấy vẫn còn 40% website có lỗi trên tổng số 60
website của các công ty chứng khoán đang hoạt động. Như vậy tình hình
có được cải thiện, nhưng số lượng có lỗi vẫn ở mức cao. Ông Quảng
cũng cho biết, năm 2007, hầu hết các hình thức lừa đảo trực tuyến phổ
biến trên thế giới đều đã xuất hiện ở Việt Nam như: lừa đảo qua diễn đàn
trên mạng, lừa đảo qua email mà điển hình nhất là lừa đảo trúng thưởng
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
xổ số, lừa đảo qua website (Colony Invest, Cali Invest,…). Ngoài ra, còn
có lừa đảo qua tin nhắn di động, chat, qua game online, mạng xã hội ảo…

Theo thống kê của Bkis, năm 2007, trung bình mỗi ngày xuất hiện hơn 18
virus mới, đưa tổng số virus xuất hiện trong năm lên tới hơn 6.700 virus.
Có hơn 33,6 triệu lượt máy tính bị nhiễm virus và 342 website bị tấn
công, trong đó có 118 website bị hacker trong nước tấn công, có những
website bị hack tới hai lần.
d. Tình hình tuyên truyền về TMĐT
Thay đổi và nâng cao nhận thức về thương mại điện tử là một quá trình
đòi hỏi sự tham gia của mọi tầng lớp trong xă hội, tuy nhiên giữ vai trò
nổi bật nhất trong quá trình này vẫn là doanh nghiệp và các phương tiện
truyền thông. Đây là hai lực lượng năng động và nhạy bén hơn cả trong
việc nắm bắt những xu hướng, những trào lưu mới của xă hội. Với sự
tham gia chủ động và tích cực của hai nhóm đối tượng này, năm 2006 các
hoạt động tuyên truyền về thương mại điện tử đã diễn ra thật sự sôi động.
_ Trên các phương tiện thông tin đại chúng :
Truyền hình, đài và báo viết là ba công cụ lớn tham gia vào quá trình
tuyên truyền về thương mại điện tử trong thời gian qua.
Sự xuất hiện của kênh truyền hình kỹ thuật số 5 (VTC5) từ ngày 1/8/2006
đã mang lại nhiều thông tin cho khán giả về tất cả các lĩnh vực của khoa
học công nghệ nói chung cũng như công nghệ thông tin và TMĐT nói
riêng. Chuyên mục “Cuộc sống số” của VTV1 cũng là chuyên mục hấp
dẫn thu hút được đông đảo người xem. Đài tiếng nói Việt Nam (VOV)
cũng tích cực tham gia tuyên truyền các kiến thức về thương mại điện tử
cho thính giả trong cả nước.
Bên cạnh báo hình, báo viết cũng được ghi nhận là một kênh tuyên truyền
quan trọng cho TMĐT. Nhiều báo viết hiện nay đã có hẳn chuyên trang
Công nghệ thông tin, nơi tập hợp thông tin đa dạng về các hoạt động và
sự kiện liên quan tới TMĐT. Một số báo điển hình là Lao động, Sài g
̣
òn
Giải phóng, Thương mại, Thời báo Kinh tế Việt Nam và tạp chí Thế giới

Vi tính.
Khác với báo viết, báo điện tử hướng tới các đối tượng độc giả đã sẵn có
phương tiện và kiến thức nhất định về ứng dụng Internet. Với tính ưu việt
về sự tiện lợi, chi phí thấp và tần suất cập nhật thông tin cao, báo điện tử
là một kênh tuyên truyền kiến thức hiệu quả về TMĐT với số lượng độc
giả ngày một tăng. Nội dung của các báo điện tử khá phong phú, đặc biệt
là các chuyên đề về công nghệ thông tin và thương mại điện tử. Những
chuyên đề như Nhịp sống số (Tuổi trẻ online), Vi tính (Vnexpress), Công
nghệ thông tin truyền thông (Vietnamnet), Vi tính–Internet (24h.com.vn),
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khoa học công nghệ (Tiền phong online), TMĐT (Chúng ta) đã thu hút
rất nhiều độc giả.
_Trên các website doanh nghiệp và các diễn đàn về thương mại điện tử
Kiến thức về thương mại điện tử cũng được cung cấp thường xuyên trên
website của những DN kinh doanh TMĐT. Tại đây, người tiêu dùng hoặc
doanh nghiệp có thể tìm hiểu những kiến thức từ cơ bản đến chuyên sâu
về lĩnh vực này. Bên cạnh các chuyên đề hướng dẫn kỹ năng tham gia
giao dịch TMĐT, nhiều website còn thiết lập hẳn một chuyên mục hoặc
thư viện tra cứu về thương mại điện tử. Đây là nguồn thông tin, phổ biến
kiến thức hiệu quả và có giá trị ứng dụng cao do được tích lũy từ kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp.
Bên cạnh các website cung cấp thông tin theo dạng một chiều, các diễn
đàn cũng đang trở thành một kênh tuyên truyền hiệu quả về thương mại
điện tử. Một số diễn đàn đã thu hút được nhiều thành viên tham gia tranh
luận về những vấn đề liên quan đến thương mại điện tử.
_Qua các cuộc thi và các hình thức khác
Bên cạnh những cuộc thi và trao giải liên quan tới TMĐT như năm 2005,
năm 2006 đã xuất hiện thêm một số giải thưởng mới dành riêng cho
TMĐT. Ngoài giải Cúp vàng TMĐT của Hội Tin học Việt Nam, giải Sao

Khuê do Hiệp hội phần mềm Việt Nam tổ chức lần đầu tiên đã có giải
thưởng cho giải pháp TMĐT. Các cuộc thi tìm hiểu TMĐT cũng thường
xuyên được tổ chức tại một số trường đại học và trên truyền hình, thu hút
được sự quan tâm của đông đảo khán giả và sinh viên. Năm 2007,
Chương trình sinh viên với TMĐT được tổ chức với mục tiêu tìm kiếm
những ý tưởng mới về TMĐT từ sinh viên, bắt đầu phát động vào cuối
tháng 5/2007 và kết thúc vào tháng 12/2007. Chương trình đã tạo cơ hội
cho các trường đại học, DN kinh doanh TMĐT và sinh viên giao lưu, tìm
hiểu và nâng cao hiệu quả học tập nghiên cứu về TMĐT. Một số cuộc thi
khác do các doanh nghiệp hoặc cơ quan truyền thông tổ chức như BIT
Cup lần đầu tiên trong năm cũng đa có những giải thưởng cho giải pháp
TMĐT. Chương trình xếp hạng các sàn TMĐT do Bộ Thương mại phối
hợp với Hội Tin học Việt Nam thực hiện càng ngày càng có uy tín, góp
phần định hướng cho DN và người tiêu dùng tiến hành mua bán trên
những sàn có chất lượng phục vụ tốt và độ tin cậy cao.
Ngoài ra, trong năm 2006 nhiều cuộc hội thảo, toạ đàm về TMĐT với các
chủ đề đa dạng đã được tổ chức ở hàng chục tỉnh, thành phố, đặc biệt là
Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Những cuộc hội thảo này có hiệu quả rất
lớn trong việc tuyên truyền về lợi ích của thương mại điện tử. Ngoài ra,
phần lớn hội thảo được các phương tiện truyền thông đại chúng quan tâm
đưa tin, bài và phổ biến tới đông đảo các đối tượng trên cả nước.
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho TMĐT
TMĐT là một công cụ giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh
trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hội nhập toàn diện vào nền kinh tế thế
giới. Do đó, đào tạo nguồn nhân lực có khả năng quản lý các giao dịch
bằng TMĐT là một nhu cầu cấp bách hiện nay.
Làm thương mại trong môi trường kinh doanh quốc tế đòi hỏi không chỉ
am hiểu về nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, nắm vững luật pháp kinh

doanh quốc tế mà còn phải biết tận dụng những thành tựu của công nghệ
thông tin và truyền thông và các hoạt động kinh doanh để tăng hiệu quả,
giảm chi phí, nâng cao vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trả lời câu hỏi vì sao việc khai thác kinh doanh qua mạng còn hạn chế,
phần lớn doanh nghiệp đều cho là nguồn nhân lực TMĐT còn thiếu và
yếu về kỹ năng. Hiện mới có 38% doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách
về TMĐT, một tỉ lệ khá thấp so với các nước trong khu vực.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là, vấn đề đào tạo nguồn nhân
lực một cách chính qui cho TMĐT ở nước ta bắt đầu chưa lâu. Ngày
15/9/2005 chúng ta mới có Quyết định 222/QĐ-TTG phê duyệt Kế hoạch
tổng thể phát triển TMĐT, trong đó có dự án đầu tư nguồn nhân lực
TMĐT tại các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và
dạy nghề. Trước đó, một số học viện, trường cũng có đào tạo nhưng các
tiêu chí từ giáo viên, giáo trình cho đến hình thức thi tuyển, đào tạo, công
nhận (bằng, chứng chỉ, chứng nhận... ) chưa được qui chuẩn thống nhất.
Vì vậy giữa tháng 4/2007 xảy ra chuyện 474 học viên khoá I, hệ "Kỹ
thuật viên tin học ứng dụng" của Viện Công nghệ thông tin, thuộc Đại
học Quốc gia Hà Nội đã phản ứng kịch liệt vì đã tốt nghiệp rồi mà nhà
trường không thể cấp bằng cho họ được, phải "nhờ" Đại học Quốc gia
TP. Hồ Chí Minh cấp bằng hộ.
Vì chưa có chương trình khung, nên doanh nghiệp phải tự tìm hình thức
đào tạo nguồn nhân lực cho mình. Đào tạo tại chỗ theo nhu cầu công việc
phổ biến hơn cả, được 62% doanh nghiệp lựa chọn, tiếp theo là gửi nhân
viên tập huấn lớp ngắn hạn, chiếm 30%, và tự mở lớp đào tạo, 8%. Đào
tạo tại chỗ là cách rẻ nhất và nhanh nhất để phục vụ nhu cầu trước mắt
của doanh nghiệp, nhưng về mặt chiến lược, hình thức này không trang bị
được cho nhân viên những kiến thức bài bản, có hệ thống, do đó hiệu quả
về lâu dài không cao. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp mới quan tâm đến
đào tạo TMĐT bề nổi mà chưa có bề sâu. Do đó, khi xây dựng trang
Website hoặc tham gia vào các sàn giao dịch điện tử, những doanh

nghiệp này vẫn chưa khai thác và tận dụng tối đa các cơ hội kinh doanh
mà Internet đem lại.
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
_Đa dạng giáo viên, giáo trình
Từ năm học 2006 - 2007 trở đi mới xuất hiện những hình thức đào tạo
một cách bài bản, qui chuẩn. Hiện có 75% số trường Đại học, Cao đẳng
có khoa kinh tế hoặc khoa Quản trị kinh doanh thuộc các tỉnh phía Bắc có
môn học TMĐT. Mặc dù tỉ lệ số trường có chương trình đào tạo TMĐT
là khá cao ( 75% ở miền Bắc) nhưng nhìn chung, đội ngũ giảng viên cho
chuyên ngành này chưa đáp ứng được nhu cầu.
Giảng viên TMĐT có nguồn gốc rất khác nhau. Thí dụ, giảng viên của
Đại học Thương mại chủ yếu từ chuyên ngành Kinh tế và Quản trị kinh
doanh chuyển sang, của Đại học Ngoại thương thì chủ yếu tự đào tạo, bồi
dưỡng của trường và bên ngoài, của Đại học Kinh tế quốc dân: Tự đào
tạo và đào tạo ở nước ngoài ... Vấn đề bất cập nhất hiện nay của đội ngũ
giảng viên TMĐT là số giảng viên có kiến thức cơ bản về kinh doanh thì
được đào tạo không cơ bản về công nghệ thông tin và ngược lại, có rất ít
giảng viên được đào tạo chuyên nghiệp cả về thương mại lẫn điện tử.
Đồng thời do không đủ điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, thiếu các phần
mềm TMĐT hiện đại hỗ trợ cho đào tạo nên các giảng viên vẫn chủ yếu
sử dụng phương pháp giảng dạy truyền thống.
Nguồn giáo trình TMĐT cũng chưa được quy chuẩn, chủ yếu từ nước
ngoài và thông qua mạng Internet, cụ thể gồm: Các chương trình đào tạo
TMĐT ở bậc Đại học, sau Đại học do các giảng viên sau khi tốt nghiệp ở
nước ngoài mang về, chương trình đào tạo của các trường Đại học nước
ngoài cung cấp công khai trên mạng Internet, sách, tài liệu của các tác giả
nước ngoài và Việt Nam. Tất cả các giáo trình này mới chỉ dừng ở mức
cung cấp kiến thức cơ bản, còn chuyên sâu đến kỹ năng ứng dụng, an
toàn, bảo mật, thanh toán điện tử hay chiến lược TMĐT chưa có nhiều.

2. Chính sách và pháp luật cho phát triển TMĐT
2.1. Sự cần thiết phải xây dựng khung pháp lý cho việc triển khai TMĐT
Sự phát triển của TMĐT trên thế giới đã làm thay đổi cách thức kinh
doanh, giao dịch truyền thống và đem lại những lợi ích to lớn cho xã hội.
Tuy nhiên bên cạnh đó cũng phải thừa nhận rằng những rủi ro gặp phải
trong quá trình giao dịch, kinh doanh trên mạng là hiện thực và việc này
đòi hỏi phải có các giải pháp không chỉ về mặt kỹ thuật mà còn cần phải
hình thành được một cơ sở pháp lý đầy đủ. Những kinh nghiệm thực tế
trên thế giới cho thấy để thúc đẩy TMĐT phát triển thì vai trò của Nhà
nước phải được thể hiện rõ nét trên hai lĩnh vực: cung ứng dịch vụ điện tử
và xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và cụ thể để điều
chỉnh các quan hệ TMĐT. Nếu TMĐT hoạt động thì các DN và người
tiêu dùng sẽ rất lúng túng trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan và
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
về phía các cơ quan Nhà nước cũng sẽ rất khó có cơ sở để kiểm soát được
các hoạt động kinh doanh TMĐT.
Hơn thế nữa thương mại điện tử là một lĩnh vực mới mẻ cho nên tạo được
niềm tin cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ thương mại điện tử là
một việc làm có tính cấp thiết mà một trong những hạt nhân là phải tạo ra
được một sân chơi chung với những quy tắc được thống nhất một cách
chặt chẽ.
Trong tiến trình hội nhập với thế giới với tư cách là thành viên của
APEC, Việt nam đang tích cực tham gia và ủng hộ "Chương trình hành
động chung" mà khối này đã đưa ra về thực hiện "Thương mại phi giấy
tờ" vào năm 2005 đối với các nước phát triển và năm 2010 đối với các
nước đang phát triển. Việt nam cũng tích cực tham gia vào lộ trình tự do
hoá của Hiệp định khung e-ASEAN và thực hiện theo "Các nguyên tắc
chỉ đạo Thương mại điện tử" mà các nước trong khối đã thông qua. Chính
vì thế những đòi hỏi của pháp lý quốc tế chúng ta phải đáp ứng để có thể

hoà nhập và theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới.
2.2. Các yêu cầu pháp lý cho việc phát triển TMĐT
* Giá trị pháp lý của các hình thức thông tin điện tử :
Theo quan niệm lâu nay của những người làm công tác pháp lý thì họ vẫn
hiểu trong một nền thương mại truyền thống thì văn bản được đồng nghĩa
với giấy tờ (dưới hình thức viết). Như vậy, nếu các hình thức thông tin
điện tử không được ghi nhận về mặt pháp lý là một trong những hình thức
của văn bản, thì các hợp đồng được giao kết trên mạng máy tính giữa các
chủ thể sẽ bị coi là vô hiệu theo pháp luật của Việt nam, do không đáp
ứng được các yêu cầu về mặt pháp lý của hợp đồng. Nếu đòi hỏi các hợp
đồng thương mại, dân sự phải được thể hiện dưới hình thức viết và chữ
ký tay thì những ưu thế của các giao dịch thương mại điện tử sẽ không
được tận dụng và phát huy. Chính vì vậy việc xoá bỏ rào cản đầu tiên ảnh
hưởng đến sự phát triển của thương mại điện tử là về phía Nhà nước cần
phải có sự ghi nhận về mặt pháp lý đối với giá trị của văn bản giao dịch
thông qua phương tiện điện tử.
Việc chúng ta ghi nhận giá trị pháp lý của các hình thức thông tin điện tử
có thể được thực hiện bằng hai cách chính như sau:
- Thứ nhất: Nên đưa ra khái niệm văn bản điện tử và có những quy định
riêng đối với loại văn bản này.
- Thứ hai: Phải coi các hình thức thông tin điện tử như là các văn bản có
giá trị tương đương với văn bản viết nếu như chúng đảm bảo được các
yếu tố:
. Khả năng chứa thông tin, các thông tin có thể được lưu giữ và tham
chiếu lại khi cần thiết.
. Ðảm bảo được tính xác thực của thông tin
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
. Ðảm bảo được tính toàn vẹn của thông tin
Hiện nay tại Việt nam vấn đề này chúng ta đã có đề cập đến và đã được

giải quyết tuy còn ở một góc độ rất hạn chế. Trong luật Thương mại Việt
nam đã có quy định Hợp đồng mua bán hàng hoá thông qua điện báo,
telex, fax, thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác cũng được
coi là hình thức văn bản. Tuy nhiên ở các hợp đồng kinh tế, dân sự,
thương mại khác thì vấn đề này chưa đuợc thừa nhận một cách rõ ràng và
cụ thể. Chính vì vậy để hoàn thiện và có một cách hiểu thống nhất chúng
ta cần phải có những điều chỉnh kịp thời trong thời gian tới.
* Giá trị pháp lý của chữ ký điện tử
Từ trước đến nay chữ ký là phương thức phổ biến để ghi nhận tính xác
thực của thông tin được chứa đựng trong văn bản. Có một số đặc trưng cơ
bản của chữ ký là:
- Chữ ký nhằm xác định tác giả của văn bản
- Chữ ký thể hiện sự chấp nhận của tác giả với nội dung thông tin chứa
đựng trong văn bản.
Trong giao dịch thương mại thông qua các phương tiện điện tử, các yêu
cầu về đặc trưng của chữ ký tay có thể đáp ứng bằng hình thức chữ ký
điện tử. Chữ ký điện tử trở thành một thành tố quan trọng trong văn bản
điện tử. Một trong những vấn đề cấp thiết đặt ra là về mặt công nghệ và
pháp lý thì chữ ký điện tử phải đáp ứng được sự an toàn và thể hiện ý chí
rõ ràng của các bên về thông tin chứa đựng trong văn bản điện tử. Hiện
nay trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và đã được ứng
dụng rộng rãi nhằm nhận dạng và chứng thực cá nhân. Những công nghệ
này bao gồm công nghệ số và mật lệnh nhận dạng, dấu hiệu hoặc thẻ
thông minh, sinh trắc học, dữ liệu điện tử đơn giản, chữ ký kỹ thuật số và
các kết hợp của những công nghệ này. Luật pháp điều chỉnh lĩnh vực này
sẽ tập trung vào việc đặt ra các yêu cầu về nhận dạng chữ ký điện tử cho
phép các bên không liên quan hoặc có ít thông tin về nhau có thể xác định
được chính xác chữ ký điện tử của các bên đối tác. Và trong trường hợp
này để xác định được độ tin cậy của chữ ký điện tử người ta trù liệu hình
thành một cơ quan trung gian nhằm chứng thực tính xác thực và đảm bảo

độ tin cậy của chữ ký điện tử. Cơ quan này hình thành nhằm cung cấp
một dịch vụ mang nhiều ý nghĩa về mặt pháp lý hơn là về mặt công nghệ.
Ðối với Việt nam vấn đề chữ ký điện tử vẫn còn là một vấn đề mà chúng
ta mới có những bước đi đầu tiên. Tháng 3/2002 Chính phủ đã có quyết
định số 44/2002/QÐ-TTg về chấp nhận chữ ký điện tử trong thanh toán
liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt nam đề nghị. Có thể coi đây
là văn bản pháp lý cao nhất quy định về chữ ký điện tử hiện đang được áp
dụng tại Việt nam. Chúng ta vẫn còn nhiều việc phải làm để hoàn thiện và
nhân rộng để chữ ký điện tử trở thành phổ biến trong các giao dịch
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thương mại điện tử.
* Vấn đề bản gốc
Vấn đề "bản gốc" có liên quan chặt chẽ đến vấn đề "chữ ký" và "văn bản"
trong môi truờng kinh doang điện tử. Bản gốc thể hiện sự toàn vẹn của
thông tin chứa đựng trong văn bản. Trong môi trường giao dịch qua mạng
thì vấn đề bản gốc được đặt gắn liền với việc sử dụng chữ ký điện tử. Do
đó chữ ký điện tử không những chỉ xác định người ký mà còn nhằm xác
minh cho tính toàn vẹn của nội dung thông tin chứa trong văn bản. Việc
sử dụng chữ ký điện tử đồng nghĩa với việc mã hoá tài liệu được ký kết.
Về mặt nguyên tắc thì văn bản điện tử và văn bản truyền thống có giá trị
ngang nhau về mặt pháp lý. Vấn đề này được làm rõ sẽ là cơ sở cho việc
xác định giá trị chứng cứ của văn bản điện tử. Việc công nhận giá trị
chứng cứ của văn bản điện tử đóng một vai trò quan trọng trong sự phát
triển của thương mại điện tử. Chỉ khi giá trị của văn bản điện tử được đặt
ngang hàng với văn bản viết truyền thống thì các chủ thể trong giao dịch
thương mại điện tử mới sử dụng một cách thường xuyên văn bản điện tử
thay cho văn bản viết truyền thống. Tuy vậy giá trị của văn bản điện tử
cũng chỉ được xác nhận khi nó đảm bảo được các thành tố mà đã được
nêu ở phần trên.

Có thể nói vấn đề xây dựng khung pháp lý làm cơ sở cho thương mại điện
tử phát triển là một việc làm mang tính cấp thiết. Dẫu là còn nhiều vấn đề
mà chúng ta phải bàn về nó song một thực tế là thương mại điện tử không
thể phát triển mạnh và hoàn thiện nếu như không có môi trường pháp lý
đầy đủ cho nó hoạt động. Theo kế hoạch tới cuối năm 2002 Bộ Thương
mại sẽ trình Chính phủ Pháp lệnh về Thương mại điện tử. Ðây là sẽ một
tin vui cho tất cả những ai đã, đang và sẽ triển khai, quan tâm đến thương
mại điện tử.
2.3. Một số chính sách liên quan tới thương mại điện tử
_Ngày 7/2/2006 : Quyết định số 32/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển Viễn thông và Internet Việt Nam đến
năm 2010.
_Ngày 7/4/2006 : Quyết định số 74/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chương trình cung cấp.
dịch vụ viễn thông công ích đến năm 2010.
_Ngày 24/5/2006 : Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Quyết định 112/2006/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển ngành
25

×