Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ GIÁO DỤC THẾ GIỚI Triết gia Hàn Phi Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.22 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
KHOA TÂM LÝ GIÁO DỤC
LỚP TÂM LÝ 3
MÔN: LỊCH SỬ GIÁO DỤC THẾ GIỚI
Triết gia Hàn
Phi Tử
Giáo viên hướng dẫn: TS Hồ Văn Liên
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Thu Thúy
Lê Thị Mến
Phạm Thị Liên
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGÀY 16 THÁNG 12 NĂM 2012
1)Một số nét về Hàn Phi Tử
Hàn Phi Tử ( 280 - 233TCN) nhà triết gia thời cuối Chiến Quốc, là
người tập đại thành tư thưởng pháp gia, vốn thuộc dòng dõi quý tộc nước Hàn, là con
vua nhưng không phải người thừa kế ngai vàng.Hoàn cảnh đó giúp ông thấu hiểu các
quan hệ giữa vua tôi và cách trị nước.Thầy học của Hàn Phi là Tuân Tử - học giả lớn
nhất thời bấy giờ.
Hàn Phi Tử từng viết rất nhiều sách dâng lên vua Hàn, nhưng không được trọng dụng,
khi tác phẩm của Hàn Phi được lan truyền sang nước Tần, vua Tần đọc tới hai thiên
“cô phẩn” và “ngũ xuẩn”, thấy rất hợp với ý tưởng của mình, đã thán phục và nói
rằng: “ chao ôi, nếu trẫm mà có duyên gặp được người này, thì có chết cũng chẳng còn
ân hận gì nữa”.
Theo sử ký ghi nhận, suốt đời Hàn Phi chỉ có một dịp duy nhất để thi thố tài
nghệ, là khi được cử đi sứ sang Tần. Nguyên do là Tần vây đánh nước Hàn, vua Hàn
sợ hãi và cử Hàn Phi làm sứ giả sang Tần để hòa giải. khi đến Tần Hàn Phi đệ quốc
thư lên Tần Thủy Hoàng, đại ý nói rằng: “ Nước bất kính phục với Tần là Triệu, vậy
Tần chớ nên đánh Hàn, đáng lý nên liên minh với Hàn cùng nhau phạt triệu mới
đúng”.
Lúc này, Lý Tư một người bạn học chung của Hàn Phi là tể tướng của nước
Tần lúc bây giờ không đồng ý với quan điểm của Hàn Phi và cho rằng mục đích chân
chính của Phi không làm lợi cho Tần mà chỉ có ý nhằm bảo tồn nước Hàn.Chẳng hiểu


vì lẽ nào, đã không thuyết phục được vua Tần thì thôi, Hàn phi lại cứ nấn ná mãi bên
Tần không chịu về nước ngay.Chính vì hành động đó của Hàn Phi, khiến cho người
bạn của mình là Lý Tư sinh nghi và sợ rằng Hàn Phi ở lâu sẽ được vua Tần trọng
dụng thay cho vị trí của mình nên đã cấu kết với Diệu Giả tìm cách hãm hại Hàn Phi,
và ông kết thúc cuộc đời của mình vào năm 233 TCN ở nơi xứ người. Thật tình cờ và
cũng trớ trêu thay là, những bậc tiền bối của Pháp gia, là Ngô khởi và Thương Quân
đều có công lớn với triều đình, thế mà cũng chết bất đắc kì tử. Ngô khởi bị phân thây,
Thương Quân bị xe cán xác, Hàn Phi Tử bị bạn học bức tử nơi xứ người.
Trong lịch sử Trung Quốc, Hàn Phi là một triết gia bị ngộ nhận nhiều nhất, bởi tư
tưởng của người chỗ nào cũng trái ngược với đạo nho, một học phái đã giành được địa
vị chính thống kể từ đời Đường, Tống trở đi. Do đó, học thuyết của Hàn Phi Tử được
coi như tà thuyết, dị đoan.
2)Tư tưởng của Hàn Phi Tử
Mục đích của học thuyết:
Tư tưởng chủ yếu của Hàn Phi là thuyết Pháp Trị .
Mục đích của học thuyết: là một trường phái tư tưởng có mục đích tiếp cận tới cách
phân tích các vấn đề pháp luật đặc trưng ở lý lẽ logic lý thuyết nhằm vào việc đưa ra
văn bản pháp luật ứng dụng như: hiến pháp, pháp chế.
Dùng pháp trị để lật đổ chế độ phong kiến phân tán, lập ra chế độ phong
kiến quân chủ chuyên chế, quản lý xã hội phù hợp với hoàn cảnh lịch sử Trung Quốc
lúc đó. Mọi người đều được bình đẳng :“khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu,
kẻ đông không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được
trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn
cho nhau”
Tuy có theo học đạo Nho dưới môn Tuân Tử cùng Lý Tư, nhưng lại có tư
tưởng khác biệt với thầy. Tuân Tử chú trọng về việc giáo hóa Lễ Nghĩa, còn Hàn Phi
cùng Lý Tư thì nặng về pháp chế và quyền thuật, đi theo con đường hoàn toàn trái
ngược với đạo Nho. Hàn Phi từng bảo: "Ngô ái ngô sư, ngô bưu ái chân lý". (Ta mến
thầy ta, nhưng ta càng chuộng chân lý hơn).
Ảnh hưởng từ thầy

Học thuyết “Tính ác” của Tuân Tử dẫn tới hệ quả trực tiếp là học thuyết
pháp trị của Hàn Phi. “TuânTử nói có điều gì đó sai trong quan điểm của Mạnh Tử khi
cho rằng bản chất con người là thiện. Ông nghĩ rằng quan điểm này quá lý tưởng và
ông không tin vào điều đó. Bản chất con người, ông nói, không thực sự thiện. Quan
điểm của ông có xu hướng Machiavelli nhiều hơn; ông tin rằng bản chất con người là
xấu, và cần phải kiểm soát nó, và đây chính là chỗ làm nẩy sinh ra triết học pháp trị –
một triết học gây nên nhiều tranh cãi.
“Xu hướng Machiavelli” là một thuật ngữ, trong tiếng Anh là
“Machiavellian” (một tính từ) hoặc “Machiavellianism” (một danh từ chỉ xu hướng),
xuất phát từ tên của Nicolò Machiavelli (1469-1527) – người được coi là một trong
những cha đẻ của chính trị học hiện đại. Quan điểm của Machiavelli về chính trị có
ảnh hưởng sâu rộng trên khắp Châu Âu từ thế kỷ 16 đến nay, tạo nên một kiểu nhận
thức chính trị được gọi là “xu hướng Machiavelli”.
Xu hướng này lộ rõ trong các tác phẩm của Machiavelli, nổi bật là cuốn
“The Prince” (Ông hoàng), trong đó tác giả thể hiện thái độ chấp nhận, thậm chí cổ võ
cho những nhân vật có quyền lực nhưng vô đạo đức. Từ đó sản sinh ra thuyết “mục
đích biện minh cho phương tiện” (the end justifies the means) và hình thành nên một
cách hiểu khái niệm “chính trị” theo hướng tiêu cực.
“Machiavelli là nhà tư tưởng chính trị độc nhất mà tên tuổi của ông đã được sử dụng
phổ biến để ám chỉ một kiểu chính trị được hướng dẫn thuần tuý bởi việc sử dụng mọi
thủ đoạn để đạt tới mục đích, bất chấp phương tiện là tốt hay xấu”.
“Đôi khi công trình của ông cũng bị coi là đã góp phần vào việc tạo ra hàm
ý tiêu cực hiện nay trong các từ ngữ “chính trị” và “nhà chính trị”, và đôi khi người ta
cho rằng chính vì ông mà cái tính từ Machiavellian trở thành một thuật ngữ có hàm ý
xấu để mô tả những người chủ trương lừa dối và lôi kéo người khác để giành giật lợi
ích cho cá nhân mình”.
Tuân tử vẫn tin vào khả năng cải tạo con người. Ông nói: “Nhân chi tính
ác, kỳ thiện giả ngụy dã” (Bản tính của người là ác, những điều thiện là do con người
đặt ra), có nghĩa là tuy con người có bản chất xấu, nhưng bản chất đó có thể cải tạo
được nhờ cái thiện do con người tạo ra – cái thiện ấy là sản phẩm của giáo dục, lễ

nghĩa, hình pháp, mà Tuân tử đặc biệt coi trọng.
Học thuyết “Tính ác” của Tuân tử và hệ quả tất yếu của nó là học thuyết
pháp trị của Hàn Phi
Thay “đức trị” bằng “pháp trị”
Trong bối cảnh phức tạp nhiều biến động lúc bấy giờ, các học thuyết như
Lão gia, Nho gia… đã không giúp được xã hội thoát khỏi tình trạng rối loạn và suy
sụp vì tính không tưởng và không có khả năng đáp ứng yêu cầu thời cuộc. Đạo đức và
tình thương không đủ sức mạnh để lập lại trật tự xã hội.
Với tác phẩm Hàn Phi Tử, Hàn Phi đã chính thức khai sinh học thuyết
pháp trị của phương Đông, đồng thời đưa ra lời giải cho bài toán lịch sử hóc búa. Hàn
Phi đã kết hợp các yếu tố “thuật”, “thế”, “pháp” của Thân Bất Hại, Thận Đáo, Thương
Ưởng, hoàn thiện tư tưởng pháp trị của các bậc tiền bối đã khai sinh ra nó là Quản
Trọng và Tử Sản để xây dựng thành học thuyết chính trị độc lập.
Nội dung cốt lõi của học thuyết pháp trị là đề cao pháp luật với tư cách là
công cụ quan trọng nhất, hữu hiệu nhất trong việc bình ổn xã hội. “Cái làm cho trị an
là pháp luật, cái gây ra loạn là sự riêng tư. Pháp luật đã thiết lập rồi thì không ai có thể
làm điều riêng tư được nữa”.
Hàn Phi khẳng định, việc trị nước, quản dân không thể dựa theo lễ nghi
truyền thống mà phải được thực hiện trên cơ sở những đạo luật cụ thể và chặt chẽ. Bởi
lẽ, “…pháp luật không hùa theo người sang… Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn
cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tránh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ
đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu…”.
“Bất chấp quan hệ máu mủ ruột thịt, có những cha mẹ đẻ ra con trai thì ăn
mừng trong khi đẻ ra con gái thì đem giết bỏ. Cả hai hành động đều xuất phát từ cùng
một cha mẹ, nhưng đối xử phân biệt hết sức tàn nhẫn, chỉ vì cân nhắc và tính toán mối
lợi của gia đình trong tương lai lâu dài”
“Một đứa con bị cha mẹ đối xử không tốt, nó sẽ lớn lên với nỗi oán hận
cha mẹ. Lúc trưởng thành, nó không phụng dưỡng cha mẹ cho tử tế, cha mẹ lại oán
giận nó. Do đó, quan hệ giữa cha mẹ với con cái, vốn là quan hệ thân thiết nhất trong
tất cả các quan hệ, vẫn gây ra những oán thoán thù hận, tất cả đều do lợi ích của mỗi

người không được đáp ứng như người đó mong muốn”
“Thợ xe ngựa làm ra xe ngựa, nên mong có nhiều người giàu; thợ áo
quan làm ra áo quan, nên mong có nhiều người chết. Không phải thợ xe ngựa có lòng
tốt, ấy chỉ vì được lợi khi có nhiều người giàu; cũng chẳng phải thợ áo quan ghét bỏ
mọi người, ấy chỉ vì được lợi khi có nhiều người chết. Tất cả đều do vụ lợi mà ra”.
“Thầy thuốc rút máu độc ra khỏi vết thương của bệnh nhân, không phải
vì ông ấy là cha đẻ của bệnh nhân, mà chỉ vì nhận được lệ phí do bệnh nhân chi trả”.
Những mô tả “đầy máu lạnh” nói trên giúp các nhà sử học hiểu được rất
nhiều sự thật ở Trung Hoa thời chiến quốc. Hiện thực phũ phàng ấy làm cho Hàn Phi
hoàn toàn mất niềm tin vào khả năng giáo hoá con người bằng lễ nghĩa, đạo lý, và do
đó hối thúc ông đi tới chỗ cho rằng chỉ có thể cai trị con người bằng sức mạnh trừng
trị của pháp luật, ông nói: “Chỉ có vài người có thể bị ảnh hưởng bởi những học thuyết
chính trực, (trong khi) mọi người đều phục tùng sức mạnh”
Trong học thuyết của mình, Hàn Phi không chú trọng đến đạo đức, vì theo
ông, “đạo đức là một công cụ lỏng lẻo và không hiệu quả để giáo dục một dân số
khổng lồ”. Ông tán thành lý thuyết của thầy ông về “tính vô đạo bẩm sinh” của con
người. Nhưng thay vì đề xuất một chương trình giáo dục hướng tới đạo đức (như thầy
ông chủ trương), “ông lại đi theo xu hướng thực dụng, đề nghị một chương trình lèo
lái con người bằng chính cái bản chất vụ lợi của họ, để họ chủ động tham gia vào cuộc
chạy đua hoặc chiến tranh nếu cần thiết, miễn là cải thiện được xã hội và phát triển
nhà nước”.
Tóm lại, Hàn Phi chính là một Machiavelli của Trung Hoa cổ đại!
Hàn Phi hoàn toàn xứng đáng để cùng với Machiavelli được coi là những cha đẻ của
chính trị học hiện đại.Nếu Machiavelli vừa được khen vừa bị chê thì dư luận đối với
Hàn Phi tất nhiên cũng như vậy.
Khen vì Hàn Phi là người đầu tiên nêu cao tư tưởng pháp trị: “nước phải có phép, xã
hội phải có lề luật”, đó là cái mà xã hội hiện đại gọi là “xây dựng nhà nước pháp
quyền”. Trong tinh thần pháp trị ấy, Hàn Phi có những luận điểm rất “hiện đại”, đặc
biệt là tư tưởng công bằng.
Pháp trị là học thuyết duy nhất có sự kế thừa, hàm chứa những yếu tố của

những học thuyết khác nhiều nhất, nhờ đó tạo ra một phương thức giải quyết vững
chắc, toàn vẹn và thực tế nhất trong vấn đề trị quốc: Lễ nghĩa, danh phận của Nho gia
được cụ thể hóa trong pháp luật; Vô vi của Lão gia được chuyển hóa thành quan hệ
biện chứng vô vi - hữu vi; Kiêm ái của Mặc gia tuy là nội dung yếm thế nhất của học
thuyết pháp trị, nhưng Hàn Phi vẫn coi đây là mục đích cuối cùng của pháp luật.
Nhờ học thuyết pháp trị, Tần Thủy Hoàng đã chấm dứt cục diện bách gia
phân tranh thời tiên Tần, thống nhất Trung Quốc và xây dựng chế độ quân chủ chuyên
chế trung ương tập quyền đầu tiên tại Trung Quốc.
Tư tưởng của Hàn Phi hết sức sâu rộng, bao gồm chính trị, pháp luật,
triết học, xã hội, kinh tế, quân sự, giáo dục, trong đó, then chốt chính là tư tưởng
chính trị. Ông để tâm suy nghĩ làm sao cho vị vua trong điều kiện xã hội đương thời
có thể vận dụng vô số các phương pháp khác nhau để đạt được cục diện chính trị ổn
định, để cho nước giàu quân mạnh. Có thể nói “Hàn Phi Tử” là một bộ sách chính trị
học vĩ đại và học thuyết chính trị của ông được người xưa gọi là “học thuyết của đế
vương” (đế vương chi học).
3) nội dung của học thuyết
a) So sánh giữa đức tri và pháp trị
Đức trị là hệ thống lý luận về “đạo” cai trị dân bằng phương thức chính
yếu là giáo dục đạo đức cho dân với lòng nhân từ độ lượng của người cai trị để chăn
dắt muôn dân, tu dưỡng đức hạnh của người bị trị còn việc sử dụng pháp luật để
cưỡng chế là cần thiết nhưng chỉ là chuyện bất đắc dĩ.
Kiến trúc sư đầu tiên của học thuyết đức trị là Khổng Tử (551-
479TCN).Từ cơ sở của học thuyết “nhân”. Khổng Tử cho rằng XH con người phải
được gắn lại với nhau bằng chất keo là lòng nhân ái. Khổng Tử chủ trương người cầm
quyền phải thực thi đức trị. Nghĩa là nhà cầm quyền phải dùng đức để cảm hóa XH
vào kỷ cương nề nếp.
Khổng Tử cực lực phản đối dùng pháp luật hình phạt như là công cụ chủ
yếu để cai trị. Khổng Tử cho rằng: cai trị XH bằng pháp luật thì dân sự nhưng không
phục, chỉ có cai trị XH bằng đạo đức (đức trị) thì dân mới phục.
+ Phạm trù nghĩa-lợi và vấn đề quản lý XH: ở Khổng Tử chưa đặt ra

vấn đề này một cách rõ ràng. Mạnh Tử là người đầu tiên sử dụng phạm trù này một
cách có hệ thống trong việc quản lý XH. Mạnh Tử phản đối “lợi” là động lực của sự
phát triển XH. Ông cho rằng nếu mọi người trong XH đều hưởng về lợi thì sẽ sinh ra
tranh giành lẫn nhau, XH khó mà ổn định. Tốt nhất là nên lấy nghĩa (nghĩa vụ) để
động viên mọi người.Từ đó trong XH luôn luôn xác định trách nhiệm của công dân
chứ không bàn nhiều đến quyền lợi.
+ Tiêu chuẩn của người cầm quyền: Đức trị chủ trương người cầm
quyền không phải chủ yếu do tài năng mà chính là do số mệnh. Vua là do trời chỉ định
(thiên tử), chống lại vua là chống lại trời. Ngoài ra để đảm bảo chế độ phong kiến
được ổn định thì cần phải cất nhắc những người trong dòng họ (huyết thống). Đức trị
luôn luôn xác định đức là gốc mà tài năng là ngọn. Công thức của họ là: 0+0=7-4 (có
nghĩa là: không có tài năng + không có khuyết điểm tốt hơn là tài năng 7 – khuyết
điểm 4)
+ Đạo đức - cơ sở của chính trị: Nền tảng của đạo đức là huyết thống.
Khổng Tử từng nói: hiếu là gốc của học thuyết “nhân”. Những người con nào hiếu với
cha mẹ thì không bao giờ lại là kẻ bề tôi bất trung cả. Như vậy, đức trị gắn đạo đức và
chính trị. Hiếu gắn liền với trung (trong học thuyết của Khổng Tử thì đạo đức, huyết
thống và chính trị quyện làm một. Đạo đức cũng tức là chính trị và chính trị cũng
chẳng qua là sự mở rộng của đạo đức mà thôi).
+ Vương quyền và thần quyền: để củng cố vương quyền, Khổng Tử gắn
chặt nó với thần quyền. Lễ giáo vừa có mục đích tỏ lòng sùng bái với tổ tiên vừa có
mục đích hướng về thần quyền. Dùng lễ giáo để kết hợp chặc chẽ giữa vương quyền
và thần quyền là chính sách khôn khéo của đức trị.
Chủ trương đức trị được giai cấp phong kiến Trung Quốc cũng như Việt
Nam, Nhật Bản… quán triệt trong lịch sử. Sở dĩ học thuyết đức trị có sức sống lâu dài
như vậy ở các nước phương Đông hơn là pháp trị là nhờ những đặc điểm sau:
+ Phạm vi tác dụng: đức trị có phạm vi tác dụng hơn là pháp trị
+ Tính chất che dấu: đức trị không bộc lộ tính tàn khốc như là pháp trị
+ Tính chất tuỳ tiện: đức trị không quy định rõ ràng về các tiêu chuẩn
như pháp trị, khuyên người ta “nên” hơn là yêu cầu người ta “phải”.

+ Chính sách tranh thủ trái tim: đức trị chủ trương làm cho người ta
phục hơn là làm cho người ta sợ.
+ Nêu gương chứ không nêu luật: đức trị chủ trương người trên phải làm
gương cho người dưới phải noi theo chứ không phải là tuyên truyền pháp luật.
+ Sức mạnh của lòng nhân ái: nhân ái có sức mạnh vô địch hơn cả sức
mạnh của trí tuệ và sức mạnh của lưỡi gươm.
+ Ngòai ra, do bản thân pháp luật là bình đẳng (ít ra cũng bình đẳng
trước pháp luật) thế nhưng trong XH đẳng cấp như xã hội phong kiến thì làm sao thực
hiện được điều đó. Đẳng cấp trên làm sao chịu ngang hàng với đẳng cấp dưới trước
pháp luật.
B) Nội dung học thuyết “Pháp trị”
Pháp trị là hệ thống lý luận về sự cai trị XH bằng pháp luật với sự thống
nhất giữa pháp luật, quyền lực và thủ đoạn.
Pháp trị bắt đầu từ Tuân Tử nhưng Hàn Phi mới là kiến trúc sư chủ yếu,
có hệ thống. Pháp trị được đề cao ở thời Tần Thủy Hoàng với thời gian ngắn ngủi và
không có vị trí đáng kể trong lịch sử phong kiến Trung Quốc cũng như trong các nước
phương Đông.
+ Các nhà pháp trị cho rằng sử dụng nhân nghĩa không thể trị quốc được mà phải sử
dụng pháp luật mà pháp luật ấy là sự thống nhất giữa pháp luật với quyền lực và thủ
đoạn trong đó pháp luật là gốc còn quyền lực và thủ đoạn là điều kiện để thực hành
pháp luật.
+ Pháp luật là của chung mọi người đều phải tuân theo, phải công bằng vô tư làm cho
số đông không được ức hiếp số ít và kẻ mạnh không được ức hiếp kẻ yếu.
+ Pháp luật phải thay đổi theo thời thế, thời thế thay đổi mà pháp luật không thay đổi
thì XH sẽ loạn.
Hàn Phi: “sống ở thời này mà sử dụng biện pháp của thời khác đó không phải là
phong cách sử xự của người trí”
(Việt Nam : “ăn theo thuở, ở theo thời”)
+ Pháp trị cho rằng bản chất của con người là xấu “ác”, con người vốn sinh ra đã
mang đầy tính tham lam, ích kỷ. Do đó thường xâm phạm lẫn nhau. Vậy XH muốn

tồn tại thì không thể không có pháp luật.
Pháp trị tôn sùng sức mạnh của quyền lực chứ không tôn sùng sức mạnh
của đạo đức. Hàn Phi không tán dương nhiều về đạo đức nhân ái. Ông cho rằng XH
thịnh trị không phải nhờ vào lòng nhân ái. Nhân ái không phải là chất keo để gắn mọi
người lại với nhau và cũng không phải là chất kích thích để động viên mọi người vì
nhà nước phong kiến. Dân sở dĩ làm việc phụng sự nhà nước không phải vì nhà nước
yêu thương dân cũng như dân thương nhà nước mà chỉ là do dân sợ thế lực nhà nước
mà thôi. Chính nhờ sự thực thi pháp trị nên nhà tần trở thành nước hùng mạnh tóm thu
giang sơn về một mối.
+ Sức mạnh tổng hợp của PHÁP-THUẬT-THẾ: đây chính là phương pháp giáo của
học thuyết.
PHÁP: tinh thần cơ bản của pháp trị là pháp bất vị thân. Pháp luật
không phân biệt người trên hay kẻ dưới.
Chấp nhận tính tàn bạo của pháp luật.Tính tàn bạo tất yếu để đảm bảo cho sự tồn tại
của chính quyền.
Nội dung chủ yếu của “pháp” có thể quy về 2 khái niệm chủ yếu là
“thưởng” và “phạt”.
- Thực hành pháp trị tất phải xây dựng pháp luật. Hàn Phi cho rằng, lập pháp
cần phải xét đến các nguyên tắc sau:
- Tính tư lợi. Hàn Phi quan niệm nền tảng của quan hệ giữa con người với con
người là tư lợi, ai cũng muốn giành cái lợi cho mình. “Ông thầy thuốc khéo hút
mủ ở vết thương người ta, ngậm máu người ta không phải vì có tình thương cốt
nhục, chẳng qua làm thế thì có lợi. Cho nên, người bán cỗ xe làm xong cỗ xe
thì muốn người ta giàu sang. Người thợ mộc đóng xong quan tài thì muốn
người ta chết non. Đó không phải vì người thợ đóng cỗ xe có lòng nhân, còn
người thợ đóng quan tài không phải ghét người ta, nhưng cái lợi của anh ta là ở
chỗ người ta chết”. Luật pháp đặt ra thì cái lợi của nó phải lớn hơn cái hại.
- Hợp với thời thế. Đây chính là thuyết biến pháp của Hàn Phi. Nguyên tắc
thực tế của việc xây dựng pháp luật, hay tính thực tiễn của luật pháp, là nét nổi
bật trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi. Đối với ông, không có một pháp luật

siêu hình hay một mô hình pháp luật trừu tượng tiên thiên để mà noi theo. Chỉ
duy nhất có yêu cầu và tiêu chuẩn của thực tiễn. “Pháp luật thay đổi theo thời
thì trị; việc cai trị thích hợp theo thời thì có công lao Thời thế thay đổi mà
cách cai trị không thay đổi thì sinh loạn Cho nên, bậc thánh nhân trị dân thì
pháp luật theo thời mà thay đổi và sự ngăn cấm theo khả năng mà thay đổi”.
- Ổn định, thống nhất. Mặc dù pháp luật phải thay đổi cho hợp với thời thế,
song trong một thời kỳ, pháp lệnh đã đặt ra thì không được tùy tiện thay đổi
(“số biến pháp”), vì nếu vậy thì dân chúng không những không thể theo, mà
còn tạo cơ hội cho bọn gian thần.
- Phù hợp với tình người, dễ biết dễ làm.
- Đơn giản mà đầy đủ.
- Thưởng hậu phạt nặng.
- Đối với việc chấp pháp, nguyên tắc của Hàn Phi là:
- Tăng cường giáo dục pháp chế, tức là “dĩ pháp vi giáo”.
- Mọi người, ai ai cũng bình đẳng trước pháp luật, tức “pháp bất a quý”, “hình
bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu”. Đến bản thân bậc quân chủ – nhà
vua – cũng phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật: “Kẻ làm vua chúa là kẻ phải
giữ pháp luật, căn cứ vào kết quả mà xét để lập công lao”.
Nếu nhà vua biết bỏ điều riêng tư, làm theo phép công thì chẳng những
dân sẽ được yên, mà nước cũng được trị. Nếu xét theo ý nghĩa của những luận điểm
này thì có thể thấy rằng, mặc dù Hàn Phi chủ trương quân quyền thần thánh không thể
xâm phạm, song hình thái quân quyền này vẫn bị chế ước bởi pháp quyền.
- Nghiêm khắc cẩn thận, “tín thưởng tất phạt”, không được tùy ý thưởng cho người
không có công, vô cớ sát hại người vô tội.
- Dùng sức mạnh đạo đức hỗ trợ cho việc thi hành pháp luật. Hàn Phi chủ
trương
THUẬT: Đối với Hàn Phi, “thuật” chính là một loạt các phương pháp,
những thủ đoạn để cai trị, bổ nhiệm, miễn nhiệm, thi cử, thưởng phạt của nhà vua.
Trong đó, phép hình danh là một thuật không thể thiếu được của bậc quân chủ. Với
cách nhìn như vậy thì “pháp” và “thuật” gắn bó chặt chẽ với nhau: “Nhà vua không có

thuật trị nước thì ở trên bị che đậy; bầy tôi mà không có pháp luật thì cái loạn sinh ra ở
dưới. Hai cái không thể thiếu cái nào, đó đều là những công cụ của bậc đế vương”.
Pháp gia không phân biệt phương pháp nào tốt xấu mà phương pháp nào
thực hiện được làm cho mọi người tuân theo là tốt (pháp gia chỉ quan tâm đến thành
đạt)
THẾ:. “Thế” còn được gọi là “quyền thế”, “uy thế”, “thế trọng”, nó chỉ một
sức mạnh quyền uy tuyệt đối, cũng chính là quyền thống trị tối cao của ông vua, bao
gồm quyền sử dụng người, quyền thưởng phạt, v.v Hàn Phi cho rằng, chỉ khi nào
nắm quyền thống trị trong tay, thì một người nào đấy mới là kẻ thống trị, mới có thể
cai trị dân chúng. Trong thiên “Bát kinh”, ông viết: “Cái thế là cơ sở để thắng đám
đông” (Thế giả, thắng chúng chi tư dã). Để yên ổn trị nước, bậc quân chủ tất phải nắm
giữ quyền thế.
Hàn Phi quan niệm rất rõ ràng những điểm trọng yếu về thế:
- Vua không được cho bề tôi mượn quyền thế.
- Vua không được dùng chung quyền thế với bề tôi.
- Cần sử dụng thuật thưởng phạt để củng cố quyền thế.
- Vua phải duy trì địa vị độc tôn của mình, không được để bề tôi quá quý hiển,
đề phòng đại thần tiếm quyền. Vì vậy, nếu chỉ xét về bản thân vị vua, thì “thế” là cái
cốt lõi nhất, quan trọng nhất, còn “pháp” và “thuật” chỉ là công cụ. Sử dụng “pháp”,
“thuật”, “thế” cốt yếu là để tăng cường sức mạnh của tập quyền quân chủ, tạo nên bối
cảnh chính trị “việc tuy ở bốn phương song then chốt ở tại trung ương, thánh nhân
nắm giữ cái chủ yếu, bốn phương đến phục dịch” (sự tại tứ phương, yếu tại trung
ương, thánh nhân chấp yếu, tứ phương lai hiệu. “Hàn Phi tử. Dương quyền”). Từ đó,
góp phần tạo ra một xu thế lịch sử cho việc xây dựng một nhà nước trung ương tập
quyền phong kiến thống nhất.
Hàn Phi cho rằng: PHÁP và THUẬT chung quy là nhằm mục đích củng
cố chính quyền tức là củng cố THẾ. Thi hành pháp lệnh và giữ gìn thế lực thì thịnh trị,
làm trái pháp lệnh bỏ thế lực thì sẽ loạn. Như vậy sự kết hợp của “pháp – thuật – thế”
là rất quan trọng, vô cùng cần thiết cho việc giáo dục con người.
4)Ưu và nhược điểm

Ưu điểm: Nhờ học thuyết Pháp trị, Tần Thuỷ Hoàng đã chấm dứt cục
diện bách gia phân tranh thời tiên Tần, thống nhất Trung Quốc và xây dựng chế độ
quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền đầu tiên tại Trung Quốc. Pháp trị trở thành
tiêu chuẩn khách quan để đánh giá, phân định phải- trái, tốt – xấu, đúng – sai của hành
vi, pháp là cơ sở để mọi người biết rõ bổn phận, trách nhiệm, là khuôn phép để khen –
chê, thưởng – phạt.
Ý nghĩa tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử tương đối hoàn chỉnh và tiến
bộ so với đương thời, ngày nay vẫn được đánh giá rất cao bởi tính thực tiễn, có thể áp
dụng để xây dựng nhà nước.
Nhược điểm : pháp luật mà Hàn Phi đề cao là thứ pháp luật hà khắc, tàn
bạo, khác xa với pháp luật ngày nay, con người phải vì pháp luật chứ pháp luật không
vì con người, mặt khác, pháp luật dù ở vị trí thượng tôn, trên muôn dân nhưng lại dưới
một người là vua, Hàn Phi Tử đã bỏ qua giá trị nhân văn của con người và độc tôn
pháp luật. Đó là hạn chế của học thuyết pháp trị.
5) Áp dụng học thuyết pháp trị vào Việt Nam:
Như chúng ta được biết, tư tưởng pháp trị vang bóng một thời của Hàn Phi Tử
có cách đây hàng nghìn năm, nhưng với sức lan tỏa rất rộng của nó thì cho đến thời
điểm bây giờ tư tưởng ấy vẫn được áp dụng rất rộng rãi với sức ảnh hưởng rất mạnh
mẽ đến nhiều lĩnh vực khác nhau như pháp luật, chính trị, triết học, xã hội, kinh tế,
quân sự…và đặc biệt là không thể vắng thiếu trong lĩnh vực giáo dục.
Nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công cuộc đổi
mới của nước ta đang trải qua nhiều chặng đường, với từng bước đi thích hợp. Đảng ta
chủ trương phát triển nền “kinh tế tri thức” định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá
trình đó, việc xây dựng một hệ thống giáo dục để đáp ứng yêu cầu xã hội là một việc
làm cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết.
Và để xây dựng hệ thống giáo dục như vậy, đòi hỏi đặt ra những nguyên tắc,
phương pháp nhất định. Giữa 2 loại giá trị khoa học và ý thức hệ, hay cụ thể hơn giữa
các giá trị ý thức hệ và giá trị tư duy độc lập phê phán, có thể có khi mâu thuẫn với
nhau. Các triết lý giáo dục hiện đại giải quyết mâu thuẫn này không phải bằng cách hy
sinh một trong 2 loại giá trị đó mà bằng phương pháp giáo dục khêu gợi tự do tư

tưởng của người học, không áp đặt, không bắt buộc người học phải chấp nhận mà
hướng dẫn để người học tự giác đi đến tiếp thụ nội dung giáo dục, qua việc khuyến
khích người học nêu ra những chỗ mình chưa hiểu, thậm chí không đồng ý (với những
lý lẽ tại sao). Tất nhiên để áp dụng phương pháp giáo dục này, người thầy phải có
trình độ cần thiết tức là phải được đào tạo và tuyển chọn có bài bản. Nhiệm vụ của
người thầy, dù ở bậc học nào, là phải truyền thụ cho người học nội dung giáo dục
đúng theo như đã quy định, nhưng khi làm nghiên cứu khoa học (đối với thầy ở bậc
đại học) thì được tự do đặt và giải quyết vấn đề theo cách hiểu của mình, miễn là tuân
thủ những quy tắc của phương pháp luận khoa học.
Như vậy xét đến cùng, trong bất cứ triết lý giáo dục nào, sứ mạng của giáo dục
đối với người học là phải chuẩn bị cho người học gia nhập và có tác dụng tích cực đối
với một xã hội nhất định nào đó, hoặc là một xã hội chưa có nhưng đang hình thành
như đối với nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, hoặc là một xã hội đang có và đang trong
quá trình phát triển nhiều hay ít, nhanh hay chậm, trên đà hưng thịnh hay suy thoái
như trong các xã hội tư bản chủ nghĩa hiện tại cũng như trước đó.
Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử có nêu lên quan niệm xem pháp luật là công
cụ hữu hiệu nhất. Thì trong giáo dục vẫn có luật riêng dành cho mình ví dụ như luật
giáo dục, luật học sinh sinh viên, luật giáo viên, quy chế tuyển sinh, quy chế nhà
trường, … để tạo ra một chuẩn quy định. Tất cả mọi người căn cứ vào quy định đó mà
thực hiện, cũng như thấy được trách nhiệm của mình, có như vậy thì mới đi vào nề
nếp và thực hiện tốt được.
Như chúng ta được biết, trong tất cả các bậc giáo dục từ mầm non, tiểu học đến
bậc đại học hay sau đại học đều đề ra cho mình những quy định cụ thể và rõ ràng. Một
minh chứng cụ thể đó là ngày 25/4/2010, Bộ GD-ĐT đã tổ chức hội thảo định hướng
xây dựng Luật giáo dục đại học. Giáo dục đại học đang trên đà đổi mới, từ cơ cấu
quản lý đến nội dung đào tạo… Luật giáo dục ĐH ra đời nhằm tạo hành lang pháp lý
cho các hoạt động đổi mới này.
Luật giáo dục Đại học ra đời là một tất yếu trong bối cảnh các trường Đại học
đang chuyển biến mạnh mẽ, từ cơ cấu quản lý, nội dung đào tạo, hợp tác quốc tế, hợp
tác với các doanh nghiệp nhằm đào tạo theo nhu cầu của xã hội…

Bên cạnh đó, sau khi gia nhập WTO, giáo dục Đại học Việt Nam đang chuyển
dần sang từ mô hình cung ứng chuẩn độc quyền sang cung ứng chuẩn thị trường. Đội
ngũ giảng viên chuyển từ vai trò thụ động hiện nay sang vai trò chủ động trong hoạt
động chuyên môn (bao gồm tuyển sinh, xây dựng chương trình, hợp tác quốc tế trong
giảng dạy…)
Với những hoạt động mới mẻ đó, trước sự thay đổi về chất trong giáo dục Đại
học, thì Luật giáo dục ĐH ra đời sẽ tạo ra hành lang pháp lý cho các hoạt động đổi
mới, tạo sự phát triển bền vững ở các lĩnh vực như sử dụng nguồn nhân lực, phương
pháp giảng dạy, đào tạo giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục
Luật sẽ điều chỉnh các nội dung liên quan về giáo dục đại học từ trước đến nay
vốn không đầy đủ, tản mạn, thiếu hệ thống, hiệu lực pháp lý không cao và không phù
hợp.
Bên cạnh đó, vào ngày 29/4/2010, tại Hà Nội, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã
tổ chức hội thảo: "Cơ sở khoa học của việc xây dựng Luật Giáo viên" với sự tham gia
của các chuyên gia giáo dục trong nước và quốc tế. Tại hội thảo, các đại biểu đã cùng
thảo luận về các vấn đề: nhân tố chi phối nội dung Luật Giáo viên, chức danh nhà giáo
đại học, chuẩn nghề nghiệp giáo viên phổ thông với việc nâng cao chất lượng đội ngũ
nhà giáo hiện nay
Theo Phó vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Giáo dục và Đào tạo) Nguyễn Huy
Bằng, cơ sở khoa học để xây dựng Luật Giáo viên dựa trên nhiều yếu tố: cụ thể hoá
các quy định về nhà giáo trong Luật Giáo dục, nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc một số
quy định về giáo viên trong các văn bản luật cũng như kinh nghiệm xây dựng đội ngũ
giáo viên của một số nước có nền giáo dục tiên tiến
Trong hệ thống pháp luật hiện nay của Việt Nam, các quy định trực tiếp liên
quan đến nhà giáo nằm ở nhiều văn bản khác nhau. Văn bản quy định tập trung nhất,
rõ ràng nhất là Luật Giáo dục 2005 cũng chưa "phủ sóng" hết các quan hệ về nhà giáo.
Một số quy định còn chung chung, thiếu rõ ràng như các vấn đề về đạo đức nhà giáo,
chuẩn nghề nghiệp của nhà giáo, chế độ làm việc, chính sách đối với nhà giáo Thậm
chí, khái niệm nhà giáo cũng chưa rõ ràng, chưa phân biệt rõ được sự khác biệt giữa
giảng viên và giáo viên. Do vậy, các đại biểu đề nghị khi xây dựng Luật Giáo viên cần

phải làm rõ những khái niệm căn bản này để nâng cao hiệu quả pháp lý.
GS.TS Đinh Quang Báo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu sư phạm, ĐH Sư phạm Hà Nội
cho rằng, nhiều năm nay chúng ta thực hiện nhiều biện pháp kỷ luật đối với học sinh
như đánh trượt, không cho lên lớp thậm chí đuổi học những học sinh vi phạm đạo đức
nghiêm trọng nhưng ít khi quy trách nhiệm có tính pháp luật cho giáo viên gây ra
những hậu quả đó. Đây là một thiếu sót lớn vì tác động của giáo viên tới học sinh là
rất lớn và giáo viên cần phải có hành vi ứng xử phù hợp để tác động tốt tới học sinh.
Do vậy, thay vì chỉ có chuẩn nghề nghiệp cho giáo viên, Luật Giáo viên cần quy định
cả những tiêu chuẩn đạo đức, chế tài xử phạt đối với những giáo viên vi phạm Luật
Trong học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử cũng nói rõ cho chúng ta thấy: luật
đề ra với những quy định cụ thể để thực thi, nhưng tùy hoàn cảnh thì những nội dung
trên có thể thay đổi. Trong nền giáo dục Việt Nam cũng vậy, luật giáo dục trong mỗi
thời điểm có thể sửa đổi, bổ sung để có thể khắc phục những mặt khuyết thay vào đó
là bổ sung những cái mới để đáp ứng lại yêu cầu của thời đại đặt ra.
Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục được thực hiện theo các quan
điểm chỉ đạo và nguyên tắc sau:
Đường lối, quan điểm của Đảng và các chủ trương, chính sách về giáo dục phải
được quán triệt trong quá trình sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục. Đặc
biệt là các quan điểm về giáo dục đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 2
khoá X, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Thông báo số 242-TB/TW
ngày 15 tháng 4 năm 2009 kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 2 khoá VIII, phương hướng phát triển giáo dục đến năm 2020.
Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục phải xuất phát từ những đòi hỏi
khách quan, lựa chọn những nội dung thực sự cần thiết, tạo cơ sở pháp lý để giải
quyết các vấn đề thực sự bức xúc trong thực tiễn, góp phần tháo gỡ những khó khăn,
vướng mắc trong tổ chức và hoạt động giáo dục và trong công tác quản lý giáo dục,
góp phần đổi mới giáo dục và thực hiện "phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu".
Các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục phải phù hợp,
thống nhất, đồng bộ với quy định của Hiến pháp, các bộ luật và luật hiện hành; phù
hợp với các cam kết và điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.

Giống với học thuyết của Hàn Phi Tử thì trong giáo dục cũng có thưởng và
phạt. Minh chứng cụ thể trong giáo dục như: đối với những giảng viên, giáo viên
trong quá trình công tác của mình nếu có đóng góp cho ngành giáo dục thì sẽ có
những khuyến khích lao động. Ở học sinh, sinh viên cũng thế nếu có tinh thần ham
học hỏi, phấn đấu trong học tập có thành tích cao thì sẽ có những nguồn học bổng cấp
cho các bạn. Dẫu biết rằng, những nguồn khuyến khích ấy có thể là không lớn nhưng
phần nào cũng khích lệ tinh thần cho họ, để họ cảm thấy có sự quan tâm…
Từ yêu cầu xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN và qua tư tưởng pháp
trị của Hàn Phi Tử, chúng ta thấy có khá nhiều tiến bộ có thể áp dụng được, đặc biệt là
vấn đề dùng pháp luật một cách nghiêm minh, đúng đắn, các yêu cầu pháp luật phải
khách quan, pháp luật phải đặt nơi công đường để trăm họ được biết, pháp luật không
bênh người sang, không phân biệt kẻ nghèo khó. Xây dựng nhà nước pháp quyền cần
xác định pháp luật là tối thượng nhưng pháp luật nhà nước ta là do nhân dân đề ra nên
quyền lực thuộc về nhân dân (pháp luật phải phản ánh được chính nguyện vọng của
nhân dân).
Tài liệu tham khảo:
Hàn Phi Tử - tư tưởng và sách lược NXB mũi Cà Mau, tác giả Trí Tuệ.
Sách điện tử: bảy đại triết gia Trung quốc đời Chu – Tần tác giả Ngô Quân.
Triết học Trung Hoa NXB Thế giới (1999) người dịch Phan Ngọc.
Đại cương triết học Trung Quốc, Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, NXB Thanh niên.
Lịch sử giáo dục thế giới, Hà Nhật Thăng và Đào Thanh Âm, NXB giáo dục 1998
/>cat=48&id=344&pcat=&vientriet=articles_deltails
/>Bảng đánh giá
Trần Thị Thu Thúy Nội dung của học thuyết.
Ưu – nhược điểm của học thuyết.
ứng dụng của học thuyết.
tổng hợp bài. Làm ppt
Lê Thị Mến
Sơ lược về Hàn Phi Tử
Tư tưởng của học thuyết

Mục đích của học thuyết
Phạm Thị Liên
Nội dung của học thuyết
So sánh giữa đức trị và pháp trị

×