Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Khảo sát sai sót trong thực hành thuốc tại một số khoa lâm sàng, bệnh viện nhi trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 54 trang )



BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI



ĐOÀN THỊ NGỌC DIỆP

KHẢO SÁT SAI SÓT TRONG THỰC
HÀNH THUỐC TẠI MỘT SỐ KHOA
LÂM SÀNG BỆNH VIỆN
NHI TRUNG ƢƠNG


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƢỢC SĨ


HÀ NỘI - 2014



BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI



ĐOÀN THỊ NGỌC DIỆP

KHẢO SÁT SAI SÓT TRONG THỰC
HÀNH THUỐC TẠI MỘT SỐ KHOA


LÂM SÀNG BỆNH VIỆN
NHI TRUNG ƢƠNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƢỢC SĨ

Ngƣời hƣớng dẫn:
1. TS. Vũ Đình Hòa
2. TS. Nguyễn Thị Hồng Hà
Nơi thực hiện:
1. Bệnh viện Nhi Trung Ương
2. Bộ môn Dược lâm sàng

HÀ NỘI - 2014


Lời cảm ơn
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng, yêu quý và biết ơn sâu sắc tới
TS. Vũ Đình Hòa – giảng viên trường Đại học Dược Hà Nội. Người thầy đã tận
tình hướng dẫn, chỉ bảo và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng kính trọng, yêu quý và biết ơn chân thành tới
TS. Nguyễn Thị Hồng Hà – trưởng khoa Dược bệnh viện Nhi Trung Ương đã chỉ
bảo, động viên và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện khóa luận tại
bệnh viện Nhi Trung Ương.
Tôi xin chân thành cảm ơn DS. Dương Thị Thanh Tâm – người chị, người
bạn đồng hành đã luôn giúp đỡ, động viên và sát cánh cùng tôi trong suốt quá trình
thực hiện và hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, trưởng các khoa lâm sàng
bệnh viện Nhi Trung Ương và toàn thể các anh chị cán bộ công nhân viên khoa
Dược đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tại bệnh

viện.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô Bộ môn Dược lâm sàng –
những người thầy đã dạy dỗ, tạo hành trang để tôi có thể hoàn thành khóa luận.
Tôi cũng xin gửi lời biết ơn chân thành và bày tỏ lòng kính trọng, yêu mến
đến các thầy cô trường Đại học Dược Hà Nội – những người thầy đã dìu dắt tôi
trong suốt 5 năm học tại mái trường này.
Cuối cùng, là lời cảm ơn tôi muốn gửi đến bố mẹ, gia đình, bè bạn và những
người tiền bối – những người luôn chia sẻ, đồng hành cùng tôi trong suốt quá trình
học tập và hoàn thành khóa luận này.
Hà Nội, ngày 13 tháng 05 năm 2014
Sinh viên

Đoàn Thị Ngọc Diệp



MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
DANH MỤC ĐỐI CHIẾU ANH – VIỆT
ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………………………………………1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN 3
1.1. Khái quát quy trình sử dụng thuốc trong bệnh viện tại Việt Nam 3
1.2. Sai sót trong sử dụng thuốc 5
1.2.1. Sai sót trong kê đơn thuốc 5
1.2.2. Sai sót trong cấp phát thuốc 5
1.2.3. Sai sót trong thực hành thuốc 6
1.3. Kỹ thuật phát hiện sai sót trong sử dụng thuốc 9

1.3.1. Kỹ thuật tự báo cáo - giấu tên 9
1.3.2. Kỹ thuật báo cáo biến cố 10
1.3.3. Kỹ thuật phân tích biến cố nghiêm trọng 10
1.3.4. Kỹ thuật tổng hợp hồ sơ bệnh án 10
1.3.5. Kỹ thuật giám sát dựa trên máy tính 11
1.3.6. Kỹ thuật quan sát trực tiếp 11
1.3.7. Chọn phương pháp 12
1.4. Giới thiệu về quy trình thực hành thuốc tại ba khoa lâm sàng ở bệnh viện
Nhi Trung Ương 12
CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 14
2.1. Sai lệch trong thực hành thuốc trong nghiên cứu 14
2.1.1. Sai lệch chung trong thực hành thuốc 14
2.1.2. Phân loại các sai lệch cụ thể và xác định tỷ lệ của mỗi loại sai lệch 15
2.2. Đối tượng nghiên cứu 16
2.3. Phương pháp nghiên cứu 17


2.3.1. Thiết kế nghiên cứu 17
2.3.2. Nội dung tiến hành 17
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ 20
3.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu 20
3.1.1. Đặc điểm bệnh nhân quan sát 20
3.1.2. Đặc điểm các quan sát 21
3.1.3. Đặc điểm thuốc quan sát 22
3.2. Xác định tỷ lệ sai lệch chung trong thực hành thuốc 23
3.3. Phân loại các sai lệch cụ thể trong thực hành thuốc và xác định tỷ lệ của
mỗi loại sai lệch 25
3.3.1. Sai thuốc 26
3.3.2. Sai liều 26
3.3.3. Sai dạng bào chế 26

3.3.4. Sai kỹ thuật chuẩn bị 26
3.3.5. Sai do bỏ lỡ thuốc 28
3.3.6. Sai thời gian 28
3.3.7. Sai đường dùng 28
3.3.8. Tương kỵ trong giai đoạn dùng thuốc 28
3.3.9. Sai lệch khác 29
CHƢƠNG 4. BÀN LUẬN 30
4.1. Đối tượng nghiên cứu 30
4.2. Tỷ lệ sai lệch chung trong thực hành thuốc 30
4.3. Tỷ lệ của một số loại sai lệch cụ thể trong thực hành thuốc 31
CHƢƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 34
5.1. Kết luận 34
5.2. Đề xuất 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Kí hiệu
Tên đầy đủ
ADE
Sự kiện bất lợi của thuốc (Adverse Drug Event)
Dạng BC
Dạng bào chế
ĐTTN
Điều trị tự nguyện
ICU
Khoa hồi sức tích cực (Intensive care unit)

IDg
Injectable Drugs Guide
HDSD
Hướng dẫn sử dụng
Kt
Kỹ thuật
NCCMERP
Hội đồng điều phối quốc gia về báo cáo và phòng ngừa sai
sót thuốc (The National Coordinating Council for
Medication Error Reporting and Prevention)
NSX
Nhà sản xuất
OE
Cơ hội xảy ra sai lệch (Opportunity for error)
QTBV
Quy trình dùng thuốc của bệnh viện
SPSS
Statistical Package for the Social Science
TOE
Tổng cơ hội xảy ra sai lệch (Total Opportunity for error)











DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 3.1
Đặc điểm bệnh nhân quan sát
20
Bảng 3.2
Số bệnh nhân quan sát theo ngày tại mỗi khoa
21
Bảng 3.3
Đặc điểm thuốc quan sát
23
Bảng 3.4
Tỷ lệ sai lệch chung trong thực hành thuốc
24
Bảng 3.5
Tỷ lệ sai lệch theo đường dùng
24
Bảng 3.6
Phân loại sai lệch cụ thể và tỷ lệ của mỗi loại sai
lệch
25
Bảng 3.7
Các sai lệch dung môi hoàn nguyên
27
Bảng 3.8
Các sai lệch thể tích dung môi hoàn nguyên
27

Bảng 3.9
Các sai lệch thể tích dung dịch pha loãng
28
Bảng 3.10
Các tương kỵ
29















DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

Hình
Tên hình
Trang
Hình 1.1
Phân loại sai sót trong thực hành thuốc
7
Hình 3.1

Đặc điểm các quan sát
22
Hình 3.2
Số sai lệch trong một quan sát
25
























DANH MỤC ĐỐI CHIẾU ANH –VIỆT


Medication error
Sai sót trong sử dụng thuốc
Medication prescribing error
Sai sót trong kê đơn thuốc
Medication dispensing error
Sai sót trong cấp phát thuốc
Medication administration error
Sai sót trong thực hành thuốc
Preparation and administration
Chuẩn bị và dùng thuốc
Unordered drug error
Sai thuốc
Extra - dose error
Sai do thêm liều thuốc
Wrong - patient error
Sai bệnh nhân
Omission error
Sai do bỏ lỡ thuốc
Wrong - dose error
Sai liều
Wrong - time error
Sai thời gian
Wrong - route error
Sai đường dùng
Wrong - technique error
Sai kỹ thuật
Wrong dosage - form error
Sai dạng bào chế
Other medication error

Sai sót khác
Anonymous self - report
Tự báo cáo - giấu tên
Incident report
Báo cáo biến cố
The critical incident technique
Kỹ thuật phân tích biến cố nghiêm
trọng
Chart review
Tổng hợp hồ sơ bệnh án
Computer - assisted monitoring
Giám sát dựa trên máy tính
Direct observation
Quan sát trực tiếp
1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Mục tiêu của việc điều trị bằng thuốc là cải thiện chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân đồng thời giảm thiểu tối đa nguy cơ cho bệnh nhân [25]. Trong thực
hành, một trong những nhiệm vụ của dược sỹ là đảm bảo rằng bệnh nhân được sử
dụng thuốc một cách tốt nhất bao gồm tất cả các thuốc sử dụng cho nội trú hoặc
ngoại trú; bao gồm các thuốc uống, thuốc tiêm hay các dạng thuốc khác; bao gồm,
các chất phóng xạ, hóa chất, sản phẩm sinh học hay sản phẩm từ máu được dùng
cho bệnh nhân để gây ra một đáp ứng dược lý học [5, 33]. Hiện nay, trên thế giới
cũng như Việt nam, việc sử dụng thuốc hiệu quả, an toàn, tiện dụng và hợp lý ngày
càng được quan tâm. Có thể nói sử dụng thuốc an toàn là một trong những mối quan
tâm hàng đầu của các nhà chức trách, các chuyên gia y tế và của cả người dân. Cần
phải nhận thức rõ rằng sai sót trong sử dụng thuốc là điều khó tránh khỏi trong thực
hành lâm sàng. Các đơn vị y tế cần có những giải pháp và chính sách nhằm giảm
thiểu các sai sót này. Việc thành lập một nhóm chuyên môn trong đó dược sĩ nên là

người chịu trách nhiệm chính sẽ giúp nỗ lực để phát hiện, xử trí và phòng ngừa các
vấn đề liên quan đến sai sót thuốc mà hậu quả có thể gây hại cho bệnh nhân [25].
Ngay từ những năm 1960 đã có các nghiên cứu về sai sót trong sử dụng
thuốc với kết quả cho thấy đây là vấn đề lớn hơn so với nhận thức trước đó của mọi
người [20]. Nhiều sai sót trong sử dụng thuốc có thể không được phát hiện và
phòng tránh. Ý nghĩa lâm sàng của nhiều sai sót trong sử dụng thuốc có thể là
không đáng kể. Tuy nhiên, một vài sai sót trong sử dụng thuốc đã gây hậu quả
nghiêm trọng cho bệnh nhân thậm chí dẫn đến tử vong [17].
Các sai sót có thể xảy ra trong bất cứ giai đoạn nào của quy trình sử dụng
thuốc cho bệnh nhân ví dụ như giai đoạn kê đơn, giai đoạn cấp phát hay giai đoạn
thực hành thuốc. Trong giai đoạn thực hành thuốc Barker và cộng sự đã xây dựng
phương pháp giúp có thể phát hiện ra được nhiều lỗi nhất bằng phương pháp quan
sát trực tiếp [12]. Giai đoạn thực hành thuốc chủ yếu được các điều dưỡng thực hiện
và thường là khâu cuối cùng trong toàn bộ quy trình dùng thuốc.
2

Tại Việt Nam, vấn đề sử dụng thuốc an toàn trong bệnh viện được quan tâm
hơn bao giờ hết trong thời gian gần đây. Bước đầu đã có nghiên cứu về sai sót trong
thực hành thuốc được tiến hành [27], cho thấy 37,7% tỷ lệ sai sót, cao hơn so với
các nghiên cứu trên thế giới và tỷ lệ sai sót được đánh giá nghiêm trọng là 8,8%.
Tuy nhiên những thông tin về sai sót thuốc nói chung chưa nhiều và đây còn là một
vấn đề tương đối mới ở Việt Nam. Thêm vào đó, đã có nhiều ý kiến cho rằng tỉ lệ
sai sót trong thực hành thuốc cho bệnh nhi thường cao hơn người lớn [15]. Hiện tại
ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào trên đối tượng nhi. Việc xác định tỷ lệ gặp sai
sót trong thực hành thuốc trên các đối tượng này là bước đầu để đội ngũ điều trị
hiểu hơn về tình hình sử dụng thuốc và từ đó đề xuất các biện pháp phòng ngừa sai
sót, nâng cao an toàn trong sử dụng thuốc cho bệnh nhân nhi. Vì vậy, chúng tôi thực
hiện đề tài: “Khảo sát sai sót trong thực hành thuốc tại một số khoa lâm sàng ở
bệnh viện Nhi Trung Ƣơng” với hai mục tiêu sau:
1. Khảo sát tỷ lệ sai sót chung trong thực hành thuốc tại một số khoa lâm sàng

ở bệnh viện Nhi Trung Ương.
2. Khảo sát các loại sai sót cụ thể trong thực hành thuốc tại một số khoa lâm
sàng ở bệnh viện Nhi Trung Ương.










3

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Khái quát quy trình sử dụng thuốc trong bệnh viện tại Việt Nam
Theo thông tư số 23/2011/TT-BYT về “Hướng dẫn sử dụng thuốc trong cơ
sở y tế có giường bệnh”, quy trình sử dụng thuốc trong bệnh viện chỉ rõ trách nhiệm
của thầy thuốc, dược sĩ và điều dưỡng viên liên quan đến việc dùng thuốc cho bệnh
nhân. Thầy thuốc có trách nhiệm chỉ định thuốc và hướng dẫn cách dùng thuốc cho
bệnh nhân. Dược sĩ bệnh viện có trách nhiệm cập nhật thông tin thuốc và hướng dẫn
sử dụng thuốc cho thầy thuốc, điều dưỡng viên và người bệnh. Điều dưỡng viên
trong bệnh viện có trách nhiệm cho người bệnh dùng, hướng dẫn người bệnh dùng
thuốc đảm bảo đúng cách, đúng thời gian và đủ liều. Bộ ba thầy thuốc, dược sĩ và
điều dưỡng là một hệ thống chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp trong bệnh viện [2].
Quy trình sử dụng thuốc trong bệnh viện bao gồm nhiều giai đoạn và có thể
xảy ra sai sót thuốc ở bất kì giai đoạn nào. Có thể khái quát quy trình dùng thuốc
hiện nay trong các bệnh viện như sau:
Thầy thuốc kê đơn và chỉ định điều trị

Thầy thuốc có trách nhiệm khám bệnh, chẩn đoán sau đó chỉ định sử dụng
thuốc hoặc ngưng thuốc cho bệnh nhân và theo dõi điều trị. Nội dung chỉ định gồm:
tên thuốc, nồng độ (hàm lượng), liều dùng trong một lần, số lần dùng trong 24 giờ,
khoảng cách giữa các lần dùng thuốc, thời điểm dùng thuốc, đường dùng và các chú
ý đặc biệt khác.
Điều dưỡng viên tổng hợp thuốc tại khoa lâm sàng
Điều dưỡng viên tổng hợp thuốc, hóa chất từ bệnh án vào sổ tổng hợp thuốc
hàng ngày. Sau đó tổng hợp thuốc dùng của cả khoa vào phiếu lĩnh thuốc, phiếu
lĩnh hóa chất và phiếu lĩnh vật tư y tế tiêu hao. Phiếu lĩnh thuốc phải được trưởng
khoa hoặc thầy thuốc được trưởng khoa ủy quyền bằng văn bản phê duyệt.
Khoa Dược tổ chức cấp phát và hướng dẫn sử dụng thuốc
Công tác này hiện nay thường bao gồm: việc kiểm duyệt đơn thuốc, phiếu
lĩnh thuốc; tổ chức phát thuốc hàng ngày và thuốc bổ sung theo y lệnh; phát thuốc
kịp thời để người bệnh được dùng thuốc đúng thời gian. Thuốc cấp phát lẻ không
4

còn nguyên bao gói phải được đóng gói lại trong bao bì kín và có nhãn ghi: tên
thuốc, nồng độ (hàm lượng), hạn dùng. Thực hiện chức năng thông tin thuốc cho
lực lượng điều trị về tên thuốc, thành phần, tác dụng dược lý, tác dụng không mong
muốn, liều dùng, chỉ định, giá tiền, lượng tồn trữ.
Điều dưỡng tiến hành thực hành thuốc tại khoa lâm sàng
Đây là giai đoạn đưa thuốc vào cơ thể bệnh nhân để điều trị.
Trước khi đưa thuốc
Công khai thuốc dùng hàng ngày. Kiểm tra thuốc gồm có: tên thuốc, nồng độ
(hàm lượng), liều dùng trong một lần, số lần dùng trong 24h, khoảng cách giữa các
lần, thời điểm dùng thuốc và đường dùng thuốc so với y lệnh. Kiểm tra hạn dùng và
chất lượng cảm quan của thuốc. Khi phát hiện những bất thường trong y lệnh như
chỉ định sử dụng thuốc quá liều quy định, đường dùng không hợp lý hoặc dùng
nhiều thuốc gây tương tác, điều dưỡng viên báo cáo với bác sĩ điều trị hoặc bác sĩ
trực.

Chuẩn bị thuốc và các phương tiện y tế cần thiết:
 Chuẩn bị đủ phương tiện cho người bệnh dùng thuốc: khay thuốc, nước uống
hợp vệ sinh, lọ đựng thuốc uống theo từng giờ cho bệnh nhân.
 Chuẩn bị sẵn sàng hộp thuốc cấp cứu và phác đồ chống sốc đối với thuốc
tiêm.
 Chuẩn bị dung dịch tiêm cho người bệnh phải pha đúng dung môi, đủ thể
tích và theo quy định của nhà sản xuất.
Trong khi đưa thuốc
Đảm bảo 5 đúng: đúng người bệnh, đúng thuốc, đúng liều dùng, đúng đường
dùng, đúng thời gian. Trực tiếp chứng kiến người bệnh dùng thuốc và theo dõi phát
hiện kịp thời các bất thường của người bệnh trong khi dùng thuốc.
Sau khi đưa thuốc
Điều dưỡng viên theo dõi thường xuyên người bệnh.
Ghi cụ thể số thuốc đã điều trị cho mỗi người bệnh. Mỗi khi thực hiện xong
một thuốc phải đánh dấu thuốc đã thực hiện [2].
5

1.2. Sai sót trong sử dụng thuốc
Thuật ngữ sát sót trong sử dụng thuốc (medication error) được sử dụng rất
rộng rãi trong các nghiên cứu và thực hành để nói về các sai sót trong các giai đoạn
khác nhau của quy trình sử dụng thuốc. Sai sót trong quy trình sử dụng thuốc gồm
các sai sót xảy ra trong giai đoạn kê đơn “prescribing error”, cấp phát “dispensing
error” hay thực hành “administration error”. Trước đây, thuật ngữ sai sót trong sử
dụng thuốc được coi như là sai sót trong thực hành thuốc “administration error”.
Tuy nhiên hiện nay sai sót trong sử dụng thuốc thuốc được định nghĩa là sai sót xảy
ra tại bất kỳ giai đoạn nào của quy trình sử dụng thuốc [21].
1.2.1. Sai sót trong kê đơn thuốc
Sai sót trong kê đơn thuốc (medication prescribing error) có thể được định
nghĩa là việc kê đơn không chính xác một thuốc cho bệnh nhân. Lựa chọn không
đúng thuốc, đúng liều, đúng số lần dùng, đúng thời gian, đúng đường dùng hoặc

việc kê đơn không đọc được đều là các sai sót trong kê đơn thuốc [31].
Trong một nghiên cứu tiến cứu bốn tuần tại Anh với 36.200 đơn thuốc, 1,5%
có ít nhất một sai sót trong kê đơn, 25% trong số đó là sai sót ngiêm trọng [19].
1.2.2. Sai sót trong cấp phát thuốc
Sai sót trong cấp phát thuốc (medication dispensing error) có thể xảy ra ở bất
kỳ giai đoạn nào của quá trình cấp phát, từ khi dược sỹ khoa Dược nhận được đơn
thuốc để cấp phát cho đến khi thuốc được cung cấp cho bệnh nhân. Sai sót trong cấp
phát xảy ra với tỷ lệ 1 - 24% [31]. Sai sót này xảy ra chủ yếu với các loại thuốc có
tên tương tự nhau, ví dụ Lasix (furosemid) và Losec (omeprazole); amilorid 5 mg
và amlodipine 5 mg.
Các sai sót trong cấp phát thuốc được phân loại và định nghĩa như sau [21]:
Sai thuốc: xảy ra khi thuốc được cấp phát khác tên thuốc được viết trong đơn
thuốc.
Sai nồng độ hoặc hàm lượng: xảy ra khi cấp phát một thuốc khác nồng độ
hoặc hàm lượng so với thuốc được kê đơn trong đơn thuốc.
6

Sai dạng bào chế (đúng tên thuốc): được tính khi dạng của thuốc được cấp
phát khác dạng thuốc trong đơn thuốc.
Sai số lượng thuốc: xảy ra khi số lượng thuốc được cáp phát đến bệnh nhân
khác số thuốc được kê đơn.
Sai nhãn chỉ dẫn (trường hợp thuốc lẻ): xảy ra khi sự chỉ dẫn sai nhãn thuốc
so với thuốc được kê đơn.
Sai do thuốc kém chất lượng: xảy ra khi một thuốc dùng quá hạn hoặc được
bảo quản tại nơi không theo đúng hướng dẫn đúng của nhà sản xuất.
Sai do bỏ lỡ thuốc: xảy ra khi bệnh nhân không nhận được thuốc kê đơn. Ví
dụ: nếu canxicarbonat được cấp phát khi canxicarbonat và vitamin D được kê đơn
thì việc thiếu vitamin D là một sai sót do bỏ lỡ thuốc mặc dù canxicarbonat được
cấp phát đúng.
1.2.3. Sai sót trong thực hành thuốc

Sai sót trong thực hành thuốc (medication administration error) được định
nghĩa như một sai lệch so với y lệnh của thầy thuốc được viết trong bệnh án hoặc
được nhập vào hệ thống máy tính của bệnh viện [11]. Một số nghiên cứu đã định
nghĩa sai sót trong thực hành thuốc là: “bất kỳ sai lệch nào trong giai đoạn chuẩn bị
hoặc giai đoạn dùng của một thuốc so với y lệnh của bác sỹ, quy trình chuẩn của
bệnh viện hoặc hướng dẫn của nhà sản xuất” [14, 27, 30].
Sai sót trong thực hành thuốc bản thân nó lại bao gồm các sai sót trong giai
đoạn chuẩn bị thuốc (preparation) và giai đoạn dùng thuốc (administration). Các
loại sai sót trong giai đoạn thực hành thuốc được có thể được phân loại thành [21]:




7


Hình 1.1 Phân loại sai sót trong thực hành thuốc
Sai sót trong giai đoạn chuẩn bị
Sai thuốc (unordered drug error): là việc thực hành một liều thuốc mà không
được kê đơn cho bệnh nhân.
Sai do thêm liều (extra - dose error): là một liều thuốc được đưa vượt mức
tổng số lần được kê đơn bởi thầy thuốc hoặc một liều thuốc được đưa khi y lệnh đã
kết thúc. Ví dụ: thầy thuốc đã kê đơn thuốc được đưa một lần vào buổi sáng, tuy
nhiên bệnh nhân lại nhận thêm một liều giống như vậy vào buổi tối, khi đó một sai
sót do thêm liều đã xảy ra.
Sai bệnh nhân (wrong - patient error): một vài nghiên cứu sử dụng phân loại
sai bệnh nhân theo nguyên tắc phân loại sai sót của Hội đồng điều phối quốc gia về
báo cáo và phòng ngừa sai sót thuốc NCCMERP. Sai sót này có thể là sai thuốc đối
với bệnh nhân nhận được liều thuốc và sai do bỏ lỡ thuốc đối với bệnh nhân không
nhận được thuốc.

Trường hợp sai bệnh nhân và trường hợp sai do thêm liều có thể coi như một
trường hợp sai thuốc.
Sai liều (wrong - dose error): xảy ra khi bất kỳ liều thuốc được đưa vào sai
số lượng đối với mỗi dạng bào chế có sẵn (ví dụ viên nén), hoặc là, trong sự phán
xét của người quan sát, nhiều hơn hay ít hơn 10% so với định liều đúng đối với
8

thuốc tiêm và 17% đối với các loại thuốc khác (ví dụ: chất lỏng uống, khí dung). Sự
phán xét của người quan sát dựa trên thiết bị đo lường được quy định, ví dụ vạch
chia của bơm tiêm hay cốc uống. Sai liều chỉ được tính cho thuốc mỡ, dung dịch
thuốc, thuốc đơn giản khi liều đó được chỉ rõ lượng dùng bởi người kê đơn.
Sai dạng bào chế (wrong dosage - form error): là việc dùng một liều thuốc
trong một dạng khác với dạng được kê đơn. Ví dụ: đưa một viên nén khi một dịch
huyền phù được chỉ định.
Sai kỹ thuật chuẩn bị (wrong technique error): là một thao tác không đúng
hoặc bỏ bước trong quy trình chuẩn bị thuốc [6] so với y lệnh hoặc quy trình của
nhà sản xuất.
Sai sót trong giai đoạn dùng thuốc
Sai do bỏ lỡ thuốc (omission error): sẽ được ghi lại nếu một bệnh nhân
không nhận một liều thuốc đã được kê đơn tính đến lúc dùng liều tiếp theo mà
không có lý do rõ ràng. Nếu bệnh nhân từ chối thuốc hoặc bệnh nhân được yêu cầu
“không đưa thuốc đường miệng trước khi phẫu thuật” thì không được tính là một sai
sót.
Người quan sát phát hiện ra sai do bỏ lỡ thuốc bằng cách so sánh các liều
thuốc được dùng tại thời gian đưa thuốc vào với các liều nên được đưa vào tại thời
gian đó theo y lệnh của bác sỹ. Một liều thuốc không được đưa vào thì một sai sót
do bỏ lỡ thuốc được tính trừ phi có giải thích khác.
Sai đường dùng (wrong - route error): xảy ra khi một thuốc được đưa vào
qua một vị trí hay nơi khác trên cơ thể bệnh nhân so với được kê đơn. Ví dụ dùng
thuốc uống trong khi thuốc kê đơn là dùng đường đặt. Sai đường dùng cũng bao

gồm việc đưa vào một liều sai vị trí (ví dụ đưa thuốc vào tai phải thay vì tai trái).
Sai thời gian (wrong - time error): được định nghĩa là việc dùng một liều
thuốc nhiều hơn 60 phút trước hoặc sau thời gian dùng thuốc quy định khi không có
lý do phù hợp. Lý do như khi bệnh nhân đang trải qua một quy trình tại nơi khác
trong bệnh viện. Quy định thời gian dùng thuốc chuẩn của bệnh viện nên được theo
dõi.
9

Sai kỹ thuật dùng thuốc (wrong technique error): là một thao tác không đúng
hoặc bỏ bước trong quy trình dùng thuốc [6] so với y lệnh hoặc quy trình của nhà
sản xuất.
Sai sót khác (other medication error): xảy ra khi sai sót được phát hiện
không nằm trong phân loại có trước [4]. Ví dụ sai sót dùng sai thiết bị tiêm truyền.
1.3. Kỹ thuật phát hiện sai sót trong sử dụng thuốc
Việc phát hiện và nhận diện ra sai sót là điều rất quan trọng trong quá trình
nghiên cứu về sai sót trong sử dụng thuốc. Thông thường đây cũng là bước khó
khăn nhất và là trở ngại chính của nghiên cứu [12].
Có 6 kỹ thuật thường dùng để phát hiện ra sai sót trong thực hành thuốc và
các sự kiện bất lợi của thuốc (Adverse drug event, viết tắt là ADE) [21]:
1.3.1. Kỹ thuật tự báo cáo - giấu tên
Kỹ thuật tự báo cáo - giấu tên (Anonymous self - report) có nghĩa là một
người đã mắc sai sót hoặc chứng kiến một sai sót có thể báo cáo sai sót; người báo
cáo không liên quan đến sai sót do báo cáo giấu tên [12]. Ưu điểm của kỹ thuật là
không tốn kém chi phí và tránh được lo ngại từ phía nhân viên y tế. Tuy nhiên kỹ
thuật này cũng có hạn chế là người chứng kiến một sai sót chỉ có thể báo cáo nó khi
nhận thức được sai sót đó [21].
Theo một nghiên cứu, một điều dưỡng biết rằng có một sai sót xảy ra, điều
dưỡng có thể không sẵn lòng báo cáo nó nếu điều dưỡng tin rằng thuốc liên quan sẽ
không gây hại cho bệnh nhân, hoặc nếu sai sót liên quan là một sai sót do bỏ lỡ hoặc
sai thời gian [12]. Một nghiên cứu của Barker [7] chỉ ra rằng điều dưỡng có thể

“định nghĩa lại” sai sót để bào chữa cho việc không báo cáo sai sót, như dưới đây:
 Nếu sai sót không phải khuyết điểm của tôi thì không là một sai sót.
 Nếu một bệnh nhân cần một thuốc gấp hơn là cần thuốc được dùng đúng thì
không là một sai sót.
 Một sai sót về sao chép không là một sai sót.
Barker và McConnell [12] chỉ ra rằng có 6 báo cáo - giấu tên về sai sót trong
sử dụng thuốc được ghi nhận qua thời gian khoảng 7 tháng trong một bệnh viện.
10

1.3.2. Kỹ thuật báo cáo biến cố
Kỹ thuật báo cáo biến cố (Incident report) là một báo cáo mang tính pháp lý
của một sai sót thuốc, được viết bởi một nhân viên bệnh viện, người mà phát hiện ra
một sai sót thuốc hoặc một sự việc rủi ro khác. Các hướng dẫn, cấu trúc cho báo cáo
là có sẵn, được quy định bởi bệnh viện và không thể đệ trình giấu tên [24]. Ưu điểm
của kỹ thuật này là chi phí không cao và có thể tiến hành trong toàn bộ bệnh viện,
trong khi kỹ thuật quan sát trực tiếp chỉ được tiến hành trong một khoảng thời gian
và trong một khu vực điều trị nhất định [21]. Tuy nhiên kỹ thuật này vẫn còn hạn
chế là nhân viên không nhận thức được sai sót xảy ra.
Barker và McConnell [12] trong một nghiên cứu cho thấy số báo cáo biến cố
được ghi lại là 36 sai sót trong khoảng một năm. Trong khi so sánh với kỹ thuật
quan sát trực tiếp cùng khoảng thời gian đó đã ghi nhận được 51.000 sai sót. Các
nghiên cứu khác cũng xác nhận sự khác biệt lớn này giữa hai phương pháp
[11, 16, 22].
1.3.3. Kỹ thuật phân tích biến cố nghiêm trọng
Kỹ thuật phân tích biến cố ngiêm trọng (The Critical incident technique) là
một kỹ thuật phân tích các ADE nghiêm trọng như tử vong để tìm ra nguyên nhân
của sự việc. Ưu điểm của kỹ thuật là phát hiện ra được nguyên nhân của sai sót khi
thu thông tin của từng đối tượng cụ thể. Tuy nhiên, kỹ thuật này có hạn chế là phụ
thuộc nhiều vào trí nhớ của những người được phỏng vấn.
1.3.4. Kỹ thuật tổng hợp hồ sơ bệnh án

Kỹ thuật tổng hợp hồ sơ bệnh án (Chart review) có thể được sử dụng để phát
hiện ra sai sót và các ADE trong giai đoạn kê đơn, sao chép, cấp phát, thực hành
hoặc theo dõi thuốc. Kỹ thuật này thường được sử dụng trong các nghiên cứu có
mục tiêu là xác định hậu quả gây ra cho bệnh nhân từ các sai sót thuốc. Việc tổng
hợp thường được thực hiện bởi một điều dưỡng đào tạo đặc biệt, đã quen với chỉ
định của thuốc, các kết quả xét nghiệm thường quy, ghi chú của thầy thuốc, ghi chú
của điều dưỡng. Điều dưỡng phát hiện các sai sót tiêu biểu như: liều cao, liều thấp,
bỏ lỡ thuốc và dùng một thuốc không được kê đơn.
11

Trong một nghiên cứu, kỹ thuật tổng hợp hồ sơ bệnh án phát hiện ra 24 sai
sót trong giai đoạn thực hành thuốc trong khi phương pháp quan sát trực tiếp tại
cùng các liều thuốc đó phát hiện ra 456 lỗi [22].
1.3.5. Kỹ thuật giám sát dựa trên máy tính
Kỹ thuật giám sát dựa trên máy tính (Computer-assited monitoring) có thể
kiểm tra các y lệnh và kết quả các test liên quan tới sai sót hoặc ADE.
Trong một nghiên cứu so sánh kỹ thuật giám sát dựa trên máy tính, báo cáo
biến cố, tổng hợp hồ sơ bệnh án để phát hiện các ADE cho thấy kỹ thuật tổng hợp
hồ sơ bệnh án phát hiện nhiều sai sót nhất (398 ADE trong 21.964 bệnh nhân-ngày),
kỹ thuật giám sát dựa trên máy tính phát hiện 275 sai sót và kỹ thuật báo cáo biến
cố phát hiện 23 sai sót [22].
1.3.6. Kỹ thuật quan sát trực tiếp
Đây là một kỹ thuật được phát triển bởi Barker và Mc Conell. Phương pháp
này dựa trên kĩ năng quan sát trực tiếp của người quan sát được đào tạo trước.
Người quan sát đi theo điều dưỡng viên, chứng kiến quá trình chuẩn bị và dùng
thuốc, đồng thời ghi chú lại những gì thực sự nhìn thấy. Sau đó, người quan sát đối
chiếu với y lệnh của người kê đơn hoặc với y văn, nếu có sự khác biệt một sai sót sẽ
được tính. Kỹ thuật này đòi hỏi người quan sát phải không tiết lộ mục đích thực sự
của nghiên cứu [9, 12].
Kĩ thuật quan sát trực tiếp có ưu điểm là có tính hiệu lực cao. Ngoài ra kỹ

thuật cũng hạn chế được các yếu tố chủ quan (bias) của người thực hành thuốc như
thiếu nhận thức về sai sót, thiếu dũng cảm báo cáo sai sót, kém trí nhớ hay kỹ năng
giao tiếp yếu. Thêm vào đó, phương pháp còn có thể giúp tìm ra đầu mối nguyên
nhân của các sai sót để từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa các sai sót này
[21].
Tuy nhiên phương pháp cũng còn một số hạn chế như: (1) người quan sát
cần có thể chất và tinh thần tốt; (2) chi phí cao do người quan sát cần được đào tạo
cẩn thận và (3) người quan sát phải công bằng và tế nhị để không ảnh hưởng đến
các nhân viên thực hành thuốc [8].
12

Barker và cộng sự [11] đã kiểm tra ảnh hướng của người quan sát đến đối
tượng quan sát bằng theo dõi tỷ lệ sai sót do từng điều dưỡng thực hành thuốc trong
năm ngày liên tiếp đã chỉ ra rằng người quan sát không ảnh hưởng đến tỷ lệ sai sót
mỗi ngày. Quan điểm cho rằng người quan sát làm cho chủ thể được quan sát (điều
dưỡng) lo lắng (tăng tỷ lệ sai sót) hoặc làm điều dưỡng cẩn thận hơn (giảm tỷ lệ sai
sót) đã được chứng minh là không có căn cứ. Dean và Barber [18] đã xác định kết
quả này. Nếu người quan sát công bằng và tế nhị thì điều dưỡng sẽ nhanh chóng
hành xử bình thường trở lại [26]. Để hạn chế sai lệch của người quan sát các nghiên
cứu thường lựa chọn người quan sát có kinh nghiệm như dược sĩ và điều dưỡng [9].
1.3.7. Chọn phƣơng pháp
Tùy vào mục tiêu của nghiên cứu để lựa chọn kỹ thuật phát hiện ra sai sót
phù hợp. Kỹ thuật quan sát là hiệu quả nhất cho các nghiên cứu tính tỷ lệ sai sót
trong thực hành thuốc. Kỹ thuật tổng hợp hồ sơ bệnh án và giám sát dựa trên máy
tính được khuyến cáo trong nghiên cứu có mục tiêu xác định hậu quả gây ra cho
bệnh nhân từ các sai sót. Nếu mục tiêu để tìm nguyên nhân căn bản của một sai sót,
kỹ thuật phân tích biến cố nghiêm trọng và báo cáo biến cố là thích hợp [21].
1.4. Giới thiệu về quy trình thực hành thuốc tại ba khoa lâm sàng ở bệnh
viện Nhi Trung Ƣơng
Mỗi khoa lâm sàng phân chia bệnh nhân thành nhiều đơn nguyên khác nhau.

Mỗi ngày, bác sỹ và điều dưỡng được phân công chăm sóc bệnh nhân theo từng đơn
nguyên. Tại mỗi đơn nguyên, quy trình thực hành thuốc được tóm tắt như sau:
Khoa Hồi sức tích cực (Intensive care unit, viết tắt là ICU)
Khoảng 8h sáng mỗi ngày bác sỹ sẽ khám và kê đơn thuốc dùng trong ngày
cho bệnh nhân vào bệnh án. Các thông tin được kê đơn gồm có: tên thuốc, nồng
độ/hàm lượng, liều dùng, số lần dùng/ngày, khoảng cách giữa các lần dùng hoặc
thời điểm dùng, cách pha loãng (nếu có), đường dùng, tốc độ hoặc thời gian dùng
thuốc.
Một số thời điểm dùng thuốc tại khoa quy định là 10h, 16h, 18h, 22h và 2h
(theo khoảng cách dùng thuốc trong ngày). Mỗi đơn nguyên có ba điều dưỡng. Điều
13

dưỡng làm việc theo ba ca: ca sáng (7h-14h), ca chiều (14h-21h); ca đêm (21h-7h).
Điều dưỡng làm việc ca sáng sao chép thuốc từ bệnh án vào “Tờ thuốc điều trị” của
từng bệnh nhân và gắn tờ thuốc ở đầu giường mỗi bệnh nhân. Nội dung tờ thuốc
điều trị gồm các thông tin: tên thuốc, nồng độ/hàm lượng, thời gian dùng thuốc,
đường dùng thuốc và tốc độ dùng thuốc (nếu có). Điều dưỡng ca sáng chuẩn bị tại
xe tiêm, thực hành thuốc theo tờ thuốc điều trị cho mỗi bệnh nhân.
Thuốc trong khoa được để trong một phòng có khóa và một số thuốc được để
ở tủ thuốc trực. Một điều dưỡng hành chính chịu trách nhiệm phát thuốc cho các
điều dưỡng thực hiện. Đồng thời điều dưỡng hành chính có trách nhiệm sao chép
thuốc từ bệnh án của cả khoa vào “Sổ tổng hợp thuốc hàng ngày”, nội dung gồm có:
tên bệnh nhân, phòng, tên thuốc, nồng độ/hàm lượng, liều dùng và số lần dùng. Sau
đó nhập vào “Phiếu lĩnh thuốc hàng ngày” trong máy tính và lĩnh thuốc cho khoa tại
khoa Dược vào mỗi buổi chiều. Không có sự kiểm tra lại tính đúng đắn của 3 phiếu:
tờ thuốc điều trị, sổ tổng hợp thuốc hàng ngày và phiếu lĩnh thuốc hàng ngày.
Đến ca chiều, một điều dưỡng sẽ chuẩn bị thuốc cho tất cả các đơn nguyên
tại phòng chuẩn bị theo “Sổ tổng hợp thuốc hàng ngày”, sau đó đưa đến các đơn
nguyên để điều dưỡng thực hành thuốc. Sau mỗi lần chuẩn bị và dùng thuốc, điều
dưỡng đánh dấu liều thuốc đã thực hiện. Số thuốc không còn nguyên bao gói được

bảo quản trong tủ lạnh.
Khoa Ngoại và khoa Điều trị tự nguyện (ĐTTN)
Buổi sáng, bác sỹ khám và kê đơn thuốc cho bệnh nhân vào bệnh án giống
khoa ICU nhưng có thể kê thuốc cho ngày hôm sau và thứ sáu bác sỹ sẽ kê thuốc
dùng cho cả hai ngày cuối tuần. Thời gian dùng thuốc ở hai khoa là sáng và chiều.
Mỗi đơn nguyên có hai điều dưỡng. Điều dưỡng ở mỗi đơn nguyên sẽ sao
chép thuốc từ bệnh án vào “sổ thuốc dùng hàng ngày” của đơn nguyên đó, nội dung
gồm có: tên thuốc, nồng độ (hàm lượng), liều dùng, số lần dùng và đường dùng.
Điều dưỡng chuẩn bị thuốc tại xe tiêm và thực hành thuốc theo cuốn sổ này. Một
điều dưỡng hành chính cũng có trách nhiệm giống như khoa ICU.

14

CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Sai lệch trong thực hành thuốc trong nghiên cứu
2.1.1. Sai lệch chung trong thực hành thuốc
Định nghĩa
Chúng tôi xác định “sai lệch trong thực hành thuốc” là bất kỳ sự khác biệt
nào trong quá trình điều dưỡng chuẩn bị và dùng thuốc so với (1) y lệnh của thầy
thuốc, (2) hướng dẫn của nhà sản xuất (HDSD NSX), (3) quy trình dùng thuốc của
bệnh viện (QTBV) [13, 32] và (4) hướng dẫn trong tài liệu “Injectable Drugs
Guide” (IDg) [21]. Trong trường hợp các hồ sơ/tài liệu không thống nhất thì chúng
tôi căn cứ theo thứ tự ưu tiên từ hồ sơ/tài liệu (1) đến (4).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi áp dụng thuật ngữ “sai lệch”. Lý do là vì
các quan sát của chúng tôi chỉ đánh giá sai lệch trong thực hành thuốc của các điều
dưỡng viên so với hồ sơ hay tài liệu. Vấn đề đánh giá đúng hay sai và mức độ ảnh
hưởng của các sai lệch này ra sao nằm ngoài nội dung của nghiên cứu.
Cơ hội xảy ra sai lệch OE
Cơ hội xảy ra sai lệch (opportunity for error, viết tắt là OE) được sử dụng
như một đơn vị cơ bản của dữ liệu nghiên cứu. Một OE là một quan sát ứng với

việc đưa vào một liều thuốc hoặc một liều thuốc bị bỏ lỡ (được kê đơn nhưng không
được đưa vào). Một OE chỉ có thể là sai lệch hoặc không là sai lệch, tỷ lệ sai lệch
không vượt quá 100%. Trong đó, người quan sát thực sự quan sát được việc thực
hành hay bỏ lỡ này [10]. Với các quan sát mà điều dưỡng kết thúc việc thực hành
thuốc ở khâu chuẩn bị và khâu dùng thuốc là do người nhà bệnh nhân thực hiện (đối
với thuốc uống hoặc thuốc khí dung) thì vẫn được tính là một OE (khác với các
nghiên cứu khác [10]).
Tổng cơ hội xảy ra sai lệch TOE
Trong nghiên cứu này, chúng tôi định nghĩa TOE (total opportunity for error)
là tất cả các OE được đưa vào cộng với tất cả các OE bị bỏ lỡ [3].
Tỷ lệ sai lệch chung trong thực hành thuốc
 



15

2.1.2. Phân loại các sai lệch cụ thể và xác định tỷ lệ của mỗi loại sai lệch
Việc phân loại các sai lệch trong thực hành thuốc xác định rõ trước khi tiến
hành quan sát [4]. Nghiên cứu này chúng tôi chia thành 8 loại sai lệch cụ thể:
Sai lệch trong chuẩn bị thuốc
 Sai thuốc
 Sai liều
 Sai dạng bào chế
 Sai kỹ thuật chuẩn bị
Sai lệch trong dùng thuốc
 Sai do bỏ lỡ thuốc
 Sai thời gian
 Sai đường dùng
 Tương kỵ

Định nghĩa từng loại sai lệch được trình bày như phần 1.2.3. Một số lưu ý cụ
thể trong nghiên cứu này gồm có:
Sai thuốc: sai lệch không được tính trong trường hợp điều dưỡng đưa vào
biệt dược khác biệt dược bác sỹ kê, thỏa mãn biệt dược được dùng cùng hoạt chất,
cùng dạng bào chế với biệt dược được kê do thói quen kê biệt dược cũ của bác sỹ
trong khi điều dưỡng chỉ nhận được loại biệt dược mới từ khoa Dược.
Sai kỹ thuật chuẩn bị: Chúng tôi quy định các sai lệch về kĩ thuật chuẩn bị
gồm các sai lệch chính sau: sai dung môi hoàn nguyên, sai thể tích dung môi hoàn
nguyên, sai dung môi pha loãng, sai thể tích pha loãng, tương kỵ dung môi (thuốc
tiêm) và tương kỵ với thuốc trộn lẫn (dịch truyền và khí dung).
+ Sai dung môi hoàn nguyên và sai dung môi pha loãng: được ghi nhận khi
điều dưỡng dùng loại dung môi khác dung môi được kê đơn theo y lệnh và khác tất
cả dung môi được hướng dẫn trong ba tài liệu: HDSD NSX, QTBV, IDg.
+ Sai thể tích hoàn nguyên và sai thể tích pha loãng: được ghi nhận khi điều
dưỡng lấy nhiều hơn hoặc ít hơn 15% so với thể tích được quy định trong (1) y
lệnh, (2) HDSD NSX, (3) QTBV, (4) IDg (sếp theo thứ tự ưu tiên (1), (2), (3), (4)).
16

+ Tương kỵ với dung môi hoặc tương kỵ với thuốc trộn lẫn: được ghi nhận
khi xuất hiện tương kỵ ở bất kỳ tài liệu nào trong ba tài liệu trên.
Tương kỵ (trong giai đoạn dùng thuốc): được tính nếu xuất hiện tương kỵ
với thuốc dùng đường y - site, thuốc dùng trước hoặc thuốc dùng sau ở bất kỳ tài
liệu nào trong ba tài liệu trên. Tương kỵ sẽ không được tính nếu có dội rửa giữa hai
liều dùng thuốc.
Sai lệch khác: là các sai lệch được đánh giá bởi người nghiên cứu nhưng
không thuộc vào các sai lệch đã liệt kê ở trên. Các trường hợp này nếu có sẽ được
mô tả cụ thể.
Khi xét tỷ lệ sai lệch của từng loại, chúng tôi xác định có những OE không
phù hợp để đánh giá (trình bày cụ thể trong phần kết quả).
Tỷ lệ của mỗi loại sai lệch cụ thể

 

  


2.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là quan sát ứng với việc chuẩn bị và dùng mỗi liều thuốc
được điều dưỡng thực hành cho bệnh nhân.
Một quan sát là những ghi nhận của người quan sát liên quan đến việc sử
dụng một liều của một thuốc trên một bệnh nhân tính từ khi khi điều dưỡng chuẩn
bị liều thuốc đó theo y lệnh cho đến khi điều dưỡng kết thúc việc thực hành thuốc
của mình. Đối với một số đường dùng (thuốc uống, thuốc khí dung) điều dưỡng có
thể hoàn thành việc thực hành thuốc ở khâu chuẩn bị và được coi là kết thúc quan
sát. Việc dùng thuốc sau đó được thực hiện bởi người nhà bệnh nhân.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Địa điểm: nghiên cứu được tiến hành tại 3 khoa của bệnh viện Nhi Trung
Ương: khoa Hồi sức tích cực, khoa Ngoại và khoa Điều trị tự nguyện.
Thời gian quan sát: từ 8h-16h30 mỗi ngày, trong 7 ngày liên tục/mỗi khoa.
Người quan sát không có mặt tại khoa từ 12h đến 13h30. Nghiên cứu tiến hành
trong khoảng 4 tuần từ 26/3/2014 đến 17/4/2014.

×